Nào! Bây giờ chúng ta cùng đón chờ những bài thơ nôm hấp dẫn và đầy ấn tượng của Cao Bá Quát. BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 8 đã để lại cho chúng ta những cảm xúc sâu sắc. Hãy đón xem phần còn lại của kho tàng thơ đồ sộ này nhé!
“Quan ngơi”
Một buổi hầu rồi một buổi ngơi,
Đâu còn nhớ chữ “viễn phương lai”.
Mới sang chừng ấy ngơi chừng ấy,
Sang nữa thì ngơi biết mấy đời.
Cao Bá Quát hồi dạy học, từ xa đến thăm bạn cũ hiện đang làm chức tri huyện. Viên huyện này tính đã bắt đầu hợm hĩnh, cho lính ra trả lời là “quan đang ngơi”, thực ra là hắn vẫn thức mà không muốn tiếp ông bạn hàn vi. Cao Bá Quát nhân đó làm bài này tỏ ý bất bình, đưa người lính cầm vào cho viên tri huyện rồi bỏ đi.
Theo Việt Nam ca trù biên khảo, viên quan huyện không biết là ai, khi xem thơ mới biết là Cao Bá Quát, liền sai lính ra mời vào, nhưng Cao Bá Quát đã đi rồi.
Bà Nguyễn Thị Kim
Triều Lê quý có nàng tiết liệt,
Hai mươi năm những hận thù Tây.
Đem tàn dung nương chốn am mây,
Đạo thần tử tình trong phu phụ.
Vạn cổ di luân chiêu vũ trụ,
Nhất xoang trung nghĩa đáp quân vương.
Nặng hai vai một gánh cương thường,
Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.
Đã nên đấng trung thần bất nhị,
Lại nên tài liệt nữ bất canh.
Rõ ràng hai chữ trung trinh.
Câu đối dán nơi nhà dạy học
Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng
Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng
II
Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi
Phủ lỵ Quốc Oai, Sơn Tây, nơi cuối cùng của vua quan nhà Nguyễn đã thải ông ra khỏi viện hàn lâm của triều đình Huế, cho đi làm chức giáo thụ. Ông đến bước đường cùng lại quay về nghề gõ đầu dăm ba đứa trẻ kiếm sống, sau bao năm lận đận, mang hoài bão cống hiến tài năng cho dân cho nước. Hai câu đối được viết trong thời gian này.
Theo Thơ văn Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh Khôi, NXB Văn học, 1984.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Đắp voi
Khen ai khéo khéo đắp đôi voi,
Đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi.
Chỉ có cái kia… sao chẳng thấy?
Hay là thầy lý bớt đi rồi?
Cao Bá Quát thời tuổi trẻ rất thích làm người ta buồn cười (Thiếu niên dư tối giải nhân di). Làng ông bỏ tiền quyên góp giao cho lý trưởng đắp lại đôi voi phục trước cửa đình đã bị hư hoại. Lý trưởng nhân dịp này bớt xới đi nên đôi voi đắp xấu hơn trước nhiều. Ông đến xem thấy thế bèn nhặt gạch non đề lên tường đình bài thơ này.
Theo “Thơ văn Cao Bá Quát”, Nguyễn Bỉnh Khôi, NXB Văn học, 1984.
Đến làng Đông Du, đêm ngủ dỗ
Đầu sông đứng ngóng quê hương
Quê hương đâu phải dặm trường xa xôi,
Cớ sao mãi chẳng tới nơi,
Vừa đi vừa đứng bồi hồi làm sao?
Thiếu người cáng võng, phải đâu
Cũng không chờ đợi bạn bầu những ai.
Từ khi vướng lấy luỵ đời
Nửa bầu máu nóng nhường vơi vơi dần.
Đường đời biển ảo phong vân
Việc đời ấm lạnh bao lần đổi thay
Mũ treo còn chửa hẹn ngày,
Cổng sài nào biết sau này nơi nao!
Nghiệp xưa vườn ruộng dăm sào
Rêu hoang cỏ dại ai nào ngó coi!
Họ hàng người cũng thưa rồi
Bữa cơm dưa muối thết mời vẫn chưa.
Biệt ly biết đến bao giờ!
Thà im im bắt, nói ra ngại lời
Trời tây bóng đã xế rồi
Vẫn còn nấn ná quê người một thân
Sách Cao Bá Quát toàn tập (Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học) không có bài này.
Giai nhân bài 1
Trót yêu hoa nên gian díu với tình.
Mái tây hiên nguyệt gác chênh chênh,
Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ.
Phong lưu tài tử đa xuân tứ,
Trường đoạn Tiêu nương nhất chỉ thư.
Nước sông Tương một dải nông sờ,
Cho kẻ đấy, người đây mong mỏi!
Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi!
Chữ chung tình biết nói cùng ai?
Trót vì gắn bó một hai!
Tiêu đề bài này có bản chép là Tự tình, hay Giai nhân nan tái đắc. Văn đàn bảo giám chép tác giả bài này là Dương Khuê.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Giai nhân bài 2
Tài tử với giai nhân là nợ sẵn,
Giải cấu nan chữ ẫy nghĩa là sao?
Trải xưa nay chừng đã xiết bao,
Kìa tan hợp, nọ khứ lưu, đâu dám chắc.
Giai nhân khứ khứ hành hành sắc,
Tài tử triêu triêu mộ mộ tình.
Ủa kìa ai: như mây tuôn như nước chảy, như gió mát, như trăng thanh.
Lơ lửng khéo trêu mình chi mãi mãi.
Trời đất có san đi mà sẻ lại,
Hội tương phùng còn lắm lúc về sau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau.
Hơn nhau một chữ thì
Chẳng lưu lạc dễ trải mùi trần thế,
Còn trần ai khôn tỏ mặt công hầu.
Ngất ngưởng thay con Tạo khéo cơ cầu,
Muốn đại nhiệm hãy dìm cho lúng túng.
Thân hệ bang gia chung hữu dụng,
Thiên sinh hào kiệt bất ưng hưu.
Hãy bền lòng, chớ chút oán vưu,
Thời chí hĩ, ngư long biến hoá.
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả,
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chi.
Hơn nhau cũng một chữ thì.
May rủi
Một rủi một may là máy tạo,
Dù khôn dù dại cũng bia trần.
Việc đã rồi nghĩ lắm lại thêm đần,
Liếc gươm trí cắt giặc phiền từ đó.
Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ,
Ngồi rù uống rượu với con chơi.
Mô phạm dăm ba đứa mũi chưa chùi,
Tiêu khiển mấy cô đào mới nỏi.
Ngoài tai ấy tha hồ ai gọi,
Rằng ngựa trâu vâng cũng ngựa trâu.
Nào đâu đã hẳn hơn đâu.
Mùi thơ thi xã
Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An.
Tương truyền trong thời gian làm một chức quan nhỏ ở Bộ lễ, tác giả được xem thơ của một thi xã do nhiều thi sĩ chủ trương: Tùng Thiện Vương, Hà Tôn Quyền,… Đõ thơ của thi xã, ông lắc đầu, bịt mũi và ngâm hai câu này.
Nguồn: Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953
Nghĩ tiếc cho ai
Giá đã nên nhất tiếu khuynh thành.
Thương cho tài mà lại tiếc cho tình,
Chen chúc kiếp phù sinh chi mãi tá!
Ngã diệc tri phi ninh tác ngã,
Nhân vô bất thị thả khan nhân.
Trường thị phi trót đã chen chân,
Thôi đã biết chuyện xa gần là thế thế.
Thoi thấm thoát bóng dâu vừa xế,
Mới ngày nào mái tóc chấm ngang vai.
Cuộc đời nghĩ tiếc cho ai!
Tương truyền cô đào ở Bắc Ninh là nàng hầu của ông Nguyễn Văn Khái, một vị quan đương thời. Nhân tiệc cưới này, mến tài thơ ông Quát, có mời lại dự tiệc rượu. Trong tiệc vui, ông Khái bảo ông làm một bài hát để đào nương ca. Ông làm bài này tặng cô đào.
Nhân sinh thấm thoát
Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày.
Như chiêm bao, như bóng sổ, như gang tay,
Sực nhớ chữ “cổ nhân bỉnh chúc”.
Cao sơn lưu thuỷ, thi thiên trục,
Minh nguyệt thanh phong, tửu nhất thuyền.
Dang tay người tài tử khách thuyền quyên,
Chén rượu thánh, câu thơ thần thích chí.
Thành thị ấy, mà giang hồ ấy,
Ðâu chẳng là tuyết, nguyệt, phong, hoa.
Bốn mùa xuân lại, thu qua.
Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004
Núi cao trăng sáng
Đã chơi trăng nên phải biết tình trăng.
Sơn chi thọ đối nguyệt chi hằng,
Sơn có nguyệt càng thêm cảnh sắc.
Nguyệt quải hàn sơn thi bán bức,
Sơn hàm minh nguyệt tửu thiên tôn.
Trăng chưa già, núi hãy còn non,
Núi chửa khuyết trăng vẫn tròn với núi.
Rượu một bầu, thơ ngâm một túi,
Góp gió trăng làm bạn với non sông.
Núi kia tạc để chữ đồng,
Trăng kia nhớ mặt anh hùng này chăng.
Xinh thay kìa núi, nọ trăng.
Tài hoa là nợ
Thương những kẻ giai nhân tài tử,
Trót đa mang vì một chữ tình.
Nghĩ nguồn cơn thẹn với trời xanh,
Tưởng nông nỗi giận cùng trăng bạc.
Tương tiếu nhất thanh song lệ lạc,
Khả liên bán điểm thấp châu huyền.
Trách vì phận lại giận vì duyên,
Duyên phận những vì tình nên nông nỗi.
Dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối,
Vần ruột tằm lắm mối càng đau.
Tương tư ai để cho nhau.
Tài tử đa cùng phú
Có một người:
Khổ dạng trâm anh;
Nết na chương phủ.
Hoi miệng sữa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương!
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó.
Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn!
Bút vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.
Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng, chí xông pha nào quản chông gai!
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình, Chu, tài bay nhẩy ngại gì lao khổ!
Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên;
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng hoạ thì thầm Lão Đỗ.
Tươi nét mặt thư sinh lồ lộ, bưng mặt trần toan đạp cửa phù đồ;
Rửa buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay Tạo rắp xoay cơn khí số.
Tưởng đến khi vinh hiển coi thường;
Song nghĩ lại trần ai đếch chỗ.
Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con co chiếc chiếu loi thoi, đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ.
Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.
Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.
Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn thức nhắp mái nam song, dăm ba ngọn lửa huỳnh khêu nho nhỏ.
Miệng châu quế rì rầm học vấn, chị chú Tô cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo;
Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi băn khoăn từng kể khó.
Đói rau rừng, thấy thóc Chu mà trả, đá Thú Dương chơm chởm, xanh mắt Di nằm tót gáy o o;
Khát nước sông, trông dòng đục không vơ, phao Vị Thuỷ lênh đênh, bạc đầu Lã ngồi dai ho lụ khụ.
Trông ra nhấp nhố sóng nhân tình;
Ngoảnh lại vật vờ mây thế cố.
Ngán nhẽ kẻ tham bề khoá lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn;
Quản bao người mang cái giàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.
Khéo ứng thù những đám quan trên;
Xin bái ngảnh cùng anh phường phố.
Khét mùi thế vị chẳng thà không!
Thơm nức phương danh nên mới khổ.
Tình uốn éo muốn vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chử Đồng đâu tá, nỡ hoài chén ngọc để trần ai;
Trí lăng nhăng toan vượt bể đi tu, hỏi quê Tiên tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế độ.
Bài phú Dương Hùng dù nghiệm tá, thì xin tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài;
Câu văn Hàn Dũ phỏng thiêng chăng, thì xin tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú.
Nhọc nhằn cơn nhục mát cơn vinh;
Cay đắng lúc cùng bù lúc phú.
Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:
Đừng thấy người bạch diện thư sinh;
Mà cười rằng “đa cùng tài tử”.
Thanh nhàn là lãi
Kiếp phù sinh vinh nhục, nhục vinh,
Liếc mắt đám mây trôi mấy chốc.
Con tạo vật bắt đeo râu tóc,
Nợ tang bồng phải giả mới là giai.
Mảnh áo xiêm buộc lấy cái hình hài,
Ngoài nghìn dặm chửa chồn chân ngựa ký.
Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị,
Phú quý bách niên năng kỷ hà.
Hội công danh nhớn nhỏ cũng là,
Thôi mặn nhạt đã trải qua mùi thế.
Tìm thú cũ hỏi thăm sơn thuỷ,
Chén hoàng hoa ngồi lắng ngọn thu phong.
Thảnh thơi một giấc bắc song.
Thất tịch
Chẳng biệt ly ai dễ biết chữ tình,
Hỏi Ô Thước doành Ngân khơi mấy dặm?
Ngao ngán nhẽ rẽ bảng vàng phai nét gấm,
Ngậm ngùi thay chênh bóng quế chếch giương thu.
Nhãn xuyên trường đoạn vị Khiên Ngưu,
Mười hai tháng mới đêm nay là thất tịch.
Cung nguyệt gác đầu non chênh chếch,
Lũ hồng nhan còn ngất nghểu trên lầu.
Giọt lay thay trận mưa ngâu.
Thế sự nổi chìm
Ai công đâu mua chuốc sự đời chi.
Duy cầm, duy kỳ, duy tửu, duy thi,
Thú vui phong hoa tuyết nguyệt.
Đường xuất xử có buổi cùng, buổi đạt,
Cuộc hành tàng nào ai có ai không.
Chữ công danh đã tạc với non sông,
Cơ vinh hiển hẹp gì trong phú tái.
Tuế tự dương hồi xuân cánh tại,
Khổ hết rồi âu phải cam lai.
Thôi thì thôi tiền định an bài,
Sầu cho nát lòng người chi nữa.
Ngô thử thời hành thử sự,
Dẫu hành tàng xuất xử cũng tuỳ nghi.
Thực tài ứng biến tri cơ.
Trải khắp đường đời
Chốn thị thành kinh lịch đã bao thu.
Sá khen chi những tiếng giang hồ,
Trong bốn bể đều ngô nho phận sự.
Yếu vi thiên hạ kỳ nam tử,
Tu lịch nhân gian vạn lý trình.
Nợ quan hà toan ngoảnh mặt làm thinh,
Còn giận nỗi công danh chưa phỉ chí.
Trời đất sinh ta âu hữu ý,
Khách tài tình nên trải vị gian truân.
Một mai gặp hội phong vân.
Yếu vi thiên hạ kỳ nam tử,
Tu lịch nhân gian vạn lý trình.
Chữ Hán: 要為天下奇男子,須歷人間萬里程 (Muốn làm người nam tử khác thường trong thiên hạ; Phải trải qua muôn đường dặm đường ở nhân gian).
Uống rượu tiêu sầu bài 1
Cảnh phù du trông thấy đã nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,
Trầm tư bách kế bất như nhàn.
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san,
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ,
Mảnh hình hài không có, có không.
Lọ là thiên tứ, vạn chung.
Uống rượu tiêu sầu bài 2
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu,
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt.
Duy giang thượng chi thanh phong,
Dữ sơn gian chi minh nguyệt.
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng.
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng,
Ai thành thị, ai vui miền lâm tẩu.
Gõ nhịp lấy, đọc câu “Tương tiến tửu”:
“Quân bất kiến;
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.”
Làm chi cho mệt một đời.
Trên đây chúng tôi đã tổng hợp cho quý độc giả BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát hi vọng các bạn sẽ thích. Hãy theo dõi và đồng hành cùng Thuvientho.com để có thể cập nhật được những bài viết thú vi nhé! Thân ái
Theo Thuvientho.com