Home / Chùm thơ chọn lọc / Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 4

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 4

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 4

Hoàng Trung Thông là một nhà thơ đa tài cùng khả năng sáng tác thiên phú của mình. Thơ ông luôn mang trong mình một phong cách không thể lẫn vào đâu được. Ông có những tập thơ đặc sắc được nhiều người ngưỡng mộ trong đó có những bài thơ dịch của những nhà thơ lớn trên thế giới. Điều đó càng chứng tỏ khả năng của ông khi chỉ người tinh thông nhiều ngoại ngữ mới có thể làm được

Ông đạt được nhiều giải thưởng danh giá về văn học nghệ thuật, góp phần không nhỏ trong sự phát triển nền văn học Việt Nam. Để tiếp tục bài viết trước, xin mời các bạn đón xem phần 4 những bài thơ dịch sâu sắc của Hoàng Trung Thông ngay bây giờ!

“Trong tháng năm kỳ diệu”

Im wunderschönen Monat Mai,

Als alle Knospen sprangen,

Da ist in meinem Herzen

Die Liebe aufgegangen.

Im wunderschönen Monat Mai,

Als alle Vögel sangen,

Da hab ich ihr gestanden

Mein Sehnen und Verlangen.

Bản Dịch

Trong tháng năm kỳ diệu

Khi mầm cây nẩy ra

Trong tim tôi cảm thấy

Tình yêu bỗng nở hoa.

Trong tháng năm kỳ diệu

Run rẩy tiếng chim ca

Với bạn tình tôi gửi

Những nỗi niềm thiết tha.

1649-1793

Die Briten zeigten sich sehr rüde

Und ungeschliffen als Regizide.

Schlaflos hat König Karl verbracht

In Whitehall seine letzte Nacht.

Vor seinem Fenster sang der Spott

Und ward gehämmert an seinem Schafott.

Viel höflicher nicht die Franzosen waren.

In einem Fiaker haben diese

Den Ludwig Capet zum Richtplatz gefahren;

Sie gaben ihm keine Calèche de Remise,

Wie nach der alten Etikette

Der Majestät gebühret hätte.

Noch schlimmer erging’s der Marie Antoinette,

Denn sie bekam nur eine Charrette;

Statt Chambellan und Dame d’Atour

Ein Sansculotte mit ihr fuhr.

Die Witwe Capet hob höhnisch und schnippe

Die dicke habsburgische Unterlippe.

Franzosen und Briten sind von Natur

Ganz ohne Gemüt; Gemüt hat nur

Der Deutsche, er wird gemütlich bleiben

Sogar im terroristischen Treiben.

Der Deutsche wird die Majestät

Behandeln stets mit Pietät.

In einer sechsspännigen Hofkarosse,

Schwarz panaschiert und beflort die Rosse,

Hoch auf dem Bock mit der Trauerpeitsche

Der weinende Kutscher – so wird der deutsche

Monarch einst nach dem Richtplatz kutschiert

Und untertänigst guillotiniert.

Belsatzar

Die Mitternacht zog näher schon;

In stummer Ruh lag Babylon.

Nur oben, in des Königs Schloß,

Da flackert’s, da lärmt des Königs Troß,

Dort oben, in dem Königssaal,

Belsatzar hielt sein Königsmahl.

Die Knechte saßen in schimmernden Reih’n,

Und leerten die Becher mit funkelndem Wein.

Es klirrten die Becher, es jauchzten die Knecht’;

So klang es dem störrigen Könige recht.

Des Königs Wangen leuchten Glut;

Im Wein erwuchs ihm kecker Muth.

Und blindlings reißt der Muth ihn fort;

Und er lästert die Gottheit mit sündigem Wort.

Und er brüstet sich frech, und lästert wild;

Die Knechtenschaar ihm Beifall brüllt.

Der König rief mit stolzem Blick;

Der Diener eilt und kehrt zurück.

Er trug viel gülden Geräth auf dem Haupt;

Das war aus dem Tempel Jehovas geraubt.

Und der König ergriff mit frevler Hand

Einen heiligen Becher, gefüllt bis am Rand’.

Und er leert ihn hastig bis auf den Grund,

Und rufet laut mit schäumendem Mund:

Jehovah! dir künd’ ich auf ewig Hohn, –

Ich bin der König von Babylon!

Doch kaum das grause Wort verklang,

Dem König ward’s heimlich im Busen bang.

Das gellende Lachen verstummte zumal;

Es wurde leichenstill im Saal.

Und sieh! und sieh! an weißer Wand

Da kam’s hervor wie Menschenhand;

Und schrieb, und schrieb an weißer Wand

Buchstaben von Feuer, und schrieb und schwand.

Der König stieren Blicks da saß,

Mit schlotternden Knien und todtenblaß.

Die Knechtenschaar saß kalt durchgraut,

Und saß gar still, gab keinen Laut.

Die Magier kamen, doch keiner verstand

Zu deuten die Flammenschrift an der Wand.

Belsatzar ward aber in selbiger Nacht

Von seinen Knechten umgebracht.

Bản Dịch

Đã khuya gàn đến nửa đêm rồi

Thành Babylon lặng tiếng im hơi

Chỉ còn cung điện trên cao đó

Các quan ồn ào, đuốc rực đỏ

Từ trong ngọc điện ngự ngôi mình

Belsatzar mở yến linh đình

Bá quan văn võ đà sắp sẵn

Cốc rượu ngon đầy đang dốc cạn

Tiếng cốc va nhau xen tiếng cười

Ngạo nghễ nhà vua cười rất vui

Hai má nhà vua đỏ như gấc

Cầng nốc rượu vào càng hăng sức

Bạo gan bỏ hết những điều kiêng

Buông lời xúc phậm Đáng thiêng liêng

Thở giọng hỗn hào lời báng bổ

Các quan ngồi nghe khen nức nở

Đưa mắt kiêu căng vua lện truyền

Hầu thần vội vào rồi ra liền

Trên đầu gã đội đồ vàng bạc

Của cướp ở đền Jehovas

Bàn tay uế tạp vua cầm lên

Một chiêc cốc thần đầy chất men

Và vua nốc hết một hơi cạn

Rồi vua hét vang, bọt đầy miệng:

“Jehovas, ta nhạo cười ông

Ta là vua thành Babylon”

Nhưng nói vừa dứt lời kinh khủng

Vua đã cảm thấy lo trong bụng

Bỗng ngừng ngay lại tiếng cười vang

Cung điện lặng im như mồ hoang

Nhìn kìa! Nhìn lên tường vôi trắng

Gì như bàn tay đang cử động

Bàn tay cứ viết mãi trên tường

Những dòng chữ lửa rồi biến luôn

Vua ở trên ngai mắt lấm lét

Đầu gối run lên, nhợt như chết

Các quan triều thần, người lạnh băng

Phăng phắc ngồi im không hé răng

Các nhà hiền triết được vời tới

Dòng chữ lửa kia không hiểu nổi

Nhưng ngay đêm ấy Belsatzar

Đã bị triều thần cắt cổ ra

Các cận vệ binh Die Grenadiere

Nach Frankreich zogen zwei Grenadier’,

Die waren in Rußland gefangen.

Und als sie kamen ins deutsche Quartier,

Sie ließen die Köpfe hangen.

Da hörten sie beide die traurige Mär:

Daß Frankreich verloren gegangen,

Besiegt und zerschlagen das tapfere Heer, –

Und der Kaiser, der Kaiser gefangen.

Da weinten zusammen die Grenadier’

Wohl ob der kläglichen Kunde.

Der eine sprach: Wie weh wird mir,

Wie brennt meine alte Wunde!

Der Andre sprach: das Lied ist aus,

Auch ich möcht mit dir sterben,

Doch hab’ ich Weib und Kind zu Haus,

Die ohne mich verderben.

Was scheert mich Weib, was scheert mich Kind,

Ich trage weit bess’res Verlangen;

Laß sie betteln gehn wenn sie hungrig sind, –

Mein Kaiser, mein Kaiser gefangen!

Gewähr’ mir Bruder eine Bitt’:

Wenn ich jetzt sterben werde,

So nimm meine Leiche nach Frankreich mit,

Begrab’ mich in Frankreichs Erde.

Das Ehrenkreuz am rothen Band

Sollst du aufs Herz mir legen;

Die Flinte gieb mir in die Hand,

Und gürt’ mir um den Degen.

So will ich liegen und horchen still,

Wie eine Schildwacht, im Grabe,

Bis einst ich höre Kanonengebrüll,

Und wiehernder Rosse Getrabe.

Dann reitet mein Kaiser wohl über mein Grab,

Viel Schwerter klirren und blitzen;

Dann steig’ ich gewaffnet hervor aus dem Grab –

Den Kaiser, den Kaiser zu schützen.

Bản Dịch

Hai cận vệ bimh trở về nước Pháp

Hi trong những người bị bắt ở Nga

Vừa bước chân về qua nước Đức

Cả hai, đều cúi lặng xót xa

Họ mới nghe một tin buồn bã

Nước Pháp vừa bị trận thua đau

Cả đại quân đã hầu tan rã

Đức vua, đức vua, Ngài bị cầm tù

Nghe câu chuyện thương tâm kể đó

Hai vệ binh nước mắt trào rơi

Một người nói: “Tôi đau đớn quá!”

Vết thương xưa lại phá ra rồi!

Người khác nói: “Đến nông nỗi đó

Thì tôi đây, muốn chết quách đi

Nhưng ở nhà, vợ con tôi nữa

Không có tôi, còn sống nỗi gì”

“Vợ cũng mặc mà con cũng mặc

Lòng tôi đang xiết nỗi lo âu

Vợ con đói, cứ việc đi hành khất!

Đức vua tôi, Đức vua tôi, Ngài bị cầm tù

Xem thêm:  Chiêm ngưỡng 102 bài thơ về biển nổi tiếng có lượt share khủng

Người anh em, hãy nghe tôi cầu khẩn

Nếu như tôi có chết nơi đây

Hãy mang xác tôi về nước Pháp

Đất quê hương tôi được vùi thây

Trên tim tôi bạn ơi đặt xuống

Chiếc huân chương chữ thập cuốn băng hồng

Bạn hãy đặt trong tay tôi khẩu súng

Và thanh gươm cũng bỏ vào cùng

Cứ như thế, trong mồ, tôi phục kích

Hệt như đang tư thế đứng canh

Để chờ đợi tiếng rú gầm đại bác

Và bước chân bầy ngựa hý phi nhanh

Vua cưỡi ngựa, có ngày, qua trước mộ

Trong ánh ngời lấp lánh rừng gươm khua

Đây võ trang, tôi bước ra từ đáy mộ

Để bảo vệ Người, bảo vệ Đức vua

Con của quỷ Der Wechselbalg

Ein Kind mit großem Kürbiskopf,

Hellblondem Schnurrbart, greisem Zopf,

Mit spinnig langen, doch starken Ärmchen,

Mit Riesenmagen, doch kurzen Gedärmchen

Ein Wechselbalg, den ein Korporal,

Anstatt des Säuglings, – den er stahl,

Heimlich gelegt in unsre Wiege –

Die Mißgeburt, die mit der Lüge,

Mit seinem geliebten Windspiel vielleicht,

Der alte Sodomiter gezeugt

Nicht brauch ich das Ungetüm zu nennen –

Ihr sollt es ersäufen oder verbrennen!

Bản Dịch

Đứa bé ấy đầu to như quả bí

Ria hung hung, mái tóc hoa râm

Cặp chân nhện lênh khênh, nhưng khoẻ như vâm

Dạ dày lớn vô cùng, ống ruột thì bé tí

Một viên cai đã ăn trộm con ta

Rồi đem cái giống quỷ xấu xa

Đánh tráo vào trong nôi ta đó

Quái thai này chính là kết quả

Của sự dối lừa mà lão già Sodomiter tạo nên

Với ngón bài xảo trá rất quen

Không cần phải nói tên con quỷ ấy

Cứ ném quách xuống sông, vào lửa cháy

Hãy trấn tĩnh Zur Beruhigung

Wir schlafen ganz, wie Brutus schlief –

Doch jener erwachte und bohrte tief

In Cäsars Brust das kalte Messer!

Die Römer waren Tyrannenfresser.

Wir sind keine Römer, wir rauchen Tabak.

Ein jedes Volk hat seinen Geschmack,

Ein jedes Volk hat seine Größe;

In Schwaben kocht man die besten Klöße.

Wir sind Germanen, gemütlich und brav,

Wir schlafen gesunden Pflanzenschlaf,

Und wenn wir erwachen, pflegt uns zu dürsten

Doch nicht nach dem Blute unserer Fürsten.

Wir sind so treu wie Eichenholz,

Auch Lindenholz, drauf sind wir stolz;

Im Land der Eichen und der Linden

Wird niemals sich ein Brutus finden.

Und wenn auch ein Brutus unter uns wär,

Den Cäsar fänd er nimmermehr,

Vergeblich würd er den Cäsar suchen;

Wir haben gute Pfefferkuchen.

Wir haben sechsunddreißig Herrn

(Ist nicht zuviel!), und einen Stern

Trägt jeder schützend auf seinem Herzen,

Und er braucht nicht zu fürchten die Iden des Märzen.

Wir nennen sie Väter, und Vaterland

Benennen wir dasjenige Land,

Das erbeigentümlich gehört den Fürsten;

Wir lieben auch Sauerkraut mit Würsten.

Wenn unser Vater spazierengeht,

Ziehn wir den Hut mit Pietät;

Deutschland, die fromme Kinderstube,

Ist keine römische Mördergrube.

Bản Dịch

Chúng ta ngủ giấc ngủ của Brutuxơ

Nhưng, tỉnh dậy, anh ta cầm con dao lạnh giá

Cắm ngập sâu vào tim phổi Xêda

Người La Mã thích uống máu ăn gan bạo chúa.

Chúng ta không phải người La Mã, chúng ta chỉ thích hút thuốc thôi

Mỗi dân tộc đều có riêng thị hiếu

Mỗi dân tộc đều có lớn lao riêng

Ở Xoabơ, họ nướng dồi tuyệt khéo.

Chúng ta, những người Nhật Nhĩ Mãn thân mật và dũng cảm

Chúng ta ngủ bằng giấc ngủ cỏ cây

Khi tỉnh giấc, chúng ta cũng khát

Nhưng ta không khát máu các vua đây.

Ta trung thành như những cây sồi và cây bồ đề

Ta kiêu hãnh về lòng trung thực đó

Ôi xứ sở cây sồi và xứ sở bồ đề

Một Brutuxơ đừng hòng tìm có.

Nếu ngẫu nhiên có một Brutuxơ trong ta

Thì không thể tìm Xêda có được

Tìm khắp nơi chỉ luống công thôi

Chúng ta có bánh rắc hồ tiêu ngon tuyệt

Chúng ta có ba mươi sáu vì vua chúa

(Chẳng phải quá nhiều đâu) và mỗi vì vua

Trong tim mình đều có sao chiếu mệnh

Còn có lo gì ngày Rằm tháng Ba.

Chúng ta gọi các vua chúa là cha

Và tổ quốc là quê nhà

Của những ông hoàng được hưởng quyền thế tập

Chúng ta thích vị rau chua kèm xúc xích.

Khi cha ta đi dạo bên ngoài

Ta kính cẩn ngã mũ chào một lượt

Nước Đức là nhà nuôi dạy trẻ thơ ngây

Đâu có phải là hang giặc cướp?

Hoàng đế Trung Hoa

Mein Vater war ein trockner Taps,

Ein nüchterner Duckmäuser,

Ich aber trinke meinen Schnaps

Und bin ein großer Kaiser.

Das ist ein Zaubertrank! Ich habs

Entdeckt in meinem Gemüte:

Sobald ich getrunken meinen Schnaps,

Steht China ganz in Blüte.

Das Reich der Mitte verwandelt sich dann

In einen Blumenanger,

Ich selber werde fast ein Mann,

Und meine Frau wird schwanger.

Allüberall ist Überfluß,

Und es gesunden die Kranken;

Mein Hofweltweiser Confusius

Bekömmt die klarsten Gedanken.

Der Pumpernickel des Soldats

Wird Mandelkuchen – O Freude!

Und alle Lumpen meines Staats

Spazieren in Samt und Seide.

Die Mandarinenritterschaft,

Die invaliden Köpfe,

Gewinnen wieder Jugendkraft

Und schütteln ihre Zöpfe.

Die große Pagode, Symbol und Hort

Des Glaubens, ist fertig geworden;

Die letzten Juden taufen sich dort

Und kriegen den Drachenorden.

Es schwindet der Geist der Revolution,

Und es rufen die edelsten Mandschu:

Wir wollen keine Konstitution,

Wir wollen den Stock, den Kantschu!

Wohl haben die Schüler Äskulaps

Das Trinken mir widerraten,

Ich aber trinke meinen Schnaps

Zum Besten meiner Staaten.

Und noch einen Schnaps, und noch einen Schnaps!

Das schmeckt wie lauter Manna!

Mein Volk ist glücklich, hats auch den Raps,

Und jubelt: Hosianna!

Bản Dịch

Cha ta vốn là một kẻ phàm phu

Một cái bình chứa đầy nước lã

Còn ta, ta uống thứ rượu hâm

Ta, hoàng đế chí tôn cao cả

Chất nước đó thật là màu nhiệm

Trong tim ta phát hiện điều này:

Rượu hâm ấy, ta vừa mới uống

Người Trung Hoa đã hạnh phúc mê say

Đây quốc gia ở trung tâm thế giới

Đã hoá thành vườn thắm hoa tươi

Còn ta nữa, ta nên người thành trưởng

Và vợ ta cũng có mang rồi

Đâu đâu cũng tràn đầy phong phú

Các bệnh nhân khoẻ mạnh như không

Với vị thánh cung đình – Khổng Tử

Đến bao nhiêu tư tưởng sáng trong

Bánh đen lính, chao ôi vui quá

Đã hoá thành bánh nướng hạnh nhân

Khắp đất nước những người áo vá

Đã quấn đây áo dạ áo nhung

Bao nhiêu kẻ phong lưu mã thượng

Và bao nhiêu thương tướng thương binh

Chỉ cần lắc đuôi sam một chút

Là thấy mình có sức thanh xuân

Nơi trú ngụ và tượng trưng lòng tin tưởng

Ngôi chùa to cũng đã hoàn thành

Người Do Thái cuối cùng đã vào chịu lễ

Và được tặng ban long bội tinh

Tinh thần cách mạng đã tắt ngấm

Các ngài Mãn Thanh cao quý hô to:

“Chúng ta chẳng cần ai hiến pháp

Mà chỉ cần roi vọt ban cho!”

Các đồ đệ của Hoa Đà, Biển Thước

Đều khuyên ta chừa rượu đi thôi

Nhưng ta vẫn rượu hâm ta uống

Cho nước ta hạnh phúc tuyệt vời

Hãy cứ rót, rót đầy chén nữa

Ngọt ngào thay cái vị quỳnh tương

Dân ta sướng, dân ta cần roi vọt

Và tung hô: vạn thọ vô cương

Người tuần đêm đến Paris

Nachtwächter mit langen Fortschrittsbeinen,

Du kommst so verstört einhergerannt!

Wie geht es daheim den lieben Meinen,

Ist schon befreit das Vaterland?“

Vortrefflich geht es, der stille Seegen,

Er wuchert im sittlich gehüteten Haus,

Und ruhig und sicher, auf friedlichen Wegen,

Entwickelt sich Deutschland von innen heraus.

Nicht oberflächlich wie Frankreich blüht es,

Wo Freiheit das äußere Leben bewegt;

Nur in der Tiefe des Gemüthes

Ein deutscher Mann die Freiheit trägt.

Xem thêm:  Bài thơ Em Đừng Buồn – Nhà thơ Hồng Giang

Der Dom zu Cöllen wird vollendet,

Den Hohenzollern verdanken wir das;

Habsburg hat auch dazu gespendet,

Ein Wittelsbach schickt Fensterglas.

Die Constitution, die Freiheitsgesetze,

Sie sind uns versprochen, wir haben das Wort,

Und Königsworte, das sind Schätze,

Wie tief im Rhein der Niblungshort.

Der freie Rhein, der Brutus der Flüsse,

Er wird uns nimmermehr geraubt!

Die Holländer binden ihm die Füße,

Die Schwyzer halten fest sein Haupt.

Auch eine Flotte will Gott uns bescheeren,

Die patriotische Ueberkraft

Wird rüstig rudern auf deutschen Galeeren;

Die Festungsstrafe wird abgeschafft.

Es blüht der Lenz, es platzen die Schooten,

Wir athmen frei in der freien Natur!

Und wird uns der ganze Verlag verboten,

So schwindet am Ende von selbst die Censur.

Bản Dịch

Người tuần đêm có bộ dò dài, bộ dò tiến bộ

Cớ làm sao hớt hải đến chi đây?

Những người thân bên nhà đều mạnh khoẻ?

Tổ quốc đà giải phóng từ nay?

– Thật tuyệt vời. Phước Chúa an lành

Đang rưới nhuần quê hương tuần lễ điển

Và vững, êm, theo đường lối hoà bình

Nước Đức cả trong ngoài đang phát triển

Không phải thứ phồn vinh giả tạo Pháp kia đâu

Tự do mới chạm đến lớp vỏ ngoài cuộc sống

Nước Đức mình chỉ mang lấy tự do

Từ trong chốn tâm hồn sâu thẳm

Ngôi nhà thờ Cöllen đã hoàn thành xây dựng

Cũng là nhờ dòng họ Hohenzollern

Habsburg cũng có phần đóng góp

Kính pha lê thì Wittelsbach gửi lên

Một hiến pháp, những luật lệ tự do đã hứa

Đây lời vua hứa hẹn với mình

Lời của vua cũng là tài sản

Như tài sản Niblungshort chìm dưới đáy sông Rhein

Sông Rhein tự do, Brutus của những dòng sông

Mãi mãi không còn ai cướp được

Người Hà Lan đang cột lấy hai chân

Người Thuỵ Sĩ cái đầu đang giữ chặt

Chúa muốn ban cho ta hạm đội

Tấm nhiệt tình yêu nước tràn đầy

Sẽ vui vẻ chèo trên đoàn tàu nước Đức

Tội phạt giam cấm cố bỏ từ đây

Xuân nở hoa, đỗ nổ giòn lách tách

Ta sẽ thở tự do trong khung cảnh tự do

Đã cấm hẳn quyền in báo, sách

Thi còn đâu kiểm duyệt nữa mà lo

Những người thợ dệt miền Xilêdi

Im düstern Auge keine Träne

Sie sitzen am Webstuhl und fletschen die Zähne:

Deutschland, wir weben dein Leichentuch,

Wir weben hinein den dreifachen Fluch –

Wir weben, wir weben!

Ein Fluch dem Gotte, zu dem wir gebeten

In Winterskälte und Hungersnöten;

Wir haben vergebens gehofft und geharrt –

Er hat uns geäfft, gefoppt und genarrt –

Wir weben, wir weben!

Ein Fluch dem König, dem König der Reichen,

Den unser Elend nicht konnte erweichen

Der den letzten Groschen von uns erpreßt

Und uns wie Hunde erschiessen läßt –

Wir weben, wir weben!

Ein Fluch dem falschen Vaterlande,

Wo nur gedeihen Schmach und Schande,

Wo jede Blume früh geknickt,

Wo Fäulnis und Moder den Wurm erquickt –

Wir weben, wir weben!

Das Schiffchen fliegt, der Webstuhl kracht,

Wir weben emsig Tag und Nacht –

Altdeutschland, wir weben dein Leichentuch,

Wir weben hinein den dreifachen Fluch,

Wir weben, wir weben!

Bản Dịch

Trong cặp mắt u buồn không đẫm lệ

Họ ngồi trên khung cửi, nghiến hàm răng:

Nước Đức ơi! Ta dệt liệm cho anh

Dệt vào đó ba lần chửi rủa…

Chúng ta dệt, chúng ta dệt nữa.

Tiên sư ngài thượng đế giả danh

Ta cầu xin khi đói khát khó khăn

Nhưng hy vọng tiêu tan hết cả

Ngài chỉ có phỉnh phờ, dối trá…

Chúng ta dệt, chúng ta dệt nữa.

Tiên sư vì vua của bọn nhà giàu

Đói khổ ta gã có mủi lòng đâu

Gã bóp nặn đến từng đồng xu nhỏ

Và đem bắn chúng ta như chó..

Chúng ta dệt, chúng ta dệt nữa

Tiên sư cái Tổ Quốc dối lừa

Chỉ phồn vinh những tủi nhục nhuốc nhơ

Hoa mới nở đã chóng ngày tàn tạ

Bùn hôi thối nuôi loài sâu béo bổ…

Chúng ta dệt, chúng ta dệt nữa.

Thoi bay đi, khung cửi kêu cót két

Suốt ngày đêm cần cù ta dệt…

Nước Đức già nua, ta dệt liệm cho anh

Dệt vào đó ba lần chửi rủa

Chúng ta dệt, chúng ta dệt nữa.

Những suy nghĩ ban đêm

Denk ich an Deutschland in der Nacht,

Dann bin ich um den Schlaf gebracht,

Ich kann nicht mehr die Augen schließen,

Und meine heißen Tränen fließen.

Die Jahre kommen und vergehn!

Seit ich die Mutter nicht gesehn,

Zwölf Jahre sind schon hingegangen;

Es wächst mein Sehnen und Verlangen.

Mein Sehnen und Verlangen wächst.

Die alte Frau hat mich behext,

Ich denke immer an die alte,

Die alte Frau, die Gott erhalte!

Die alte Frau hat mich so lieb,

Und in den Briefen, die sie schrieb,

Seh ich, wie ihre Hand gezittert,

Wie tief das Mutterherz erschüttert.

Die Mutter liegt mir stets im Sinn.

Zwölf Jahre flossen hin,

Zwölf lange Jahre sind verflossen,

Seit ich sie nicht ans Herz geschlossen.

Deutschland hat ewigen Bestand,

Es ist ein kerngesundes Land,

Mit seinen Eichen, seinen Linden

Werd ich es immer wiederfinden.

Nach Deutschland lechzt ich nicht so sehr,

Wenn nicht die Mutter dorten wär;

Das Vaterland wird nie verderben,

Jedoch die alte Frau kann sterben.

Seit ich das Land verlassen hab,

So viele sanken dort ins Grab,

Die ich geliebt – wenn ich sie zähle,

So will verbluten meine Seele.

Und zählen muß ich – Mit der Zahl

Schwillt immer höher meine Qual,

Mir ist, als wälzten sich die Leichen

Auf meine Brust – Gottlob! Sie weichen!

Gottlob! Durch meine Fenster bricht

Französisch heitres Tageslicht;

Es kommt mein Weib, schön wie der Morgen,

Und lächelt fort die deutschen Sorgen.

Bản Dịch

Nếu đêm đén tôi nhớ nhung nước Đức

Cũng chỉ là trong mộng mị mà thôi

Mắt tôi vẫn trơ trơ không nhắm được

Và tuôn bao dòng lệ nóng sôi.

Những năm tháng đến rồi qua mãi

Từ ngày tôi từ giã mẹ thân yêu

Mười hai năm đã trôi qua đằng đẵng

Càng ngày tôi khổ ải thêm nhiều.

Càng ngày tôi khổ ải nhiều thêm

Bà cụ đã ném tôi cho mệnh số

Tôi nhớ nhung bà cụ khôn nguôi

Ôi bà cụ, cầu lạy trời phù hộ.

Bà cụ hiền thương yêu tôi lắm

Và trong thư bà viết cho tôi

Tôi nhìn thấy bàn tay bà run rẩy

Như trái tim bà mẹ bùi ngùi.

Mẹ tôi luôn hiện về trong trí

Mười hai năm đằng đẳng trôi qua

Mười hai năm phôi pha tàn lụi

Từ buổi tin tôi áp chặt tim bà.

Nước Đức sẽ trường tồn mãi mãi

Xứ sở đây sức khỏe tuyệt vời

Với những cây sồi, cây bồ đề lực lưỡng

Tôi sẽ về thăm lại đấy thôi.

Tôi cũng chẳng vội về thăm nước Đức

Nếu mẹ tôi chẳng ở nơi đây

Tổ quốc chẳng bao giờ chết được

Bà cụ thì có thể chết đi.

Từ ngày tôi từ giã xứ này

Bao nhiêu người đã vùi sâu dưới huyệt

Bấm đốt tay tính những người thân

Tim tôi rỏ máu nhiều đến chết.

Phúc đức sao! từ cửa sổ phòng tôi

Lọt tia sáng của mặt trời nước Pháp

Vợ tôi đến, tươi đẹp như bình minh

Nụ cười xua những nỗi lo nước Đức.

Quyết tử quân

Verlorener Posten in dem Freiheitskriege,

Hielt ich seit dreißig Jahren treulich aus.

Ich kämpfe ohne Hoffnung, daß ich siege,

Ich wußte, nie komm ich gesund nach Haus.

Ich wachte Tag und Nacht – Ich konnt nicht schlafen,

Wie in dem Lagerzelt der Freunde Schar

(Auch hielt das laute Schnarchen dieser Braven

Mich wach, wenn ich ein bißchen schlummrig war).

Xem thêm:  Nhà thơ Thái Bá Tân và tuyển tập những bài thơ vang bóng một thời

In jenen Nächten hat Langweil ergriffen

Mich oft, auch Furcht – (nur Narren fürchten nichts) –

Sie zu verscheuchen, hab ich dann gepfiffen

Die frechen Reime eines Spottgedichts.

Ja, wachsam stand ich, das Gewehr im Arme,

Und nahte irgend ein verdächtger Gauch,

So schoß ich gut und jagt ihm eine warme,

Brühwarme Kugel in den schnöden Bauch.

Mitunter freilich mocht es sich ereignen,

Daß solch ein schlechter Gauch gleichfalls sehr gut

Zu schießen wußte – ach, ich kanns nicht leugnen –

Die Wunden klaffen – es verströmt mein Blut.

Ein Posten ist vakant! – Die Wunden klaffen –

Der Eine fällt, die Andern rücken nach –

Doch fall ich unbesiegt, und meine Waffen

Sind nicht gebrochen – Nur mein Herze brach.

Bản Dịch

Nơi tiền tiêu quyết chiến cho tự do

Ba mươi năm nay tôi trung thành giữ vững

Tôi chiến đấu mà không hy vọng thắng

Biết mình không lành lặn trở về nhà.

Đêm ngày gác, tôi không hề chợp mắt

Như bao nhiêu chiến hữu trong lều

(Tiếng họ ngáy khò khò đánh thức

Những khi nào tôi chợt thiu thiu)

Những đêm ấy tôi thường buồn trống trải

Thấy hãi hùng (không sợ, có thằng điên!)

Để hết sợ tôi thường hắng giọng

Những bài thơ châm biếm ngâm lên.

Cảnh gác đứng, tay ghì chặt súng

Đứa khả nghi vừa thoáng hiện ra thôi

Tôi nhắm bắn thẳng vào giữa bụng

Bắn một viên đạn nóng, nóng như sôi

Cũng có thể thằng ác ôn loại ấy

Giơ súng lên nhắm đúng vào tôi

Chao! Không thể tôi nói điều ngược lại

Vết thương loang – Tôi máu chảy cạn rồi

Trạm gác thiếu người… Vết đạn xé toang…

Một người ngã bao người đứng dậy

Súng còn nguyên… Tim tôi phải nát tan

Tôi ngã xuống mà không hề chiến bại.

Thung lũng nước mắt

Der Nachtwind durch die Luken pfeift,

Und auf dem Dachstublager

Zwei arme Seelen gebettet sind;

Sie schauen so blaß und mager.

Die eine arme Seele spricht:

Umschling mich mit deinen Armen,

An meinen Mund drück fest deinen Mund,

Ich will an dir erwarmen.

Die andere arme Seele spricht:

Wenn ich dein Auge sehe,

Verschwindet mein Elend, der Hunger, der Frost

Und all mein Erdenwehe.

Sie küßten sich viel, sie weinten noch mehr,

Sie drückten sich seufzend die Hände,

Sie lachten manchmal und sangen sogar,

Und sie verstummten am Ende.

Am Morgen kam der Kommissär,

Und mit ihm kam ein braver

Chirurgus, welcher konstatiert

Den Tod der beiden Kadaver.

Die strenge Wittrung, erklärte er,

Mit Magenleere vereinigt,

Hat beider Ableben verursacht, sie hat

Zum mindesten solches beschleunigt.

Wenn Fröste eintreten, setzt’ er hinzu,

Sei höchst notwendig Verwahrung

Durch wollene Decken; er empfahl

Gleichfalls gesunde Nahrung.

Bản Dịch

Gió đêm thổi qua song cửa sổ,

Vào trên giường dưới mái nhà xiêu,

Hai người khổ sở bên nhau,

Chao óiHọ mới xanh xao gầy gò!

Anh cơ cực nhỏ to anh nhắc;

Hãy giơ tay ôm chặt người tôi,

Và môi hãy kề sát môi,

Truyền tôi hơi nóng cho người ấm lên.

Và chị cũng cơ hàn chị nói;

Khi mắt tôi nhìn tới mắt anh,

Bao nhiêu đói khát nhọc nhằn,

Và bao nỗi khổ cõi trần tiêu tan.

Họ ôm nhau lệ tràn trong mắt,

Rồi nắm tay nhau chặt, thở than,

Khẽ cười và cả hát vang,

Đến khi mọi tiếng than vang lịm dần.

Sáng hôm sau ông cò lần đến,

Cả đốc-tờ xét nghiệm tới nơi,

Khám thây anh chị một hồi,

Nhận rằng quả đã chết rồi không sai.

Gã giải thích: Khi trời rét quá.

Lại còn thêm bụng chả cháo rau,

Khiến cho họ chết còn đâu,

Ít ra cũng đẩy họ mau lìa đời.

Gã bổ xung: Khi trời trở lạnh,

Thật cũng cần giúp tấm chăn len.

Gã còn chú ý nhắc thêm,

Đồ ăn thức uống cũng nên đỡ đần.

Dương Đào bệnh trọng 楊濤病重

無端平地起波濤,

送你楊濤入坐牢。

城火池魚堪浩嘆,

而今你又咳成癆。

Bản Dịch

Sóng dậy đất bằng hỏi cớ sao,

Đẩy anh vào ngục, anh Dương Đào;

Cháy thành lây vạ, buồn khôn xiết,

Nay lại thương anh mắc chứng lao.

Ai phù lỗ 哀俘虜

刳血書成欲寄音,

孤飛寒雁塞雲深。

幾家愁對今霄月,

兩處茫然一種心。

Ai phù lỗ

Khoá huyết thư thành dục ký âm,

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.

Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,

Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

Bản Dịch

Chích máu thành thư muốn gửi đưa,

Rẽ mây biên tái, nhạn bơ vơ.

Mấy nhà buồn ngắm trăng đêm vắng,

Xa cách lòng chung một đợi chờ.

Nhân sự đề Cứu Lan tự 因事題究蘭寺

德薄常慚繼祖燈,

空教寒拾起冤憎。

爭如逐伴歸山去,

疊嶂重山萬萬層。

Bản Dịch

Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối,

Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm.

Chi bằng theo bạn về non quách,

Núi dựng non che vạn vạn tầng.

Ngài đội “Đứng vào tường”

“Ngươi làm gì?” Xin lỗi ông bạn,

Ngài đói, ngài đang ăn,

Ngài không muốn bị làm nô lệ

Để cho ai xỏ mũi mà lôi

Thế là tốt, thế mới ra người!

Nhưng nếu ai giết tôi đây, ông bạn tôi ơi,

Thì tất cả chúng tôi đều nghĩ

Ngài cũng sẽ bị khử đi như thế,

Mày có hiểu lôgic của ta chăng?

Nền Cộng hoà muôn năm!

Đứng vào tường!

Viên đội nói,

Miệng nhồm nhoàm,

Rượu nốc mãi,

Đứng vào tường!

“Ngươi làm gì?” “Người các ông cả đấy,

Tôi là giáo sĩ ở Xanh-Béc-na,

Tôi cần phải thoát ra

Đã tám ngày nấp trong tù”

“Ngươi làm gì?” “Chà! chỉ là việc nhỏ,

Đói khổ với nhiều con thôi,

Đã đến lúc cần nghỉ ngơi,

Lão bảy chục tuổi rồi,

Thôi, đi cho mãn kiếp,

Bắn nhanh cho lão chết”

Đứng vào tường!

Viên đội nói,

Miệng nhồm nhoàm,

Rượu nốc mãi,

Đứng vào tường!

“Ngươi làm gì?” “Đây hai danh sách

Với trên hai trăm đứa côn đồ,

Đàn bà, trẻ con và đảng viên cộng sản,

Cả bầy làm loạn, ngài bắn cho”.

“Ngươi làm gì?” “Tôi là vợ goá

Của viên đội chết trận Buốc-giê,

Ông cầm lấy cái này làm chứng:

ÔNg nhìn giúp cho, nghe”

“Trên tay tôi còn đính

Một tấm băng tam tài.”

Đứng vào tường!

Viên đội nói,

Miệng nhồm nhoàm,

Rượu nốc mãi,

Đứng vào tường!

Ngươi làm gì?” “Bốn vết thương

Bốn trận đánh và hai lần phép

Tôi cho chúng những đòn khủng khiếp

Tôi, người Lo-ren… đã được báo thù!”

“Còn tôi, trước ở trạm cứu thương lưu động

Đàn bà không đánh nhau.

Và tôi săn sóc không phân biệt ai đâu.

Cả binh sĩ và những người Công xã”.

“Ô-guýt là tên tôi

Mười ba tuổi chẵn rồi.”

Đứng vào tường!

Viên đội nói,

Miệng nhồm nhoàm,

Rượu nốc mãi,

Đứng vào tường!

“Ngươi làm gì?” “Chao! tôi chết mất

Một tên lính chừng nốc quá say

Đã giết chết cha tôi trước cửa

Khóc cha mình là tội của tôi đây

“Ngươi làm gì?” “Này cái thây dơ bẩn

Hãy chọc da tao ngay

Vì nghề tao sinh sống

Nhờ vào súng hoả mai

Một phát, cho mày lên chầu giời!

Một phát, chào: Muôn năm Công xã!

Đứng vào tường!

Viên đội nói,

Miệng nhồm nhoàm,

Rượu nốc mãi,

Đứng vào tường!

Ở bài viết tuần trước Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 3 đã nhận được rất nhiều phản hồi tích cực từ quý độc giả. Hôm nay chúng tôi tiếp tục với phần 4 hy vọng rằng các bạn sẽ yêu thích bài viết của chúng tôi. Cùng nhau đón chờ phần 5 với những bài thơ còn lại của Hoàng Trung Thông nhé. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …