Nhà thơ Anh Ngọc là một trong những nhà thơ trẻ của văn học việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, là cây bút trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, những tác phẩm dịch của những nhà thơ nước ngoài với rất nhiều tác phẩm, tác giả tạo nên sự phong phú cho nền văn học nước nhà và thế giới.
Giờ điểm hoà bình
Tất cả những dân tộc đau thương trên trái đất này
Hãy nguyện cầu cho cái giờ phút ấy!
Những năm tháng đầu rơi máu chảy
Trên đất này đã tới lúc lùi xa
Những họng súng vẫn còn nóng bỏng
Và cát chưa thấm cạn máu dân lành
Hoà bình tới. Con người ơi, nghỉ chút
Khi bước qua rồi ngưỡng cửa của chiến tranh.
Những đêm không ngủ Бессонница
Бессонница
Торжественный финал похода,
отбой бессонниц и дорог.
У каждого —
четыре года
недосыпаний и тревог.
В своих глазах
в края чужие
несли, как отраженье, мы
огонь сожженных сел России,
пожаров красные дымы.
Полки бессонниц вместе с нами
вошли в Берлин
сквозь Сталинград.
Волжане с красными глазами
под Красным знаменем стоят.
Dịch:
Kết cục huy hoàng của cuộc hành quân
Đã chấm hết cho con đường và những đêm không ngủ
Với mỗi chúng ta
Bốn năm qua
Là dằng dặc lo âu và đói ngủ
Chúng ta mang tới những miền đất lạ
Trong mắt mình như trong tấm gương soi
Ngọn lửa những thôn làng Nga bốc cháy
Với những làn khói đỏ mù trời
Và cứ thế những đêm trường không ngủ
Đã cùng ta hành quân tới Berlin
Qua Stalingrad
Những người dân Vonga mắt đỏ
Đứng nghiêm trang dưới màu cờ đỏ
Ngày chiến thắng, 1945
“Những bà mẹ mồ côi” “Матери сиротеют”
“Матери сиротеют”
Матери сиротеют.
Дети их покидают.
Ты мой ребёнок,
мама,
брошенный мой ребёнок.
1965
Dịch:
Những bà mẹ mồ côi
Lũ con cái đã bỏ rơi các mẹ
Mẹ của con ơi
mẹ chính là đứa bé
bị bỏ rơi.
“Tôi – là cả một gia đình” “Я – семья”
“Я – семья”
Ж.-П. Сартру
Я – семья
во мне как в спектре живут семь «я»
невыносимых как семь зверей
а самый синий
свистит в свирель!
а весной
мне снится
что я – восьмой!
Dịch:
Tặng J.P.Sartre
Tôi – là cả một gia đình
Như trong giải màu quang phổ
Ở trong tôi tồn tại bảy cái “tôi”
Không chịu nổi, như bảy tên ác thú
Tên xanh nhất
đang véo von thổi sáo
Và mùa xuân
Tôi nằm mơ thấy mình
thành tên thứ tám
Bài thơ bóng đá Футбольное
Футбольное
Левый крайний!
Самый тощий в душевой,
Самый страшный на штрафной,
Бито стекол — боже мой!
И гераней…
Нынче пулей меж тузов,
Блещет попкой из трусов
Левый крайний.
Левый шпарит, левый лупит.
Стадион нагнулся лупой,
Прожигательным стеклом
Над дымящимся мечом.
Правый край спешит заслоном,
Он сипит, как сто сифонов,
Ста медалями увенчан,
Стольким ноги поувечил.
Левый крайний, милый мой,
Ты играешь головой!
О, атака до угара!
Одурение удара.
Только мяч,
мяч,
мяч,
Только — вмажь,
вмажь,
вмажь!
“Наши — ваши” — к богу в рай…
Ай!
Что наделал левый край!..
Мяч лежит в своих воротах,
Солнце черной сковородкой.
Ты уходишь, как горбун,
Под молчание трибун.
Левый крайний!
Не сбываются мечты,
С ног срезаются мячи.
И под краном
Ты повинный чубчик мочишь,
Ты горюешь
и бормочешь:
“А ударчик — самый сок,
Прямо в верхний уголок!”
1982
Dịch:
Tả biên!
Gày gò thôi nhưng chính đấy linh hồn
Những quả đá phạt khủng khiếp
Sắc như kính vỡ – lạy trời!
Cả từng ngọn cỏ…
Như đường đạn lao giữa đám anh tài
Rực sáng lên giữa những bóng quần đùi
Tả biên
Cánh trái sục sôi, cánh trái đầy sóng gió
Cả khán đài chú mục ống nhòm
Những chiếc ống nhòm bén lửa
Trên trái ban bốc khói
Hữu biên lao lên yểm trợ
Như trăm vòi nước, anh rít giọng khàn khàn
Người đem về trăm tấm huân chương
Chặn đứng bao bàn chân dũng mãnh
Tả biên, tả biên thân yêu
Anh đánh đầu!
Ôi trận đấu đã đến giờ cuồng nhiệt
Những cú sút mê ly
Chỉ có bóng,
bóng,
bóng,
Chỉ có – bám,
bám,
bám!
“Bên ta – bên họ” – lạy Chúa ở trên trời!…
Kìa!
Tả biên đã hành động!
Trong khung thành đã nằm yên trái bóng
Vầng mặt trời chiếc chảo màu đen
Ngươi lăn đi, như thằng gù
Giữa những khán đài lặng ngắt
Tả biên…
Những mơ ước chưa thành
Trái bóng đã rời chân
Và ngâm mình trong nước
Vò túm tóc như tóm thằng tội phạm
Vẫn chưa nguôi bốc máu
miệng lầm rầm:
“Phải tấn công – chơi đòn quyết liệt,
Bắn thẳng vào góc cao!”
Đêm Ночь
Ночь
Сколько звезд!
Как микробов
в воздухе.
1960
Dịch:
Có bao nhiêu là sao trên trời
Như thể vi trùng
trong không khí
Gôia
Я – Гойя!
Глазницы воронок мне выклевал ворон,
слетая на поле нагое.
Я – Горе.
Я – голос
Войны, городов головни
на снегу сорок первого года.
Я – Голод.
Я – горло
Повешенной бабы, чье тело, как колокол,
било над площадью голой…
Я – Гойя!
О, грозди
Возмездья! Взвил залпом на Запад –
я пепел незваного гостя!
И в мемориальное небо вбил крепкие звезды –
Как гвозди.
Я – Гойя.
1959
Tôi là Gôia
Bọn giặc khoét vào tôi những hố mắt – hố bom rơi xuống trên cánh đồng trơ trụi
Tôi hoá nỗi đau
Tôi thành giọng nói
Của chiến tranh, đám cháy phố phường trên tuyết năm bốn mốt
Tôi là cái cổ
Của những người đàn bà bị treo như chiếc chuông trên quảng trường, thân xác loã lồ…
Tôi là Gôia
Ôi, những đòn trừng phạt!
Những loạt đạn lao về phía Tây
Tôi là tro than những đám khách không mời!
Và những vì sao vững chãi đóng lên nền trời bia đá
Như những chiếc đinh.
Tôi là Gôia
Mẹ nói Говорит мама
Говорит мама
Когда ты была во мне точкой
(отец твой тогда настаивал),
мы думали о тебе, дочка,—
оставить или не оставить?
Рассыпчатые твои косы,
ясную твою память
и сегодняшние твои вопросы:
«оставить или не оставить?»
Từ khi còn là cái chấm nhỏ nhoi
(Cha con bấy giờ cứ đòi mãi không thôi)
Cha mẹ đã nghĩ về con, con gái-
“Tồn tại hay là không tồn tại!”
Bím tóc con giờ yếu ớt mong manh
Kỷ niệm về con lại rất rõ ràng
Hôm nay vẫn đặt trước con câu hỏi:
“Tồn tại hay là không tồn tại?”
Năm mới ở Rôm Новый год В Риме
Новый год В Риме
Рим гремит, как аварийный
отцепившийся вагон.
А над Римом, а над Римом
Новый год, Новый год!
Бомбой ахают бутылки
из окон,
из окон,
ну, а этот забулдыга
ванну выпер на балкон.
А над площадью Испании,
как летающий тарел,
вылетает муж из спальни —
устарел, устарел!
В ресторане ловят голого.
Он гласит: «Долой невежд!
Не желаю прошлогоднего.
Я хочу иных одежд».
Жизнь меняет оперенье,
и летят, как лист в леса,
телеграммы,
объявленья,
милых женщин адреса.
Милый город, мы потонем
в превращениях твоих,
шкурой сброшенной питона
светят древние бетоны.
Сколько раз ты сбросил их?
Но опять тесны спидометры
твоим аховым питомицам.
Что ещё ты натворишь?!
Человечество хохочет,
расставаясь со старьём.
Что-то в нас смениться хочет?
Мы, как Время, настаём.
Мы стоим, забыв делишки,
будущим поглощены.
Что в нас плачет, отделившись?
Оленихи, отелившись,
так добры и смущены.
Может, будет год нелёгким?
Будет в нём погод нелётных?
Не грусти – не пропадём.
Будет, что смахнуть потом.
Мы летим, как с веток яблоки.
Опротивела грызня.
Но я затем живу хотя бы,
чтоб средь ветреного дня,
детектив глотнувши залпом,
в зимнем доме косолапом
кто-то скажет, что озябла
без меня,
без меня…
И летит мирами где-то
в мрак бесстрастный, как крупье,
наша белая планета,
как цыплёнок в скорлупе.
Вот она скорлупку чокнет.
Кем-то станет – свистуном?
Или чёрной, как грачонок,
сбитый атомным огнём?
Мне бы только этим милым
не случилось непогод…
А над Римом, а над миром —
Новый год, Новый год…
…Мандарины, шуры-муры,
и сквозь юбки до утра
лампами сквозь абажуры
светят женские тела.
Dịch:
Cả thành Rôm vang rền
Như thể toa tàu bị phá tung ra sửa lại
Và trên thành Rôm, trên khắp thành Rôm
Năm mới đến kia rồi, Năm mới!
Những cái chai rít lên như bom
Bay ra từ những khung cửa sổ
Còn kia cả một cái bồn tắm nữa
Lão say nào hất xuống ban công
Và trên quảng trường Tây Ban Nha, một ông chồng
Như một chiếc đĩa bay, bay ra từ buồng ngủ
Có gì đâu
y đã già lụ khụ
Trong quán ăn một kẻ trần truồng
Đang lớn tiếng: “Đả đảo đồ ngu ngốc!
Tôi cóc cần những áo quần năm trước
Hãy đưa tôi những thứ khác mới tinh”
Cuộc sống thay màu những bộ lông chim
Phấp phới bay như lá ở trong rừng
Những bức điện
những lời tuyên bố
Và địa chỉ của các cô các mợ
Thành phố thân yêu, chúng tôi đang đắm chìm
Trong sự đổi thay cùng cực
Những bức tường cổ xưa sáng rực
Sau những bộ da lông thú ngổn ngang
Đã bao lần ngươi ném chúng ra đường?
Lại chồng chất đủ thứ đồng hồ đo tốc độ
Dành cho lũ thần dân hư hỏng của ngươi
Ngươi còn tạo thêm gì vào đấy nữa?
Nhân loại phá lên cười
Chia tay cùng cái cũ
Có gì đó trong ta đòi thay đổi?
Như thời gian, chúng ta cũng bắt đầu
Chúng ta đứng lặng im, quên hết mọi điều
Để tương lai ùa về đầy ắp
Có gì đó trong ta than khóc
não nề trước lúc ra đi?
Con hươu cái đang giờ trở dạ
Tốt đấy, nhưng tránh sao vật vã
Có thể một năm rồi chẳng dễ dàng gì?
Thời tiết xấu máy bay không bay được?
Nhưng chúng ta chẳng đi đâu mà mất
Buồn làm chi, tất cả lại sinh thành
Chúng ta bay như trái táo lìa cành
Thôi đủ rồi những trò cãi vã
Tôi sẽ sống mai đây dù chỉ để
Giữa một ngày gió mưa
Nằm ngốn ngấu mấy pho kiếm hiệp
Trong căn nhà mùa đông cô gái nào giá rét
Thốt kêu lên vụng về
Mà vắng tôi
vắng tôi
Và cả thế giới này cũng đang bay về đâu
Vào màn đêm vô hồn như mặt lão chủ hồ sòng bạc
Và hành tinh trắng lạnh của chúng ta
Như con gà con nằm trong vỏ trứng
Nó đang mổ kia kìa, sắp vỡ toang lần vỏ cứng
Cái gì sẽ sinh ra – Một chú nhóc rít như còi?
Hay lại là một chú quạ đen thui
Rơi xuống giữa lò lửa hồng nguyên tử?
Đối với tôi chỉ điều này đáng giá
Đất trời đừng gió mưa
Và trên thành Rôm, và trên toàn thế giới
Năm mới đến kia rồi, Năm mới
Những quả quýt lăn tròn
Qua những gấu váy đến sang đêm
Những bóng đèn
sau chiếc chao đèn
Đang toả sáng những thân hình phụ nữ
1/1/1963
Người đàn bà dạo tháng tám Женщина в августе
Женщина в августе
Присела к зеркалу опять,
в себе, как в роще заоконной,
всё не решаешься признать
красы чужой и незнакомой.
В тоску заметней седина.
Так в ясный день в лесу по-летнему
листва зелёная видна,
а в хмурый – медная заметнее
1971
Lại soi mình lặng lẽ trước gương
Như ngắm nghía cánh rừng ngoài cửa sổ
Vẫn bàng hoàng như chưa dám nhận ra
Cái nhan sắc sao ngỡ ngàng xa lạ
Bởi lòng buồn đầu bạc ngỡ bạc thêm
Như cánh rừng buổi đẹp trời ngày hạ
Tán lá xanh càng xanh ngời sắc lá
Mà buổi âm u – sao chỉ thấy một màu chì.
Quạ, từng bầy quạ “Вороны, вороны”
“Вороны, вороны”
«Умирайте вовремя.
Помните регламент…»
Вороны,
вороны
надо мной горланят.
Ходит, как посмешище,
трезвый несказанно,
Есенин неповесившийся
с белыми глазами…
Обещаю вовремя
выполнить завет —
через тыщу
лет!
Quạ
từng bầy quạ
Trên đầu tôi thét gào:
“Hãy nhớ lấy luật đời
Phải chết cho đúng lúc”
Và Êxênhin, Êxênhin
Đi như kẻ bị đời nhạo báng
Chẳng chút hơi men, tỉnh táo tuyệt vời
Một Êxênhin chẳng hề tự treo cổ
Với đôi mắt trắng dã
Và tôi xin hứa, tôi xin hứa
Sẽ thực hiện lời di chúc
Rất đúng lúc
Bất chấp tháng năm!
1964
Mặt trời của lính
Солдатское солнышко – месяц
Солдатское солнышко – месяц,
Осенняя черная ночь…
Довольно. Подохнешь без песен,
Не нам воду в ступе толочь.
Любовь стала проще и строже,
И ненависть трижды сильней.
За тех, кто до этого дожил,
Как пили отцы наши, – пей!
Нелегок наш путь, не изведан,
Но кто, мне скажите, когда
Сказал, что приходит победа
В терновом венке без труда?
Нам жить – не тужить! Но без песен
Душа ни к чему не лежит.
Солдатское солнышко – месяц
Над нашей землянкой горит.
1945
Mặt trời của lính chính là vầng trăng
Đêm mùa thu bát ngát…
Có hề gì. Lính tráng chẳng hoài công
Chịu chết lặng mà không lên tiếng hát
Tình yêu hoá khắt khe và giản dị
Còn nỗi căm thì ào ạt không cùng
Vì những ai tới giờ còn sống được
Nào uống đi! Như ngày trước cha ông
Con đường chưa quen, con đường không bằng phẳng
Nhưng có ai đâu và có khi nào
Vinh quang tới mà không cần phấn đấu
Chiến thắng mà không trải những gian lao?
Sống có gì đâu! Nếu đời không tiếng hát
Tâm hồn ta nào biết sẽ về đâu
Và vầng trăng chính mặt trời của lính
Soi hầm sâu rực sáng mãi trên đầu
Độc thoại Marylin Monroe/ NXB Văn học, 1997
Còn rất nhiều những tác phẩm dịch thơ của các tác giả nước ngoài mà chúng tôi chưa thể đề cập hết được. Nếu bạn là một người yêu thích nhà văn Anh Ngọc, yêu thích những bài thơ sáng tác của ông cùng để lại chia sẻ của mình qua phần bình luận bên dưới nhé.
Theo Thuvientho.com