Home / Chùm thơ chọn lọc / Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 3

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 3

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 3

Nhà thơ Hoàng Trung Thông sở hữu cho mình một kho tàng thơ đặc sắc. Ông là một trong những nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Ông thường viết sáng tác chủ yếu là thơ trữ tình ngoài ra còn nhiều bài thơ châm biếm nhận được rất nhiều đánh giá của bạn đọc

Ông có những bài thơ ấn tượng luôn được nhiều độc giả tìm kiếm và mến mộ. Ngoài những bài thơ do ông sáng tác thì ông còn có một chùm thơ dịch của những nhà thơ lớn trên thế giới

Để tiếp nối bài viết Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 2 mời các bạn đón xem phần 3 cùng Thuvientho.com ngay bây giờ nhé!

Suối phun nước 喷泉

青草上有一座喷泉,

白得像玉簪花一样,

那是洁白的泉水,

从地下喷射到地上。

牧羊女走过这里,

赶着她的牛和羊,

她喝了一口泉水,

要告别她的故乡。

就在这一块牧场上,

不久厂房就要立起;

明年,或者是后年,

这里要出第一炉钢。

牧羊女,她的背后,

起重机轰隆地交响;

牧羊女,她的面前,

黄河送来了波浪。

2.

泉中里有一个人影,

白得像水仙一样,

那是一位牧羊女,

她微笑着望着我们。

当她喝下一口泉水,

她看见自己的眼睛;

还藏在水花里面,

是那样的乌黑,深情。

牧羊女啊请你放心,

草原的主人是人民,

不论你迁居到哪里;

你还是这里的亲人。

不论你往哪里走,

火花在照耀你们,

泉水也会流得很远,

会跟着你的脚印。

Bản Dịch

1.

Dòng suối trên đồng cỏ

Trắng xoá như bông hoa

Dòng suối trong trắng đó

Từ lòng đất vọt ra

Nàng chăn dê đi tới

Đuổi theo bò dê nàng

Uống một ngụm nước suối

Nàng giã từ quê hương

Mục trường này từ lâu

Sẽ dựng lên nhà máy

Sang năm hay năm sau

Một lò gang mọc dậy

Sau lưng nàng chăn dê

Cần cẩu đang chuyển động

Trước mặt nàng chăn dê

Hoàng Hà đang vỗ sóng

2.

Một bóng người trên suối

Như thuỷ tiên trắng ngời

Bóng nàng chăn dê đấy

Nàng nhìn ta mỉm cười

Khi uống ngụm nước suối

Nàng ngắm đôi mắt mình

Còn ẩn trong hoa nước

Mắt đen chan chứa tình

Hãy yên tâm nàng hỡi

Đồng cỏ thuộc nhân dân

Ở đâu nàng đi tới

Cũng vẫn là người thân

Dù cho nàng tới đâu

Hoa lửa cũng chiếu rọi

Suối cũng chảy rất xa

Theo dấu chân nàng tới.

Bệnh mã 病馬 • Ngựa ốm

乘爾亦已久,

天寒關塞深。

塵中老盡力,

歲晚病傷心。

毛骨豈殊眾,

馴良猶至今。

物微意不淺,

感動一沉吟。

Bản Dịch

Đã cưỡi mày lâu lắm

Ải xa trời rét căm

Dặm mù, già cật lực

Năm hết, ốm, thương tâm!

So chúng, hình đâu khác?

Đến nay tính vẫn thuần

Trước tình con vật nhỏ

Cảm động cứ trầm ngâm

Chu tiền tiểu nga nhi 舟前小鵝兒

鵝兒黃似酒,

對酒愛新鵝。

引頸嗔船逼,

無行亂眼多。

翅開遭宿雨,

力小困滄波。

客散層城暮,

狐狸奈若何。

Bản Dịch

Ngỗng con vàng tựa rượu

Đối rượu yêu ngỗng con

Vươn cổ cáu thuyền sát

Không hàng rối mắt dòm

Cánh xoè khi mưa đổ

Sức nhỏ bị sóng dồn

Chiều, khách bên thành vãn

Làm sao tránh cáo chồn?

Hỉ vũ (Xuân hạn thiên địa hôn) 喜雨(春旱天地昏

春旱天地昏,

日色赤如血。

農事都已休,

兵戈況騷屑。

巴人困軍須,

慟哭厚土熱。

滄江夜來雨,

真宰罪一雪。

谷根小蘇息,

沴氣終不滅。

何由見寧歲,

解我憂思結。

崢嶸群山雲,

交會未斷絕。

安得鞭雷公,

滂沱洗吳越。

Bản Dịch

Hạn hán ám trời xuân,

Mặt trời đỏ như huyết.

Nông vụ thế là thôi,

Binh nhung còn rối việc.

Người Ba khổ quân lương,

Khóc nhìn đất cháy khét.

Sông xanh đêm qua mưa,

Tội của trời rửa sạch.

Gốc lúa lại mát tươi,

Khí độc chưa tiêu hết.

Sao được năm thái bình,

Giải lòng ta u uất.

Mây trên núi chênh vênh,

Giao tụ còn chưa dứt.

Ước gì sét đánh lên,

Mưa rào gội Ngô Việt.

Khách dạ 客夜

客睡何曾著,

秋天不肯明。

捲帘殘月影,

高枕遠江聲。

計拙無衣食,

途窮仗友生。

老妻書數紙,

應悉未歸情。

Bản Dịch

Khách ngủ làm sao đặng?

Trời thu chẳng sáng ra

Vào rèm, bóng nguyệt xế

Trên gối, tiếng sông xa

Kế vụng, ăn mặc thiếu

Đường cùng, bạn hữu cho

Vợ già thư mấy lá

Chậm về, nên hiểu ta

Không nang 空囊 • Cái túi rỗng

翠柏苦猶食,

晨霞高可餐。

世人共鹵莽,

吾道屬艱難。

不爨井晨凍,

無衣床夜寒。

囊空恐羞澀,

留得一錢看。

Bản Dịch

Lá trắc xanh đắng còn nuốt được

Mảnh ráng ngời cao mặc cứ xơi

Cùng chung thô lỗ bao người

Đường ta là chịu cuộc đời khó khăn

Giếng mai không gạo giá băng

Giường đêm không áo không chăn lạnh lùng

Túi không những sợ thẹn thùng

Để dằn dưới đáy một đồng sờ chơi

Khứ thu hành 去秋行

去秋涪江木落時,

臂槍走馬誰家兒。

到今不知白骨處,

部曲有去皆無歸。

遂州城中漢節在,

遂州城外巴人稀。

戰場冤魂每夜哭,

空令野營猛士悲。

Bản Dịch

Sông Phù thu trước lá cây rơi

Cầm thương phóng ngựa con nhà ai?

Đến nay xương trắng vào đâu gửi

Lính tráng đi rồi chẳng trở lui

Trong thành Toại Châu sứ Hán đó

Ngoài thành Toại Châu người Ba vơi

Đêm đêm chiến địa hồn oan khóc

Khiến lính trong dinh luống ngậm ngùi

Nam thụ vị phong vũ sở bạt thán

倚江楠樹草堂前,

故老相傳二百年。

誅茅卜居總為此,

五月仿佛聞寒蟬。

東南飄風動地至,

江翻石走流雲氣。

乾排雷雨猶力爭,

根斷泉源豈天意。

滄波老樹性所愛,

浦上童童一青蓋。

野客頻留懼雪霜,

行人不過聽竽籟。

虎倒龍顛委榛棘,

淚痕血點垂胸臆。

我有新詩何處吟,

草堂自此無顏色。

Bản Dịch

Dựa sông, cây sến trước lều gianh,

Các cố bảo đà hai trăm năm.

Phạt gianh cất nhà đều ở đó,

Tháng năm phảng phất tiếng ve ngâm.

Cơn gió đông nam chuyển đất tới,

Sóng tung, đá chạy, mây xô đuổi.

Thân xông mưa gió chống đến cùng,

Rễ bật cội nguồn đâu phải tội.

Cây già bên sông tính đáng mến,

Lồng lộng tàn xanh che trước bến.

Ẩnh tránh tuyết sương khách đến đây,

Qua đường nghe sáo người lưu luyến.

Hổ rồng ngã xuống gửi gai góc,

Máu lệ rỏ tuôn dòng trước ngực,

Thơ mới ta nay ngâm ở đâu?

Từ đây lều cỏ không tươi sắc.

Nhân Thôi ngũ thị ngự ký Cao Bành châu nhất tuyệt

百年已過半,

秋至轉飢寒。

為問彭州牧,

何時救急難。

Nhân Thôi ngũ thị ngự ký Cao Bành châu nhất tuyệt

Bách niên dĩ quá bán,

Thu chí chuyển cơ hàn.

Vị vấn bành châu mục,

Hà thì cứu cấp nan.

Bản Dịch

Trăm năm đà quá nửa,

Đói rét giữa mùa thu.

Nhờ hỏi lên quan mục,

Bao giờ cứu nạn cho?

Tái Lô Tử 塞蘆子 • Trấn giữ ải Lô Tử

五城何迢迢,

迢迢隔河水。

邊兵盡東征,

城內空荊杞。

思明割懷衛,

秀岩西未已。

回略大荒來,

崤函蓋虛爾。

延州秦北戶,

關防猶可倚。

焉得一萬人,

疾驅塞蘆子。

岐有薛大夫,

傍制山賊起。

近聞昆戎徒,

為退三百里。

蘆關扼兩寇,

深意實在此。

誰能叫帝閽,

胡行速如鬼。

Bản Dịch

Năm thành sao xa vời

Xa vời cách sông nước

Lính trẩy hết sang đông

Thành nội trơ gai góc

Tư Minh bỏ Hoài, Vệ

Tú Nham tây chửa dứt

Vòng chiếm miền đại hoang

Hào, Hàm vờ khinh suất

Diên Châu, cửa bắc Tần

Quan phòng còn giữ được

Sao có một muôn người

Ải Lô ra trấn gấp

Kỳ có Tiết đại phu

Phía núi ngăn chân giặc

Gần đây bầy Côn, Nhung

Ba trăm dặm rút tất

Ải Lô chặn hai thằng

Ý nghĩa thật sâu sắc

Ai báo được lên vua

Rợ Hồ tiến như lốc.

Xem thêm:  Bóp Vú Đau Tay – Bài thơ đi cùng năm tháng của Tản Đà

Tam tuyệt cú kỳ 1 三絕句其一

前年渝洲殺刺史,

今年開州殺刺史。

群盜相隨劇虎狼,

食人更肯留妻子。

Bản Dịch

Năm trước Du Châu giết thứ sử,

Năm nay Khai Châu giết thứ sử.

Bầy cướp theo nhau hơn hổ lang,

Ăn người chừa vợ con sao hử?

Tam tuyệt cú kỳ 2 三絕句其二

二十一家同入蜀,

惟殘一人出駱谷。

自說二女嚙臂時,

回頭卻向秦雲哭。

Tam tuyệt cú kỳ 2

Nhị thập nhất gia đồng nhập Thục,

Duy tàn nhất nhân xuất Lạc Cốc.

Tự thuyết nhị nữ khiết tí thì,

Hồi đầu khước hướng Tần vân khốc

Bản Dịch

Hai mươi mốt nhà cùng vào Thục,

Chỉ sót một người ra Lạc Cốc.

Nhắc buổi hai gái ôm cắn tay,

Ngoảnh đầu về phía mây Tần khóc.

Tối năng hành 最能行 •

峽中丈夫絕輕死,

少在公門多在水。

富豪有錢駕大舸,

貧窮取給行艓子。

小兒學問止論語,

大兒結束隨商旅。

欹帆側柁入波濤,

撇漩捎濆無險阻。

朝發白帝暮江陵,

頃來目擊信有征。

瞿塘漫天虎鬚怒,

歸州長年行最能。

此鄉之人氣量窄,

誤競南風疏北客。

若道土無英俊才,

何得山有屈原宅。

Bản Dịch

Trượng phu trong kẽm rất khinh chết

Ít ở công môn nhiều ở nước

Nhà giàu có tiền chở thuyền to

Nhà nghèo sinh sống đi đò hẹp

Con nhỏ học vấn đến Luận Ngữ

Con lớn đóng vai người chuyên chở

Căng buồm bạt lái vào sóng cồn

Tránh thác lách gành không hiểm trở

Sớm ra bạch Đế chiều Giang Lăng

Chớp mắt nhìn xem đã có chừng

Cù Đường ngất trời, Hổ Tu dữ

Người lái Quỳ Châu ai giỏi bằng

Người ở vùng này bụng dạ chật

Nhầm trọng miền Nam coi nhẹ Bắc

Nếu bảo đất này không anh tài

Nhà của Khuất Nguyên sao có được

Xuân thuỷ sinh kỳ 2 春水生其二

一夜水高二尺強,

數日不可更禁當。

南市津頭有船賣,

無錢即買繫籬傍。

Xuân thuỷ sinh kỳ 2

Nhất dạ thuỷ cao nhị xích cường,

Sổ nhật bất khả cánh cấm đương.

Nam thị tân đầu hữu thuyền mại,

Vô tiền tức mãi hệ ly bàng.

Bản Dịch

Mỗi đêm hai thước nước dâng

Mấy ngày không thể chống cùng nước lên

Bến sông Nam Thị bán thuyền

Không tiền mua chiếc buộc bên bờ rào

Rầm rập xe quân…

Rầm rập xe quân đêm vượt sông

Non xanh thấp thoáng, nước mênh mông

Đôi bờ phòng giặc, im đèn lửa

Nhờ được trời sao vạn chấm hồng

Quốc tế ca L’internationale

Debout! les damnés de la terre!

Debout! les forçats de la faim!

La raison tonne en son cratère:

C’est l’éruption de la fin.

Du passé faisons table rase,

Foule esclave, debout! debout!

Le monde va changer de base:

Nous ne sommes rien, soyons tout!

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

Il n’est pas de sauveurs suprêmes:

Ni Dieu, ni César, ni tribun,

Producteurs, sauvons-nous nous-mêmes!

Décrétons le salut commun!

Pour que le voleur rende gorge,

Pour tirer l’esprit du cachot,

Soufflons nous-mêmes notre forge,

Battons le fer quand il est chaud!

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

L’État opprime et la loi triche ;

L’Impôt saigne le malheureux ;

Nul devoir ne s’impose au riche ;

Le droit du pauvre est un mot creux.

C’est assez, languir en tutelle,

L’égalité veut d’autres lois ;

« Pas de droits sans devoirs, dit-elle

« Égaux, pas de devoirs sans droits! »

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

Hideux dans leur apothéose,

Les rois de la mine et du rail

Ont-ils jamais fait autre chose

Que dévaliser le travail?

Dans les coffres-forts de la bande

Ce qu’il a créé s’est fondu

En décrétant qu’on le lui rende

Le peuple ne veut que son dû.

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

Les Rois nous soûlaient de fumées,

Paix entre nous, guerre aux tyrans!

Appliquons la grève aux armées,

Crosse en l’air, et rompons les rangs!

S’ils s’obstinent, ces cannibales,

À faire de nous des héros,

Ils sauront bientôt que nos balles

Sont pour nos propres généraux

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

Ouvriers, paysans, nous sommes

Le grand parti des travailleurs ;

La terre n’appartient qu’aux hommes,

L’oisif ira loger ailleurs.

Combien de nos chairs se repaissent!

Mais si les corbeaux, les vautours,

Un de ces matins, disparaissent,

Le soleil brillera toujours!

C’est la lutte finale:

Groupons-nous, et demain,

L’Internationale

Sera le genre humain

Bản Dịch

Vùng lên! hỡi những tội đồ trên trái đất

Vùng lên! Hỡi những ai đói rét lầm than

Lửa chân lý sục sôi trong miệng núi

Vụt bùng lên trong trận sống còn

Chế độ cũ chúng ta phá sạch

Hỡi những người nô lệ, vùng đứng lên thôi

Cả thế giới sẽ đổi thay tận gốc

Ta chẳng là chi, nay chủ cả cuộc đời

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Làm gì có những vị cứu thế

Không Chúa trời cũng chẳng thánh nhân

Người sản xuất, phải trả đồ cướp giật

Để tinh thần ta thoát khỏi chốn lao lung

Ta phải tự thổi lò kéo bễ

Rèn sắt lên khi sắt đã hồng

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Nhà nước đang áp bức, luật pháp đang dối lừa

Sưu thuế nạo dân nghèo đến tuỷ

Bọn giàu sang không gánh vác việc gì

Quyền người đói chỉ là bánh vẽ

Kêu rên hoài trong sự chăm non

Sự bình đẳng đòi phải theo luật khác

Không lợi quyền nào không nghĩa vụ kèm gánh vác

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Quá xấu xa trong hào quang chói lọi

Những tên vua hầm mỏ với đường ray

Chúng nó đã làm những điều gì khác

Ngoài cướp công lao động ta đây?

Trong tủ sắt nhà băng chất chứa

Những cái gì lao động làm ra

Ta chỉ đòi chúng đem nộp cả

Của ta làm, chúng phải trả cho ta

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Bọn vua chúa chỉ cho ta ăn khói

Hoà với nhau ta đánh với cường quyền

Việc đánh chác, ta ngừng cả lại

Súng chúi nòng, bỏ ngũ cho yên!

Bọn côn đồ nếu chúng còn ngoan cố

Bắt chúng ta thành những yêng hùng

Thì lập tức súng ta sẽ nổ

Bắn vào đầu lũ tướng cường hung

Xem thêm:  Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 P1

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Các thợ thuyền, dân cày tất cả

Đảng hùng cường của giới cần lao

Ruộng đất thuộc về người cày ruộng

Lũ ký sinh trùng hãy cút đi mau

Bao xương thịt của ta chúng nuốt

Những lũ diều hâu với lũ quạ đen

Một ngày kia sạch sành sanh diệt hết

Mặt trời vĩnh viễn sáng bừng lên

Đấu tranh này là trận cuối cùng

Kết đoàn lại để ngày mai

Lanh-ter-na-xi-ô-na-lơ

Sẽ là xã hội tương lai

Về Diên An 回延安

心口呀莫要这么厉害地跳,

灰尘呀莫把我眼睛挡住了……

手抓黄土我不放,

紧紧儿贴在心窝上。

……几回回梦里回延安,

双手搂定宝塔山。

千声万声呼唤你,

——母亲延安就在这里!

杜甫川唱来柳林铺笑,

红旗飘飘把手招。

白羊肚手巾红腰带,

亲人们迎过延河来。

满心话登时说不出来,

一头扑在亲人怀。

二十里铺送过柳林铺迎,

分别十年又回家中。

树梢树枝树根根,

亲山亲水有亲人。

羊羔羔吃奶眼望着妈,

小米饭养活我长大。

东山的糜子西山的谷,

肩膀上的红旗手中的书。

手把手儿教会了我,

母亲打发我们过黄河。

革命的道路千万里,

天南海北想着你……

米酒油馍木炭火,

团团围定炕上坐。

满窑里围得不透风,

脑畔上还响着脚步声。

老爷爷进门气喘得紧:

“我梦见鸡毛信来——可真见亲人……”

亲人见亲人面,

欢喜的眼泪眶眶里转。

“保卫延安你们费了心,

白头发添了几根根。”

团支书又领进社主任,

当年的放羊娃如今长成人。

白生生的窗纸红窗花,

娃娃们争抢来把手拉。

一口口的米酒千万句话,

长江大河起浪花。

十年来革命大发展,

说不尽这三千六百天……

千万条腿来千万只眼,

也不够我走来也不够我看!

头顶着蓝天大明镜,

延安城照在我心中:

一条条街道宽又平,

一座座楼房披彩红;

一盏盏电灯亮又明,

一排排绿树迎春风……

对照过去我认不出了你,

母亲延安换新衣。

杨家岭的红旗啊高高地飘,

革命万里起高潮!

宝塔山下留脚印,

毛主席登上了天安门!

枣园的灯光照人心,

延河滚滚喊“前进”!

赤卫军,青年团,红领巾,

走着咱英雄几辈辈人……

社会主义路上大踏步走,

光荣的延河还要在前头!

身长翅膀吧脚生云,

再回延安看母亲!

Bản Dịch

1.

Hỡi tim ơi! đừng đập nhiều như thế!

Bụi bặm ơi! đừng vướng mắt tôi!

Tay tôi nắm đất vàng không bỏ

Ép chặt vào tim, ép mãi không rời

Trong giấc mộng về Diên An mấy bận

Hai bàn tay ôm Bảo Tháp san

Nghìn vạn tiếng cất lời kêu gọi

Chính nơi này đất mẹ Diên An

Khe Đỗ hát, cười reo phố Liễu

Phấp phới cờ hồng vẫy vẫy bàn tay

Khăn da trắng, dây lưng nhuộm đỏ

Bên sông Diên người đứng chật đầy

Chuyện đầy bụng mà không nói được

Ngả vào lòng ruột thịt hôm nay…

2.

Phố ngõ Hai mươi đưa, phố Rừng liễu đón

Ly biệt mười năm nay lại về rồi

Cây có ngọn, có cành, có gốc

Thân cả sông, cả núi, cả người

Dê bú sữa mắt nhìn lên mẹ

Nuôi nấng tôi là gạo cơm này

Lúa tẻ núi tây, núi đông lúa nếp

Cờ đỏ trên vai, sách vở cầm tay

Tay cầm tay, vì tôi nuôi dưỡng

Mẹ đưa tôi qua khỏi sông Hoàng

Đường cách mạng dài muôn vạn dặm

Góc bể chân trời, nhớ mẹ Diên An…

3.

Rượu ngon, bánh rán, hừng than củi

Trên giường êm, lớp lớp quây quần

Vây kín cửa không còn chỗ thở

Nghe trong đầu vang những bước chân

Các cụ già chạy vào hối hả:

” Mơ thấy dê ăn cỏ – đúng người thân…”

Người thân thấy mặt người thân thiết

Chan chứa mừng vui, lệ ướt đầm

Giữ Diên An, hao tổn bao tâm huyết

Đã bao nhiêu sợi tóc bạc thêm rồi

Làm bí thư kiêm thêm chủ nhiệm

Xưa gái chăn dê, nay đã nên người

Cửa giấy trắng điểm tô hoa giấy đỏ

Các cô giành tay kéo tay sang

Một hớp rượu nghìn câu chuyện nở

Sóng Hoàng Hà tiếp sóng Trường Giang

Cách mạng mười năm bao lớn mạnh

Nói làm sao hết chuyện ba ngàn…

4.

Nghìn muôn chân, nghìn muôn con mắt

Đủ tôi đi, cũng đủ tôi nhìn

Trời trên đầu tấm gương trong vắt

Thành Diên An chiếu sáng trong tim

Từng đường phố vừa bằng vừa rộng

Từng toà nhà mang sắc thắm tươi

Từng ánh đèn vừa trong vừa sáng

Từng hàng cây đón gió xuân cười

Hình bóng cũ, nhận không ra nữa

Mẹ Diên An, áo mới đã thay rồi

5.

Cờ đỏ bay cao trên vùng Dương Gia Lĩnh

Cao trào cách mạng dậy muôn phương

Dấu chân bước còn in dưới núi

Chủ tịch Mao giờ đứng trước Thiên An

Đèn Vườn Táo soi lòng người rạng tỏ

Nước sông Diên cuồn cuộn gọi đi lên

Quân xích vệ, đoàn thanh niên, đội khăn quàng đỏ

Theo gót anh hùng tiến mãi không quên

Đường xã hội, bàn chân bước rộng

Con sông Diên trước mặt vinh quang

Người chắp cánh, bàn chân mây mọc

Tôi trở về thăm mẹ Diên An

Tôi như nghe sóng gào sóng thét

Tôi như nghe sóng gào sóng thét

Những tiếng thú gầm lên giận dữ hằm hè

Sóng mang tóc bời bời rối loạn

Cứ từng hồi xô tới đập thân đê.

Tôi như nghe cuồng phong bạo vũ

Réo trên đầu. Nhưng dũng mãnh làm sao

Tiếng ca hát đầy nhiệt tình chống lũ

So với sấm rền càng mạnh càng cao.

Tôi như cùng đứng giữa trời sông nước

Hoàn toàn quên rét buốt, hiểm nguy.

Cùng các chị các anh tay nắm chặt

Đưa thân mình giữ chắc lấy thân đê.

Nước lũ ngoài đê tha hồ phá phách

Lúa trong đê một dải vẫn xanh rờn.

Lúa cứ mọc với niềm tin vững chắc

Mỉm cười vui báo trước được mùa hơn.

Nước lũ ngoài đê dâng cao quá nóc

Đường trong đê vẫn nở thắm bông hoa

Các nhà máy vẫn nhả lên khói biếc

Vẫn hoàn thành vượt mức đã đề ra.

Nước lũ ngoài đê ngày một dâng cao

Rạp hát trong đê vẫn diễn tuồng “Ngưu Lang Chức Nữ”

Trong bệnh viện vừa sinh bao em nhỏ

Tiếng em kêu vui đón ánh ngày vào.

Tôi mỗi ngày mở trang báo rộng

Như cùng chung nhịp thở gay go

Như đang cùng các chị các anh lao động

Cùng chung vui thắng lợi từng giờ.

Kỳ tích nào tay ta không sáng tạo?

Quân thù nào ta chẳng đánh ra tro?

Nước lũ ơi! mi đừng mơ ước hão

Dâng nhanh hơn, cao vượt cả đê ta.

Hôm nay nước lũ đã cúi đầu

Như một người đến chết còn ngoan cố

Bị ta đập cho tan tành một vố

Mới bắt đầu dụi mắt nhìn ra:

Kìa xem trên đất nước Trung Hoa

Đã có biết bao điều thay đổi

Sáu trăm triệu con người thành một khối

Hạnh phúc cùng vui, hoạn nạn cùng lo

“Bông hoa quý nếu hoa cũng biết”

“Und wüßten’s die Blumen, die kleinen”

Und wüßten’s die Blumen, die kleinen,

Wie tief verwundet mein Herz,

Sie würden mit mir weinen,

Zu heilen meinen Schmerz.

Xem thêm:  Một chút gì gửi em - Hải Âu

Und wüßten’s die Nachtigallen,

Wie ich so traurig und krank,

Sie ließen fröhlich erschallen

Erquickenden Gesang.

Und wüßten sie mein Wehe,

Die goldnen Sternelein,

Sie kämen aus ihrer Höhe,

Und sprächen Trost mir ein.

Die alle können’s nicht wissen,

Nur Eine kennt meinen Schmerz:

Sie hat ja selbst zerrissen,

Zerrissen mir das Herz.

Bản Dịch

Bông hoa quý nếu hoa cũng biết

Vết thương nào đã xé lòng tôi

Thì lệ hoa đã hòa lệ tôi rồi

Để chữa lành nỗi đau tôi chịu đựng

Và họa mi nếu họa mi cũng biết

Tôi có bao đau yếu u phiền

Thì chim sẽ giành cho tôi vui vẻ

Một bài ca làm phấn chấn tôi lên

Và nếu các vi sao cũng biết

Bao đau thương đang xâm chiếm lòng tôi

Thì các vì sao cũng từ giã bầu trời

Để làm dịu bớt nỗi lòng tôi thất vọng

Hoa, chim, sao không thể nào biết được

Chỉ một người biết nỗi khổ tôi thôi

Người đàn bà đã từng xé nát

Bằng tay mình, xé nát trái tim tôi…

“Cô đánh cá xinh ơi”

Du schönes Fischermädchen,

Treibe den Kahn ans Land;

Komm zu mir und setze dich nieder,

Wir kosen Hand in Hand.

Leg an mein Herz dein Köpfchen,

Und fürchte dich nicht zu sehr;

Vertraust du dich doch sorglos

Täglich dem wilden Meer.

Mein Herz gleicht ganz dem Meere,

Hat Sturm und Ebb’ und Flut,

Und manche schöne Perle

In seiner Tiefe ruht.

“Cứ mỗi buổi sáng mai”

Wenn ich an deinem Hause

Des Morgens vorübergeh,

So freut’s mich, du liebe Kleine,

Wenn ich dich am Fenster seh.

Mit deinen schwarzbraunen Augen

Siehst du mich forschend an:

»Wer bist du, und was fehlt dir,

Du fremder, kranker Mann?«

»Ich bin ein deutscher Dichter,

Bekannt im deutschen Land;

Nennt man die besten Namen,

So wird auch der meine genannt.

Und was mir fehlt, du Kleine,

Fehlt manchem im deutschen Land;

Nennt man die schlimmsten Schmerzen,

So wird auch der meine genannt.«

Bản Dịch

Cứ mỗi buổi sáng mai

Đi qua nhà em đó,

Em ơi, anh sướng vui,

Thấy em bên cửa sổ.

Đôi mắt em âm thầm

Nhì anh như muốn hỏi:

Ai kia? đau khổ gì?

Chàng tha hương tê tái

Anh là nhà thơ Đức,

Ở Đức rất nổi danh

Trong những người có tiếng

Thường nhắc đến tên anh

Nỗi đau anh u uất,

Nước Đức cùng đau chung;

Trong nỗi đau xấu nhất,

Có nỗi đau anh cùng.

“Hoa sen e sợ” “Die Lotusblume”

Die Lotusblume ängstigt

Sich vor der Sonne Pracht

Und mit gesenktem Haupte

Erwartet sie träumend die Nacht

Der Mond, der ist ihr Buhle

Er weckt sie mit seinem Licht,

Und ihm entschleiert sie freundlich

Ihr frommes Blumengesicht,

Sie blüht und glüht und leuchtet

Und starret stumm in die Höh’;

Sie duftet und weinet und zittert

Vor Liebe und Liebesweh.

Bản Dịch

Đoá hoa sen e sợ

Ánh mặt trời rỡ ràng

Và đầu hoa nghiêng xuống

Đợi chờ đêm mơ màng

Với bạn tình trăng đẹp

Mà ánh sáng ru êm

Hoa dịu dàng để lộ

Mặy của hoa hồn nhiên

Hoa nở tung, rỡ ràng, lộng lẫy

Về tình yêu và nỗi lo lắng, yêu đương.

“Một vì sao rơi xuống”

Es fällt ein Stern herunter

aus seiner funkelnden Höh,

das ist der Stern der Liebe,

den ich dort fallen seh.

Es fallen vom Apfelbaume,

der weißen Blätter so viel,

es kommen die neckenden Lüfte,

und treiben damit ihr Spiel.

Es singt der Schwan im Weiher,

und rudert auf und ab,

und immer leiser singend,

taucht er ins Flutengrab.

Es ist so still und dunkel,

verweht ist Blatt und Blüt’,

der Stern ist knisternd zerstoben,

verklungen das Schwanenlied.

Bản Dịch

Một vì sao rơi xuống

Trên lấp lánh trời cao!

Vì sao của tình yêu

Tôi thấy từ đấy rụng.

Từ trên một cây táo

Rụng đầy lá và hoa

Cơn gió nhẹ vờn qua

Mang đi và bờn cợt.

Trên ao thiên nga hát

Bơi tung tăng khắp nơi

Dần lặng tiếng im hơi

Chui xuống nấm mộ ướt

Trời tối! chao lặng im

Hoa lá cũng bay xa

Vì sao cũng tắt vụn

Và bặt tiếng thiên nga.

“Tim ta ơi! Đừng nên u uất”

Herz, mein Herz, sei nicht beklommen,

Und ertrage dein Geschick.

Neuer Frühling gibt zurück,

Was der Winter dir genommen.

Und wie viel ist dir geblieben,

Und wie schön ist noch die Welt!

Und, mein Herz, was dir gefällt,

Alles, alles darfst du lieben!

Bản Dịch

Tim ta ơi! Đừng nên u uất

Số phận mình gắng chịu cho quen

Những cái gì mùa đông cướp mất

Xuân mới về sẽ trả cho em.

Và mọi điều sẽ lưu lại em thôi!

Cuộc đời này thật xiết bao tươi đẹp!

Cứ yêu đi, em ạ, tim ta ơi.

Yêu tất cả những gì tha thiết nhất.

“Trong mơ anh đã khóc”

Ich hab im Traum geweinet,

Mir träumte, du lägest im Grab.

Ich wachte auf, und die Träne

Floß noch von der Wange herab.

Ich hab im Traum geweinet,

Mir träumt’, du verließest mich.

Ich wachte auf, und ich weinte

Noch lange bitterlich.

Ich hab im Traum geweinet,

Mir träumte, du bliebest mir gut.

Ich wachte auf, und noch immer

Strömt meine Tränenflut.

Bản Dịch

Trong mơ anh đã khóc

Thấy em trong áo quan,

Đến khi anh tỉnh giấc

Nước mắt cứ tuôn tràn

Trong mơ anh đã khóc,

Thấy em không trung thành,

Tỉnh dậy, anh, đôi mắt

Lệ đắng còn chảy quanh

Trong mơ anh đã khóc,

Thấy em vẫn dịu hiền.

Thế rồi anh tỉnh giấc

Nước mắt vẫn triền miên

Trên đây chúng tôi đã nối tiếp cho bạn bài viết Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 2 cùng những bài thơ mộc mạc, giản dị đẫm chất suy tư của nhà thơ. Hy vọng các bạn sẽ yêu thích bài viết của chúng tôi. Mời các bạn đón xem phần 4 để theo dõi những bài thơ hấp dẫn hơn nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …