Home / Chùm thơ chọn lọc / Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Phần cuối

Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Phần cuối

Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Phần cuối

Giới thiệu đến quý độc giả yêu thơ Nguyễn Du phần cuối tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄. Hi vọng với những dưới đây giúp quý độc giả có những giây phút cảm nhận thơ Nguyễn Du thú vị nhất và hiểu rõ phong cách thơ Nguyễn Du.

Chu Lang mộ 周郎墓 • Mộ Chu Lang

周郎墓

燒盡曹家百萬兵,

丈夫差得慰平生。

同年交誼聯孫策,

一世知音得孔明。

瓦礫吳宮荒帝業,

荊蓁古墓上雄名。

二喬香骨藏何所,

眼見銅臺半已傾。

Chu Lang mộ

Thiêu tận Tào gia bách vạn binh,

Trượng phu sai đắc uý bình sinh.

Đồng niên giao nghị liên Tôn Sách,

Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh.

Ngoã lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,

Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh.

Nhị Kiều hương cốt tàng hà sở,

Nhãn kiến Đồng đài bán dĩ khuynh.

Dịch nghĩa

Đốt sạch trăm vạn quân họ Tào

Trượng phu cũng đủ thoả chí bình sinh

Đồng niên anh em bạn rể cùng Tôn Sách

Một đời tri âm có được Khổng Minh

Cung Ngô thành ngói gạch vụn, nghiệp đế tan hoang

Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy, nức tiếng anh hùng

Hương cốt hai Kiều vùi lấp nơi đâu

Mắt thấy đài Đồng Tước một nửa đã nghiêng đổ

Chu Lang tức Chu Du 周瑜, tự Công Cẩn 公瑾, làm đô đốc quân Đông Ngô 東吳. Lúc mới 24 tuổi đã làm tướng, người ta gọi là Chu Lang. Chu Du đánh bại Tào Tháo 曹操 ở trận Xích Bích 赤壁.

Tổ Sơn đạo trung 祖山道中 • Trên đường Tổ Sơn

祖山道中

楓樹林中葉亂飛,

驚沙作雨上征衣。

蕭蕭枯草路一線,

寂寂斜陽山四圍。

去日兩河曾習戰,

紆途千里正思歸。

皤皤白髮紅塵路,

日暮登高悲莫悲。

Tổ Sơn đạo trung

Phong thụ lâm trung diệp loạn phi,

Kinh sa tác vũ thướng chinh y.

Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến,

Tịch tịch tà dương sơn tứ vi.

Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến,

Hu đồ thiên lí chính tư quy.

Bà bà bạch phát hồng trần lộ,

Nhật mộ đăng cao bi mạc bi.

Dịch nghĩa

Trong rừng phong lá bay loạn

Cát tung lên như mưa trên áo người đi

Suốt dặm đường, chỉ là cỏ khô xơ xác

Chiều hôm quạnh quẽ, núi vây bốn bề

Hôm trước, Lưỡng Hà chiến tranh liên miên

Đường đi vòng dài nghìn dặm, làm nhớ quê

Tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ

Trời tối lên cao, không gì buồn thế

Tổ Sơn: Tên vùng núi phía bắc 黃州, tỉnh Chiết Giang 浙江.

Quảng Tế ký thắng 廣濟記勝 • Ghi cảnh đẹp đất Quảng Tế

廣濟記勝

江南湖北地相鄰,

日日繁華不記春。

玉笛樓頭天上曲,

垂楊門外畫中人。

漆盆浴店傾肥皁,

玉手胡姬膾細鱗。

欲典鷫鷞謀一醉,

奈何頭已白如銀。

Quảng Tế ký thắng

Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân,

Nhật nhật phồn hoa bất ký xuân.

Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc,

Thuỳ dương môn ngoại hoạ trung nhân.

Tất bồn dục điếm khuynh phi tạo,

Ngọc thủ Hồ cơ khoái tế lân.

Dục điển túc sương mưu nhất tuý,

Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.

Quảng Tế: tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc.

Đồ trung ngẫu hứng 途中偶興 • Ngẫu hứng giữa đường

途中偶興

山下喬松松下墳,

纍纍都是古時人。

自由自在不知死,

花落花開無限春。

伏臘子孫空酹酒,

世間富貴等浮雲。

百年到底皆如是,

回首芒芒一片塵。

Đồ trung ngẫu hứng

Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần,

Luy luy đô thị cổ thời nhân.

Tự do tự tại bất tri tử,

Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân.

Phục lạp tử tôn không loại tửu,

Thế gian phú quí đẳng phù vân.

Bách niên đáo để giai như thị,

Hồi thủ mang mang nhất phiến trần.

Dịch nghĩa

Dưới chân núi là thông cao, dưới tàn thông là mồ mả

Ngổn ngang gò đống, đều là người xưa cả

Tự do tự tại không biết là đã chết

Hoa rụng hoa nở, mùa xuân vô hạn

Đến tiết phục lạp, con cháu uổng công tưới rượu xuống đất

Giàu sang trên đời như mây nổi

Trăm năm rốt cuộc đều như thế

Quay đầu nhìn chỉ thấy một áng bụi mịt mùng

Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ 榮棨期拾穗處 • Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa

榮棨期拾穗處

三樂人皆有,

如何子獨知。

生貧猶不恤,

老死復何悲。

曠野東山下,

行歌拾穗時。

賢名留此地,

天古起人思。

Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ

Tam lạc nhân giai hữu,

Như hà tử độc tri.

Sinh bần do bất tuất,

Lão tử phục hà bi.

Khoáng dã Đông Sơn hạ,

Hành ca thập tuệ thì.

Hiền danh lưu thử địa,

Thiên cổ khởi nhân tư.

Dịch nghĩa

Ba niềm vui của ông, mọi người đều có

Sao chỉ mình ông biết?

Sống nghèo còn chẳng đoái nghĩ

Già chết lại buồn chi?

Cánh đồng bát ngát bên núi Đông Sơn

Vừa ca vừa mót lúa

Tiếng người hiền lưu lại đất này

Xưa nay người ta nhớ

Xem thêm:  Bài thơ Mùa hạ cũ – Nhà thơ Mạc Phương

Vinh Khải Kỳ là một ẩn sĩ đời Xuân Thu. Sách Liệt tử chép: Khổng Tử đi chơi, thấy Vinh Khải Kỳ ở ngoài đồng vừa đi vừa hát bèn hỏi: “Tiên sinh có điều gì vui mà hát thế?” Vinh Khải Kỳ đáp: “Tôi có rất nhiều điều vui: vui được làm người, quí hơn muôn vật; vui được làm người đàn ông, quí hơn đàn bà; vui được sống lâu 90 tuổi, không chết non. Đó là ba điều vui vậy. Thập tuệ là mót lúa, cũng là tên một bài ca.

Hoàng Châu trúc lâu 黃州竹樓 • Lầu trúc ở Hoàng Châu

黃州竹樓

合圍巨竹遍郊衢,

曾有前人建此樓。

舊址何時成白地,

遺文從古記黃州。

後人徒有千年感,

當日曾無隔歲謀。

惟有長江巧收拾,

一成一毀盡東流。

Hoàng Châu trúc lâu

Hợp vi cự trúc biến giao cù,

Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu.

Cựu chỉ hà thì thành bạch địa,

Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu.

Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm,

Đương nhật tằng vô cách tuế mưu.

Duy hữu Trường giang xảo thu thập,

Nhất thành nhất huý tẫn đông lưu.

Hoàng Châu nay là huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

Mạnh Tử từ cổ liễu 孟子祠古柳 • Cây liễu cổ trước đền thờ Mạnh Tử

孟子祠古柳

吾聞天池之濆有龍夭矯,

今之畫圖無略肖。

風雨一夜飛下來,

化為亞聖官門柳。

此柳渾全百十圍,

養成大物非一時。

雨露天意獨滋潤,

鬼神暗中相扶持。

枝柯落落老益壯,

歲月悠悠深不知。

左蟠右轉當大道,

過客不敢攀其枝。

蔥蔥鬱鬱抱元氣,

天下斯文其在斯。

鄉人支以二石柱,

石柱既深根愈固。

不同凡卉小春秋,

半畝風煙自今古。

灝然之氣非尋常,

大樹應與天齊壽。

Mạnh Tử từ cổ liễu

Ngô văn thiên trì chi phần hữu long yêu kiểu,

Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu.

Phong vũ nhất dạ phi há lai,

Hoá vi á thánh cung môn liễu.

Thử liễu hồn toàn bách thập vi,

Dưỡng thành đại vật phi nhất thì.

Vũ lộ thiên ý độc tư nhuận,

Quỷ thần ám trung tương phù trì.

Chi kha lạc lạc lão ích tráng,

Tuế nguyệt du du thâm bất tri.

Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo,

Quá khách bất cảm phan kỳ chi.

Thông thông uất uất bão nguyên khí,

Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư).

Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ,

Thạch trụ ký thâm căn dũ cố.

Bất đồng phàm huỷ tiểu xuân thu,

Bán mẫu phong yên tự kim cổ.

Hạo nhiên chi khí phi tầm thường,

Đại tài ưng dữ thiên tề thọ.

Mạnh Tử: người nước Trâu, phía nam tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông đi khắp các nước tề, Lương, Tống, Đằng, lúc già lại về nước, cùng với học trò làm sách Mạnh Tử. Đền thờ Mạnh Tử nói đây là ở Sơn Đông.

Từ Châu dạ 徐州夜 • Đêm ở Từ Châu

徐州夜

行路避干戈,

嚴寒渡夜河。

月來南國大,

山入北徐多。

城外列兵甲,

城中聞絃歌。

枯楊三百樹,

樹樹有啼鴉。

Từ Châu dạ

Hành lộ tị can qua,

Nghiêm hàn độ dạ hà.

Nguyệt lai nam quốc đại,

Sơn nhập bắc Từ đa.

Thành ngoại liệt binh giáp,

Thành trung văn huyền ca.

Khô dương tam bách thụ,

Thụ thụ hữu đề nha.

Dịch nghĩa

Đi đường phải tránh vùng giặc giã

Giữa đêm đông giá lạnh, qua sông

Phía nước Nam, trăng lớn

Bắc Từ Châu, núi nhiều

Ngoài thành đầy binh giáp

Trong thành nghe đàn ca

Ba trăm cây dương khô héo

Trên các cây, tiếng quạ kêu

Tiềm Sơn đạo trung 潛山道中 • Trên đường qua Tiềm Sơn

潛山道中

夙有愛山癖,

別後思何如。

來到潛山路,

宛如鴻嶺居。

雲霞猿嘯外,

松柏鶴巢餘。

定有山中客,

平生不識余。

Tiềm Sơn đạo trung

Túc hữu ái sơn tích,

Biệt hậu tư hà như.

Lai đáo Tiềm Sơn lộ,

Uyển như Hồng Lĩnh cư.

Vân hà viên khiếu ngoại,

Tùng bách hạc sào dư.

Định hữu sơn trung khách,

Bình sinh bất thức dư.

Dịch nghĩa

Ta vốn có tính yêu núi

Xa rồi nhớ bao nhiêu

Nay trên đường đi Tiềm Sơn

Tưởng như ở trong dãy Hồng Lĩnh

Mây ráng bên ngoài nơi vượn hú

Cây tùng cây bách có thừa chỗ cho hạc làm tổ

Hẳn có người trong núi

Suốt đời không quen biết ta

Tiềm Sơn: núi thuộc huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy 安徽.

Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích 桃花潭李青蓮舊跡 • Dấu tích cũ của Lý Thanh Liên ở đầm Đào Hoa

桃花潭李青蓮舊跡

桃花潭水千尺清,

潭上松柏冬猶青。

道是唐朝李供奉,

縱飲此潭因得名。

十年酒肆人間世,

天子呼來猶爛醉。

自言臣是酒中仙,

薄視榮名同敝履。

千年勝跡以人傳,

不在悠悠一潭水。

潭水至今清且漣,

一魚一鳥皆成仙。

惆悵斯人不復見,

遠來使我心茫然。

世路塵埃信溷濁,

不如終日痛飲全吾天。

Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích

Đào Hoa đàm thuỷ thiên xích thanh,

Đàm thượng tùng bách đông do thanh.

Đạo thị Đường triều Lý cung phụng,

Túng ẩm thử đàm nhân đắc danh.

Thập niên tửu tứ nhân gian thế,

Thiên tử hô lai do lạn tuý.

Tự ngôn thần thị tửu trung tiên,

Bạc thị vinh danh đồng tệ lý.

Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền,

Bất tại du du nhất đàm thuỷ.

Đàm thuỷ chí kim thanh thả liên,

Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên.

Trù trướng tư nhân bất phục kiến,

Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên.

Thế lộ trân ai tín hỗn trọc,

Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1 桃花驛道中其一 • Trên đường đến trạm Đào Hoa kỳ 1

桃花驛道中其一

潛山入百里,

西接楚山雲。

古石瘦如鬼,

新松長比人。

萬畦宜菽麥,

十日隔風塵。

白連河北山,

山中如不聞。

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1

Tiềm Sơn bát bách lý,

Tây tiếp Sở sơn vân.

Cổ thạch sấu như quỷ,

Tân tùng trường tỷ nhân

Vạn huề nghi thục mạch,

Thập nhật cách .

Bạch Liên Hà Bắc sơn,

Sơn trung như bất văn.

Dịch nghĩa

Trạm Đào Hoa cách Tiềm Sơn tám trăm dặm,

Phía tây tiếp liền mây núi Sở.

Đá cổ gầy như quỷ,

Thông non cao bằng người.

Vạn khoảng ruộng, dâu lúa đều tốt,

Đã mười ngày xa gió bụi.

Qua dãy Bạch Liên ở Hà Bắc,

Trong núi vắng lặng như không nghe thấy gì.

Đào Hoa thuộc tỉnh An Huy 安徽, nơi có đầm Đào Hoa nổi tiếng (xem bài Đào Hoa đàm Lý Thanh Hiên cựu tích).

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2 桃花驛道中其二 • Trên đường đến trạm Đào Hoa kỳ 2

桃花驛道中其二

雞犬出桑麻,

沿溪小逕斜。

山田常積水,

野飯半含沙。

石隱高人屋,

塵隨貴者車。

孤煙在天末,

今夜宿誰家?

Xem thêm:  Bài thơ Chào Xuân – Nhà thơ Hồng Gian

Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2

Kê khuyển xuất tang ma,

Duyên khê tiểu kính tà.

Sơn điền thường tích thuỷ,

Dã phạn bán hàm sa.

Thạch ẩn cao nhân ốc,

Trần tuỳ quí giả xa.

Cô yên tại thiên mạt,

Kim dạ túc thuỳ gia?

Dịch nghĩa

Gà chó từ đám dâu chạy ra.

Một chênh chếch men theo khe.

Ruộng núi thường chứa nước.

Bữa cơm ngoài đồng lẫn cát sạn.

Đá che lấp nhà người cao sĩ,

Bụi bám theo xe người sang trọng.

Ngọn khói lẻ loi tận chân trời,

Đêm nay biết nghỉ nhà ai?

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài 梁昭明太子分經石臺 • Đài đá chia kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương

梁昭明太子分經石臺

梁朝昭明太子分經處,

石臺猶記分經字。

臺基蕪沒雨花中,

百草驚寒盡枯死。

不見遺經在何所,

往事空傳梁太子。

太子年少溺菸文,

強作解事徒紛紛。

佛本是空不著物,

何有乎經安用分。

靈文不在言語科,

孰為金剛為法華。

色空境界茫不悟,

癡心歸佛佛生魔。

一門父子多膠蔽,

一念之中魔自至。

山陵不涌蓮花臺,

白馬朝渡長江水。

楚林禍木池殃魚,

經卷燒灰臺亦圯。

空留無益萬千言,

後世愚僧徒聒耳。

吾聞世尊在靈山,

說法渡人如恆河沙數。

人了此心人自渡,

靈山只在汝心頭。

明鏡亦臺,

菩提本無樹。

我讀金剛千遍零,

其中奧旨多不明。

及到分經石臺下,

終知無字是眞經。

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ

Thạch đài do ký “Phân kinh” tự

Đài cơ vu một vũ hoa trung

Bách thảo kinh hàn tận khô tử

Bất kiến di kinh tại hà sở

Vãng sự không truyền Lương thái tử

Thái tử niên thiếu nịch ư văn

Cưỡng tác giải sự đồ phân phân

Phật bản thị không bất trước vật

Hà hữu hồ kinh an dụng phân

Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa

Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa

Sắc không cảnh giới mang bất ngộ

Si tâm quy Phật Phật sinh ma

Nhất môn phụ tử đa giao tế

Nhất niệm chi trung ma tự chí

Sơn lăng bất dũng liên hoa đài

triêu độ Trường Giang thuỷ

Sở lâm hoạ mộc trì ương ngư

Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ

Không lưu vô ích vạn thiên ngôn

Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ

Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn

Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Minh kính diệc phi đài

Bồ Đề bản vô thụ

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

Kì trung áo chỉ đa bất minh

Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ

Chung tri vô tự thị chân kinh

Dịch nghĩa

Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh

Đài đá còn ghi chữ “Chia kinh”

Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi

Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết

Không thấy kinh còn lại nơi đâu

Chỉ nghe kể chuyện thời xưa

Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương

Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối

Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật

Có gì tuỳ thuộc vào kinh mà chia với phân?

Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ

Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?

Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu

U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma

một nhà cùng mù quáng hết

Chỉ trong một niệm, ma tự đến

Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên

Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang

Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai hoạ, cá trong ao bị vạ

Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ

Muôn nghìn lời để lại đều vô ích

Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai

Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn

Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng

Người hiểu tâm này, người tự độ

Linh Sơn chính ở tại lòng ta

Gương sáng không có đài

Bồ đề vốn không cây

Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần

Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ

Đến nay, dưới đài đá “Chia kinh”

Mới hiểu kinh “không chữ” mới thật là chân kinh

Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.

Tây Hà dịch 西河驛 • Trạm Tây Hà

西河驛

青石橋西岸,

依然小里閭。

道傍人語雜,

屋後竹陰疏。

禾本供晨燒,

春聯待歲除。

相逢無別話,

一笑意何如。

Tây Hà dịch

Thanh thạch kiều tây ngạn,

Y nhiên tiểu lý lư.

Đạo bàng nhân ngữ tạp,

Ốc hậu trúc âm sơ.

Hoà bản cung thần thiếu,

Xuân liên đãi tuế trừ.

Tương phùng vô biệt thoại,

Nhất tiếu ý hà như.

Dịch nghĩa

Bên bờ phía tây cầu đá xanh

Xóm nhỏ vẫn như cũ

Bên đường tiếng người tạp nhạp

Sau nhà bóng trúc thưa

Gốc rạ dành để đốt lửa sớm

Câu đối xuân chờ hết năm cũ

Gặp nhau không nói năng gì

Chỉ cười, ý ra sao

Tây Hà thuộc tỉnh Sơn Tây.

Sở kiến hành 所見行 • Những điều trông thấy

所見行

有婦攜三兒,

相將坐道旁。

小者在懷中,

大者持竹筐。

筐中何所盛,

藜藿雜枇糠。

日晏不得食,

衣裙何框禳。

見人不仰視,

淚流襟浪浪。

群兒且喜笑,

不知母心傷。

母心傷如何,

歲饑流異鄉。

異鄉稍豐熟,

米價不甚昂。

不惜棄鄉土,

苟圖救生方。

一人竭傭力,

不充四口糧。

沿街日乞食,

此計安可長。

眼下委溝壑,

血肉飼豺狼。

母死不足恤,

撫兒增斷腸。

奇痛在心頭,

天日皆為黃。

陰風飄然至,

行人亦悽惶。

昨宵西河驛,

供具何張黃。

鹿筋雜魚翅,

滿棹陳豬羊。

長官不下箸,

小們只略嘗。

撥棄無顧惜,

鄰狗厭膏粱。

不知官道上,

有此窮兒娘。

誰人寫此圖,

持以奉君王。

Sở kiến hành

Hữu phụ huề tam nhi

Tương tương toạ đạo bàng

Tiểu giả tại hoài trung

Ðại giả trì trúc khuông

Khuông trung hà sở thịnh

Lê hoắc tạp tì khang

Nhật án bất đắc thực

Y quần hà khuông nhương

Kiến nhân bất ngưỡng thị

Lệ lưu khâm lang lang

Quần nhi thả hỉ tiếu

Bất tri mẫu tâm thương

Mẫu tâm thương như hà

Tuế cơ lưu dị hương

Dị hương sảo phong thục

Mễ giá bất thậm ngang

Bất tích khí hương thổ

Cẩu đồ cứu sinh phương

Nhất nhân kiệt dung lực

Bất sung tứ khẩu lương

Duyên nhai nhật khất thực

Thử kế an khả trường

Nhãn hạ uỷ câu hác

Huyết nhục tự sài lang

Mẫu tử bất túc tuất

Phủ nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống tại tâm đầu

Thiên nhật giai vị hoàng

Âm phong phiêu nhiên chí

Hành nhân diệc thê hoàng

Tạc tiêu Tây Hà dịch

Cung cụ hà trương hoàng

Lộc cân tạp ngư xí

Mãn trác trần trư dương

Trưởng quan bất hạ trợ

Tiểu môn chỉ lược thường

Bát khí vô cố tích

Lân cẩu yếm cao lương

Bất tri quan đạo thượng

Hữu thử cùng nhi nương

Thuỳ nhân tả thử đồ

Trì dĩ phụng quân vương

Xem thêm:  Khách quê - Lê Hải Châu

Dịch nghĩa

dắt ba đứa con

Cùng nhau ngồi bên đường

Ðứa nhỏ trong bụng mẹ

Ðứa lớn cầm giỏ tre

Trong giỏ đựng gì lắm thế?

Rau lê, hoắc lẫn cám

Qua trưa rồi chưa được ăn

Áo quần sao mà rách rưới quá

Thấy người không ngẩng nhìn

Nước mắt chảy ròng ròng trên áo

Lũ con vẫn vui cười

Không biết lòng mẹ đau

Lòng mẹ đau ra sao?

Năm đói lưu lạc đến làng khác

Làng khác mùa màng tốt hơn

Giá gạo không cao quá

Không hối tiếc đã bỏ làng đi

Miễn sao tìm được phương tiện sống

Một người làm hết sức

Không đủ nuôi bốn miệng ăn

Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày

Cách ấy làm sao kéo dài mãi được

Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh

Máu thịt nuôi lang sói

Mẹ chết không thương tiếc

Vỗ về con càng thêm đứt ruột

Trong lòng đau xót lạ thường

Mặt trời vì thế phải vàng uá

bỗng ào tới

Người đi đường cũng đau đớn làm sao

Ðêm qua ở trạm Tây Hà

Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức

Gân hươu cùng vây cá

Ðầy bàn thịt heo, thịt dê

Quan lớn không thèm đụng đũa

Ðám theo hầu chỉ nếm qua

Vứt bỏ không luyến tiếc

Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon

Không biết trên đường cái

Có mẹ con đói khổ nhà này

Ai người vẽ bức tranh đó

Ðem dâng lên nhà vua

Hoàng Mai sơn thượng thôn 黃梅山上村 • Xóm núi Hoàng Mai

黃梅山上村

山下有長松,

山上有遙村。

山下長松梢,

正當山上門。

門內所居人,

窮年何所為。

女事惟績麻,

其男業耘耔。

耘耔苟得閒,

下山伐松枝。

聊以足官稅,

不事書與詩。

催租一不到,

雞犬皆熙熙。

密石礙車馬,

雜花當歲時。

山外興與廢,

山中皆不知。

算來一年中,

所憂無一時。

所以山中人,

人人皆其頤。

松花柏子肯許食,

白頭去此將安歸。

Hoàng Mai sơn thượng thôn

Sơn hạ hữu trường tùng

Sơn thượng hữu diêu thôn

Sơn hạ trường tùng sao

Chính đương sơn thượng môn

Môn nội sở cư nhân

Cùng niên hà sở vi

Nữ sự duy tích ma

Kì nam nghiệp vân tỉ

Vân tỉ cẩu đắc gian

Hạ sơn phạt tùng chi

Liêu dĩ túc quan thuế

Bất sự thư dữ thi

Thôi tô nhất bất đáo

Kê khuyển giai hi hi

Mật thạch ngại xa mã

Tạp hoa đương tuế thì

Sơn ngoại hưng dữ phế

Sơn trung giai bất tri

Toán lai nhất niên trung

Sở ưu vô nhất thì

Sở dĩ sơn trung nhân

Nhân nhân giai kỳ di

Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực

Bạch đầu khứ thử tương an quy

Dịch nghĩa

Dưới chân núi có tùng cao

Trên núi có xóm xa

Ngọn tùng cao dưới núi

Cao ngang cổng trên núi

Người ở trong cổng ấy

Quanh năm làm gì?

Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai

Việc đàn ông là cầy cấy

Cầy cấy, lúc nhàn rỗi

Xuống núi chặt cành tùng

Lo đủ thuế nộp cho quan

Không bận sách cùng thơ

Quan đòi thuế mà không đến

Gà chó vui phởn phơ

Đá kín dầy cản xe ngựa

Các loại hoa cho biết mùa trong năm

Sự hưng phế bên ngoài núi

Người ở trong núi đều không biết

Tính lại suốt năm

Chẳng bao giờ lo âu

Cho nên người trong núi

Người người sống lâu trăm tuổi

Hoa tùng quả bách mà ăn được

Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa

Hoàng Mai: Núi ở huyện Hoàng Mai, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Bài thơ có khí vị giống bài Đào hoa nguyên ký của Đào Uyên Minh (365-427): “Dân trong vùng Suối hoa đào cũng ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục của mình, không giao thiệp với người ngoài, cũng chẳng có quan lại triều đình gì cả, và tiếng gà tiếng chó tiếp nhau”. (Xem Cổ văn Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản, Houston, USA, trang 189).

Hoàng Mai đạo trung 黃梅道中 • Trên đường Hoàng Mai

黃梅道中

吳山行已遍,

楚山來更多。

到得青山盡,

其如白髮何。

衡岳雪初霽,

洞庭春水波。

計程在三月,

猶及薔薇花。

Hoàng Mai đạo trung

Ngô sơn hành dĩ biến,

Sở sơn lai cánh đa.

Đáo đắc thanh sơn tận,

Kì như bạch phát hà.

Hành Nhạc tuyết sơ tễ,

Động đình xuân thuỷ ba.

Kế trình tại tam nguyệt,

Do cập tường vi hoa.

Dịch nghĩa

Núi nước Ngô đã đi khắp

Đến nước Sở, núi càng nhiều

Đến được chỗ tận cùng núi xanh

Đầu bạc biết sao bây giờ

Đến Hành Dương, Nhạc Dương, tuyết vừa tạnh

Hồ Động Đình, nước xuân sóng sánh

Tính đường đi, tháng ba về tới

Còn kịp thấy hoa tường vi

Hoàng Mai: dãy núi ở huyện Hành Dương 衡陽 tỉnh Hồ Nam.

Chu phát 舟發 • Thuyền ra đi

舟發

去遍東南路,

匆匆歲欲週。

使從江漢口,

來泛洞庭舟。

人比來時瘦,

江同去日秋。

鶴樓成詠處,

白雲空悠悠。

Chu phát

Khứ biến đông nam lộ,

Thông thông tuế dục chu.

Sử tòng Giang Hán khẩu,

Lai phiếm Động Đình chu.

Nhân bỉ lai thì sấu,

Giang đồng khứ nhật thu.

Hạc lâu thành vịnh xứ,

Bạch vân không du du.

Dịch nghĩa

Đi khắp đường đông nam

Thấm thoát năm gần hết

Thuận theo cửa sông Giang Hán

Dong thuyền qua hồ Động Đình

Người gầy hơn so với lần đến

Sông vẫn là thu ngày trước

Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ

Mây trắng cứ lững lờ trôi

Trên đường về nước, trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm Quí Dậu (1813), Nguyễn Du khởi hành từ Yên Kinh (tức Bắc Kinh bây giờ) ngày 24 tháng 10. Trong bản tấu trình lên vua Gia Long, Nguyễn Du ghi rõ “đi theo một dãy các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc mà về Quảng Tây. (…) Ngày 11 mới đến tỉnh thành Võ Xương, từ đấy lại theo đường thuỷ mà đi”. Nguyễn Du qua sông Giang (Trường Giang) và sông Hán (Hán Khẩu), ghé Động Đình Hồ đẹp nhất trong Ngũ Hồ, thắng cảnh Trung Quốc. Nguyễn Du lại đi qua Võ Xương, nơi đã thăm trong lần đến, vào mùa thu năm đó. Võ Xương có Hoàng Hạc lâu là nơi Thôi Hiệu 崔顥 đề thơ: “Bạch vân thiên tải không du du” 白雲千載空悠悠 (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch).

Trên đây là phần cuối của tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 Nguyễn Du. Hi vọng với những chia sẻ của chúng tôi trên đây, những người yêu thơ Nguyễn Du sẽ có những phút giây cảm nhận thơ ông thú vị nhất.

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …