Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ đặc sắc của nước ta. Ông cùng với ngòi bút tài hoa, phong cách của mình đã làm nên những tác phẩm vang danh. Kho tàng thơ của ông được ca tụng và được nhiều người ngưỡng mộ
Ngoài kho tàng thơ ấn tượng thì ông còn là một người thông thạo ngôn ngữ khi đã dịch được rất nhiều bài thơ vang danh trên thế giới. Ngay bây giờ chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng khả năng của ông qua những bài thơ dưới đây nhé!
Thế giới không kết thúc (03)
Bởi quá đói nghèo chúng tôi phải đặt mồi vào bẫy chuột. Trong hầm chứa thức ăn ắng lặng vô cùng. Tôi thấy bước chân lũ chuột lên xuống cầu thang, cả tiếng chúng vật nhau trong ổ tối.
Một con chuột trong khi nhấm tai tôi đã thì thào buồn bã:”Ôi những tháng ngày tồi tệ và đen tối của cả hai ta”.
Rồi năm tháng lặng lờ trôi. Mẹ tôi mặc chiếc áo cổ lông mèo. Bà lặng lẽ và nhẫn nại vuốt cái cổ áo lông mèo cho đến lúc, những đốm lông mèo phát sáng cả nhà kho.
Thế giới không kết thúc (04)
I am the last Napoleonic soldier. It’s almost two hundred years later and I am still retreating from Moscow. The road is lined with white birch trees and the mud comes up to my knees. The one-eyed woman wants to sell me a chicken, and I don’t even have any clothes on.
The Germans are going one way; I am going the other. The Russians are going still another way and waving good-by. I have a ceremonial saber. I use it to cut my hair, which is four feet long.
Bản Dịch
Tôi là người lính Napoleon cuối cùng. Gần 200 năm sau tôi vẫn trên con đường từ Moscow trở về quê mẹ. Bạch dương dựng lên con đường xa lắc. Bụi đất vung lên tận đầu gối của tôi. Người đàn bà chột mắt muốn báo cho tôi một con gà. Nhưng tôi chẳng có gì ngay cả bộ áo quần để mặc.
Và kia những người Đức đang đi trên con đường của họ. Tôi vẫn đi trên con đường của tôi. Còn những người Nga vẫn đi trên một con đường khác nữa. Họ vẫy tay chào tạm biệt tôi. Tôi chỉ có một thanh kiếm cong để dùng trong nghi lễ. Và tôi rút ra cắt mái tóc dài chừng một mét của mình.
Thế giới không kết thúc (06)
Đã là kỷ nguyên của những chủ nhân biết bay lên. Có những buổi tối chúng tôi nhìn thấy những người đàn bà, đàn ông trôi bồng bềnh trên những ngọn cây sẫm tối. Họ đang ngủ hay là đang suy ngẫm? Họ không hề có ý vượt trùng dương. Những ngọn gió huých họ chưa bao giờ nhẹ thế. Chúng tôi hoang mang không dám nói và cả không dám thở. Cả những con chim ăn đêm cũng ngậm mỏ im lìm. Rồi sau đó chúng tôi thấy người già đánh rơi mũ mình vào vòm cây bách.
Buổi sáng thức dậy thấy bầu trời không một gợn mây. Bên lề đường vài con quạ đang rỉa lông lơ đãng. Còn những chiếc sơ mi đang vắt những ống tay rỗng của mình lên chiếc dây phơi của một mụ già.
Thế giới không kết thúc (08)
The city had fallen. We came to the window of a house drawn by a madman. The setting sun shone on a few abandoned machines of futility. “I remember,” someone said, “how in ancient times one could turn a wolf into a human and then lecture it to one’s heart’s content.”
Bản Dịch
Thành phố đã đổ rồi. Chúng tôi kéo nhau đến bên cửa sổ ngôi nhà, bởi thích xem một người điên. Mặt trời đang lặn hắt những tia sáng mệt mỏi lên những cỗ máy bị bỏ quên vô ích. Có ai đó thì thầm bên tôi:” Ta vẫn nhớ những ngày xa xưa, người ta có thể biến một con sói thành một con người. Và sau đó giảng dạy con người kia về những gì trái tim người chứa đựng.
Thế giới không kết thúc (10)
Một cái đầu búp bê bằng sứ 100 năm tuổi bị sóng biển đánh dạt lên bờ cát xám. Thế là người ta muốn biết nguồn gốc cái đầu búp bê kia. Bởi thế người ta dựng lên biết bao câu chuyện.
Cái đầu búp bê ở dưới biển quá lâu. Mắt và mũi nó bị bào mòn năm tháng. Nụ cười của nó nhợt nhạt hơn cả sự nhợt nhạt. Khi đêm trùm kín biển, người ta muốn được ngắm nhìn chính mình dạo gót trên bãi cát vắng tanh và cúi xuống nhìn cái đầu búp bê im lặng.
Thế giới không kết thúc (15)
Người đàn ông đã bị xử hình từ đoạn đầu đài bước xuống. Ông ôm chặt cái đầu cuả ông đang chảy máu ròng ròng. Lúc ấy táo trong vườn đang trổ hoa rạo rực. Người đàn ông tìm đường về quán rượu trong làng.
Ông ngồi xuống bên bàn và gọi hai cốc bia. Một cốc cho ông và một cốc cho cái đầu ông đã lìa khỏi cổ. Mẹ tôi lau tay vào tạp dề và mang bia cho họ.
Ánh sáng 가벼움
불꽃이 타는
이마 위에 물을 이고
물의 진양조의 무게 아래 숨지는
나비 같은 가벼움
나비 같은 불꽃이 타는
이마 위에 물살을 이고
퍼붓어 내리는 비의 쌔하얀
파성을 이고 불꽃이 타는
이마 위에 이마 위에
총창이 그어댄 주름살의 나비 같은
익살을 이고
불꽃이 타는 그 이마 위에
물살이 흐르고 옆으로
옆으로 흐르는 물살만이 자유롭고
불꽃이 타는 이마 위에
퍼붓어 내리는 쌔하얀
공포를 이고
숨져간 그날의 너의
나비 같은 가벼움
Bản Dịch
Giống một con bướm tắt thở
Dưới sức nặng nhịp chảy chậm của nước
Đọng trên trán
Bùng cháy,
ánh sáng
Những ngọn lửa giống những con bướm
Cháy trên trán
Sinh ra quyền lực của nước
Những cơn mưa đổ xuống
Và trên trán sinh ra lời nhạo báng
Giống những con bướm, những vệt nước
Được rạch bởi súng và gươm
Trong khi nước chảy theo đường này
Chỉ có nước chảy
Tự do
Trên vầng trán đang cháy
Sinh ra cơn mưa
Đổ xuống, chảy kinh hãi, và ngươi
Chết trong ngày này
Toàn bộ ánh sáng của ngươi
Con bướm
Bộ quần áo màu xanh da trời 푸른옷
새라면좋겠네
물이라면혹시는바람이라면
여윈알몸을가둔
옷푸른빛이여바다라면
바다의한때나마꿈일수나마있다면
가슴에꽂히어아프게피흐르다
굳어버린네모의붉은표지여네가없다면
네가없다면
아아죽어도좋겠네
재되어흩날리는운명이라도나는좋겠네.
캄캄한밤에그토록
새벽이오길애가타도록
기다리던눈들에흘러넘치는맑은눈물들에
영롱한나팔꽃한번이나마어릴수있다면
햇살이빛날수만있다면…
꿈마다먹구름뚫고열리던새푸른하늘
쏟아지는햇살아래잠시나마서있을수만있다면
좋겠네푸른옷에갇힌채죽더라도좋겠네.
그것이생시라면
그것이지금이라면
그것이끝끝내끝끝내
가리어지지만않는다면….
Bản Dịch
Thật tuyệt vời, nếu tôi là một con chim
Nước
Và gió
Bộ quần áo che tấm thân trần truồng và gầy guộc của tôi
Màu xanh ấy
cho biển cả
Một giấc mơ, một khoảnh khắc
của biển khơi
Bị thúc ép đi vào tim tôi, máu chảy
Đớn đau
Để ngươi được tự do
Ta vui lòng chết
Vui lòng biến thành tro bụi
Suốt đêm đen khao khát ban mai
Nếu chỉ nước mắt rơi từ đôi mắt đợi chờ
Có thể phản chiếu chỉ một lần
Sự rực rỡ của ban mai
Và ánh mặt trời chiếu sáng
Nếu chỉ để đợi trong khoảnh khắc
Trong ánh sáng đổ xuống
Từ bầu trời xanh trong những cơn mơ
Xuyên thủng những đám mây đen
Mở ra, hạnh phúc
Và bị giam cầm trong những bộ quần áo màu xanh da trời
Ta sẽ vui lòng chết
Nếu đó là sự thật
Khoảnh khắc này
Và được che giấu
Cho tới phút cuối cùng
Cánh đồng hoang vắng
Cái gì nơi đây
Đang rơi xuống?
Cái gì nơi đây
Đang kêu gào?
Bị dồn đuổi trước những ngọn gió
Những con sóng trắng
Làm ẩm ướt trái đất nóng bỏng
Những cánh đồng hoang vắng của Hant’alli
Và cái gì nơi đây
Đang dần dần đổ nát?
Giống những giấc mơ kinh hãi, bãi chiến trường xưa
Trên những đống đá bạc trắng bởi nắng trời, họ run sợ
Tiếng những viên đạn rít trên đầu
Và những ngọn gió thầm thĩ
Đây tiếng những đỉnh núi cổ xưa đổ xuống
Tiếng những bông hoa
Và những quả dâu dại đổ tràn ngập cánh đồng
Cái màu đỏ điên rồ của chúng
Nơi còn lại những lâu đài hoang tàn
Và đây, tiếng những chiếc kèn trôm-pét
Kể về cuộc chiến triền miên
Âm thanh dội vào tai tôi
Và âm vang trong tim
Tiếng sôi của máu
Thanh bình
Thanh bình như dòng sông buổi hoàng hôn
Những cây Irit cháy trên cánh đồng hoang vắng
Và kia những âm thanh trở lại
Một cái gì đó bền vững đang vỡ ra
Một cái gì đó
Đang dần dần đổ xuống
Chiếc giếng 우물
우물에서 달을 길어
빠져죽었네
드레박에.
길게 누운 구름에 묻고 죽었네
꿈꾸든 산머리는
바람에 짤려
고원
아아 고원에서 지나간
지나간 날의 눈깊은 국경의 밤에
높히 울든 하얀 말
높히 울든 무성의 찰수숫대
목줄기가 찢어졌네
꽃샘아래 철죽목.
온갖 이쁜 소리의 방울과 우렁찬
모든 종들이 굳게 굳게 입을 다물 때
밤이 깊으면 마른 번개의 밤이 깊으면
젊어서들 죽었네
홀로 깨어 일어나 촛불을 밝힌 죄로
도래질을 남기고 끄덕임도 남기고
물마른 우물전엔 흠을 남기고
드레박에 죽었네
우물에서 달을 길어
빠져죽었네.
Bản Dịch
Kéo vầng trăng từ giếng lên
Đã rơi và chết
Trong chiếc thùng múc nước
Trong những đám mây
Bị giết và được mai táng
Cơn mơ của đỉnh núi
Chợt tan trong gió
Trên những cao nguyên, ôi
Ngày trôi đi trên những cao nguyên
Một đêm nơi biên giới
Con ngựa trắng vùi trong tuyết kêu than
Tiếng những gốc kê Musong rên rỉ
Những cổ họng rách toác bị đốn đổ
Sương chợt đến hoa đỗ quyên chợt nở
Khi những cái miệng chuông của mọi giọng nói đáng yêu
Của tất cả những chùm chuông lộng lẫy câm lặng
Và đêm thẳm sâu
Đêm ngập tràn ánh sáng
Những ai chết trẻ trong tội lỗi
Thức dậy cô đơn và thắp nến lên
Để lại cái gật đầu
Để lại cái lắc đầu
Để lại con đường mòn
Chạy quanh cái giếng khô
Và chết trong thùng
Vầng trăng rơi xuống và đã chết
Giờ vớt trẵng từ đáy giếng lên
Con đường 길
걷기가 불편하다.
가야하고 또 걸어야만 하는 이 곳
미루어 주고 싶다
다하지 못한 그리움과
끝내지 못한 슬픈 노래를
허나
길은 걸어야 하고 생각은
가야 하나 보다.
눈물이 흐른다
보내야 하고 잊어야 하는 이 곳
눈 있어 보지 못한 너와
입 있어 말 못하는 내가
허나
길은 걸어야 하고
생각은 가야 하나 보다.
Bản Dịch
Để ra đi, thật nặng nề
Nơi chốn tôi phải đi
Chuyến đi tiếp theo này,
Tôi đã trì hoãn
Dẫu tôi không thể kết thúc bài ca
Và với sự đợi chờ vô tận
Hình như tôi vẫn phải đi
Nước mắt, nước mắt rơi
Một nơi chốn tôi phải quên và từ bỏ
Người với đôi mắt của người không nhìn thấy
Tôi
với cái miệng
của người không nói được
Vẫn phải đi trên đường này
Hình như chúng ta phải đi
Con đường trên trái đất vàng 황톳길
황톳길에 선연한
핏자욱 핏자욱 따라
나는 간다 애비야
네가 죽었고
지금은 검고 해만 타는 곳
두 손엔 철삿줄
뜨거운 해가
땀과 눈물과 모밀밭을 태우는
총부리 칼날 아래 더위 속으로
나는 간다 애비야
네가 죽은 곳
부줏머리 갯가에 숭어가 뛸 때
가마니 속에서 네가 죽은 곳
밤마다 오포산에 불이 오를 때
울타리 탱자도 서슬 푸른 속니파리
뻗시디 뻗신 성장처럼 억세인
황토에 대낮 빛나던 그날
그날의 만세라도 부르랴
노래라도 부르랴
대샆에 대가 성긴 동그만 화당골
우물마다 십 년마다 피가 솟아도
아아 척박한 식민지에 태어나
총칼 아래 쓰러져간 나의 애비야
어이 죽순에 괴는 물방울
수정처럼 맑은 오월을 모르리 모르리마는
작은 꼬막마저 아사하는
길고 잔인한 여름
하늘도 없는 폭정의 뜨거운 여름이었다
끝끝내
조국의 모든 세월은 황톳길은
우리들의 희망은
낡은 짝배들 햇볕에 바스라진
뻘길을 지나면 다시 메밀밭
희디흰 고랑 너머
청천 드높은 하늘에 갈리든
아아 그날의 만세는 십 년을 지나
철삿줄 파고드는 살결에 숨결 속에
너의 목소리를 느끼며 흐느끼며
나는 간다 애비야
네가 죽은 곳
부줏머리 갯가에 숭어가 뛸 때
가마니 속에서 네가 죽은 곳.
Bản Dịch
Trên con đường xuyên qua trái đất màu vàng
Con lần theo vết máu, cha ơi
Nơi cha chết giờ một màu đen thẫm
Chỉ có mặt trời thiêu cháy
Nước mắt, mồ hôi, và mặt trời nóng bỏng
Dưới họng súng, mũi gươm, cha ơi
Con tìm đến nơi cha đã chết
Trong một bao tải đựng thóc
Khi những con cá phèn nhảy lên và quẫy rạch
Bên bờ Suối Cha Già
Ngọn lửa đèn hiệu đêm đêm thắp sáng trên núi Opô
Cho đến một ngày ánh sáng đổ trên mặt đất
Trên trái đất màu vàng sự bền bỉ như một sức mạnh
phục hồi những cây cam làm hàng rào
và chiếc lá tinh thần xanh như nước biển
Hãy để chúng con cất tiếng thét vang lấy lại tinh thần
Tiếng thét ấy toả ra như ánh sáng
Hát những bài ca của ngày ấy
Ở Hwadang, nơi những cây tre
mọc lên từ những đốt khẳng khiu
Và máu dâng lên trong từng lòng giếng
Suốt mười năm
Cha ơi
Người sinh ra trên mảnh đất thuộc địa cỗi cằn
Và ngã xuống bởi gươm và súng
Trong những giọt nước đọng trên những chiếc măng tre
Chúng con đến và nhận thấy tháng Năm trong tựa pha lê
Và mùa hạ kéo dài trong ác độc
Những đứa bé chưa biết đi chết đói
Mùa hạ của chuyên chế bạo tàn
Đã ùa tới mọi con đường của mảnh đất này
Con đường trên trái đất màu vàng
Niềm hy vọng chúng ta
Và lan tới con đường cát biển
Nơi những con thuyền cũ nát
Đang mục dưới mặt trời
Rồi băng qua những cánh đồng lúa mạch
Và cuộn lốc tới trời cao
Những tiếng khóc kêu giờ đã mười năm
Con cảm nhận thêm lần nữa giọng nói của cha
Giờ con đang đến bên dòng suối
Nơi những con cá phèn nhảy lên và quẫy rạch
Nơi cha đã chết
Trong một bao tải đựng thóc.
Cô dâu của ngày mai 내일의
외로울 땐 외쳐라
괴로울 땐 눈물 말고 고함을 쳐라
내 내일의 색시
공장에서 밤으로 울음으로 긴 한숨으로
돌아가는 길에도 소리쳐 불러
불러라 너희들의 노래
너는 손이 큰 허리 굵은 열아홉
입살 험한 욕쟁이 내 내일의 색시
Bản Dịch
Hãy khóc
Khi nàng thấy cô đơn
Nhưng đừng rơi nước mắt
Khi nàng thấy buồn phiền
Mà hãy hét lên
Cô dâu của ngày mai
Trở về từ nhà máy
Đêm đi qua với nước mắt và tiếng thở dài
Hãy để giọng nói nàng vang lên
Hãy hát những bài ca hạnh phúc
Nàng, đang tuổi xuân mười tám
Với hai bàn tay thô
Và lời nói vụng về
Cô dâu của ngày mai
Cổng phía tây số 101
노을녘 수리떼 떠도는
초겨울의 옛 戰場에 돌아왔다
한 자루의 보습을 메고
흙 속에 묻히고 이미 바람에
흩어지고 수리의 밥이 되고
뜻 모를 시간의 흐름 속으로
사라져버리고 그러나
아직도 날카롭게 희게 빛나는
뼈들처럼 거친 더운 숨결이
살아 있고 어디서 들개가 짖는다
거친 숨결이 흙을 생동
시킨다 이 사멸하면서
살아나는 대지에
보습을 박는다 발을 대고 누른다
아아 부드러운 이 살의 탄력이여
살아 있는 흙들이
꿈틀거린다 나는
전신의 힘을 보습에
모은다.
Bản Dịch
Trong hoàng hôn tôi trở về
Bãi chiến trường xưa cũ
Của một ngày đầu đông
Nơi những bầy chim khổng lồ đập cánh bay lên
Tôi vác cày trên vai
Dẫu đã mai táng vào đất sâu
Nhưng thịt xương những người đã chết
Vẫn rải rác đâu đây
Làm thức ăn cho lũ kền kền
Trong những tấm vải mỏng đang tan rữa với thời gian
Vẫn còn hình hài xương cốt
Bầy chó hoang hú dài trong bóng tối
Những hơi thở nóng bỏng trở về với đất đai
Như trở về thế giới này
Hồi sinh trong huỷ diệt
Tôi đặt lưỡi cày trên cánh đồng
Bàn chân tôi vùi sâu trong đất
Những mảnh sự sống của đất đai quặn lên đau đớn
Khi tôi dồn toàn bộ sức tôi lên chiếc lưỡi cày
Đồi Songjadong 성자동 언덕의 눈
지금도 너는 반짝이느냐
성자동 언덕의 눈
아득한 뱃길 푸른 물구비 구비 위에
하얗게 날카롭게
너는 타느냐
산 채로
산 채로 묻힌 붉은 흙을 헤치고
등에 칼을 꽂은 채 바다로 열린 푸른 눈
썩은 보리와 갈라진 논바닥이 거기서 웨치고
거기서 나의 비탄은 새파란
불꽃으로 변한다 너는 타느냐
마주한 저 월출산 아래 내리는
저 용당리 들녘에 내리는 은빛
비행기의 은빛 비늘의 눈부심, 독한 눈부심 위에 아아 푸른 눈
침묵한 아우성의 번뜩임이 거기서 타느냐
지금도 너는 반짝이느냐
성자동 언덕의 눈
하얗게 날카롭게 너는 타느냐.
Bản Dịch
Tuyết vẫn hắt sáng trên đồi Songjadong
Trên những ngọn sóng phía biển xa
Lấp lánh trắng
Người cháy lên
Bị chôn sống
Bị chôn sống trong đất đỏ
Với một mũi dao đâm vào lưng
Đôi mắt tôi sáng như tuyết
Tôi cất tiếng kêu trên cánh đồng lúa mục
Và khi lời than khóc của tôi trở thành ngọn lửa
Người cháy lên
Dưới chân núi, lấp lánh màu bạc
Đổ xuống những cánh đồng Yongdangni
Sự lấp lánh màu bạc của một chiếc máy bay, lấp lánh của những vảy cá
Đôi mắt sáng như tuyết phía trên một nguồn sáng mãnh liệt
Sự toả sáng của những đám cháy đã dịu đi nơi ấy
Tuyết vẫn hắt sáng trên núi Songjadong
Sáng lấp lánh như đôi mắt tôi
Người cháy lên
Hổ phách 호박
볕에선 솔잎이 타라
바람이 심한 날은 솔방울도 울어라
휘어낙낙 등걸도 타고
시뻘겋게 타고 쩍쩍 벌어지면서 타고
타고 앉은 저 퇴물 호피단 마고자의
앞섶에서 흘러라
바지춤에 녹아 흘러 고쟁이 아래
더운 날은 호박아
호박같이 굳어 버린 민주주의야 흘러라
촉새 같은 고관 여편네
사타구니에 흘러라 질질 흘러라
숨막히게 미치게 가득가득히
갈가마귀 벌판에도 시궁창에도.
Bản Dịch
Những lá thông
Cháy trong nắng mặt trời
Khi những ngọn gió rít lên những tiếng kêu dữ tợn
Những cây thông hình chóp
Người vặn mình
Bốc cháy
Lửa rực đỏ, nổ vỡ
Người đàn bà già bẩn thỉu béo lùn
Chui ra từ chiếc áo choàng dài
có những hình vẽ con báo của người
Mồ hôi túa ra từ cơn thở dốc
Hổ phách, ngày nóng bỏng này
Nền dân chủ ứ tràn như hổ phách
Trào ra
Sự ngột ngạt phát điên tràn ngập không gian
Và trên những cánh đồng
Một màu quạ xám
Không một ai 아무도 없다
여기서부터
저기까지는
아무도 없다
검은
개천위에 달빛이 몰락하는 돌다리위에
이 이상스럽도록 아름다운
하이얀 입김서린 집속엔
아무도 없다
캄캄하고
달속을 둔주하는 銀錢에 짓눌려
뒤틀리는 사지의 낡은 꿈속은 캄캄하고
푸르게 물드는
腦속에서 죽어가는 나의
나로부터 길에는 아무도 없다.
Bản Dịch
Từ nơi này
Và những con đường nơi kia
Không một bóng người
Phía trên dòng suối đen
Một cây cầu đá
Nơi đổ vỡ ánh trăng
Trong ngôi nhà yên tĩnh
Mây bay cùng hơi thở
Không một bóng người
Bóng tối
Giữa giấc mơ cũ
Của hai cánh tay tôi
Đau đớn chạm một đồng xu
Lăn vòng trong mặt trăng
Bóng tối
Và trên con đường
Chạy khỏi tôi
Giờ đang chết
Trong khối não nhuộm màu xanh da trời
Không một bóng người.
Những tiếng chuông nhà thờ 교회의 종은
교회의 종은 어째서 싸이렌과 함께 울리나
서투른 죄 고하여 쫓기는 꿈속으로
해마다 깨어 몸부림치는 시간에만 어째서
교회의 종은 반드시 싸이렌과 함께 울리나
Bản Dịch
Những tiếng chuông nhà thờ và tiếng còi báo động
Hình như có lúc cùng cất lên như một bản hợp ca
Loan báo về một tội ác không có tội dị kỳ
Và tất cả bị đẩy vào những cơn ác mộng
Cứ hàng năm lại có một đêm điên rồ chúng ta thức dậy
Không hiểu lý do gì mà tiếng chuông nhà thờ và tiếng còi báo động
Lại vang lên một bản hợp ca
Núi Chiri 지리산
눈 쌓인 산을 보면
피가 끓는다
푸른 저 대샆을 보면
노여움이 불붙는다.
저 대 밑에
저 산 밑에
지금도 흐를 붉은 피
지금도 저 벌판
저 산맥 굽이굽이
가득히 흘러
울부짖는 것이여
깃발이여
타는 눈동자 떠나던 흰옷들의 그 눈부심
한 자루의 녹슨 낫과 울며 껴안던 그 오랜 가난과
돌아오마던 덧없는 약속 남기고
가버린 것들이여
지금도 내 가슴에 울부짓는 것들이여
얼어붙은 겨울 밑
시냇물 흐름처럼 갔고
시냇물 흐름처럼 지금도 살아 돌아와
이렇게 나를 못살게 두드리는 소리여
옛 노래여
눈 쌓인 산을 보면 피가 끓는다
푸른 저 대샆을 보면 노여움이 불붙는다
아아 지금도 살아서 내 가슴에 굽이친다
지리산이여
지리산이여
Bản Dịch
Khi tôi nhìn núi phủ đầy tuyết trắng
Máu tôi réo sôi
Khi tôi nhìn những rừng tre xanh
Cơn tức giận của tôi bùng cháy
Dưới những cây tre kia
Dưới ngọn núi kia
Mặc dù thế máu đỏ tôi vẫn chảy
Và nơi kia trên cánh đồng xa
Núi dựng lên, chuyển mình, uốn lượn
Và trôi về một chốn xa xôi
Một tiếng kêu
Một ngọn cờ
Trước đôi mắt rực lửa
Sự hào nhoáng của những bộ đồng phục biến mất
Chiếc hái cắt cỏ hoen gỉ, sự nghèo đói bao đời
Cái ôm nhau nức nở và lời hứa trở lại
Tất cả đã ra đi, nhưng tiếng kêu khóc
Vẫn vọng lên trong trái tim tôi
Giống những dòng hải lưu
Chảy dưới mặt suối đóng băng,
Tất cả đã ra đi
Nhưng giống như sức mạnh của nước
Đã trở về, rền vang những giọng nói
Không cho tôi tồn tại
Những bài ca cũ
Khi tôi nhìn những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng
Máu tôi réo sôi
Sự tức giận của tôi bùng cháy
Trong cái nhìn những rừng tre xanh
Mặc dù vậy, vẫn sống, vẫn chuyển động
qua trái tim tôi là ngọn núi Chiri
Tháng giêng năm 1974
1974년 1월을 죽음이라 부르자
오후의 거리, 방송을 듣고 사라지던
네 눈 속의 빛을 죽음이라 부르자
좁고 추운 네 가슴에 얼어붙은 피가 터져
따스하게 이제 막 흐르기 시작하던
그 시간
다시 쳐온 눈보라를 죽음이라 부르자
모두들 끌려가고 서투른 너 홀로 뒤에 남긴 채
먼 바다로 나만이 몸을 숨긴 날
낯선 술집 벽 흐린 거울조각 속에서
어두운 시대의 예리한 비수를
등에 꽂은 초라한 한 사내의
겁먹은 얼굴
그 지친 주름살을 죽음이라 부르자
그토록 어렵게
사랑을 시작했던 날
찬바람 속에 너의 손을 처음으로 잡았던 날
두려움을 넘어
너의 얼굴을 처음으로 처음으로
바라보던 날 그날
그날 너와의 헤어짐을 죽음이라 부르자
바람 찬 저 거리에도
언젠가는 돌아올 봄날의 하늬 꽃샘을 뚫고
나올 꽃들의 잎새들의
언젠가는 터져나올 그 함성을
못 믿는 이 마음을 죽음이라 부르자
아니면 믿어 의심치 않기에
두려워하는 두려워하는
저 모든 눈빛들을 죽음이라 부르자
아아 1974년 1월의 죽음을 두고
우리 그것을 배신이라 부르자
온몸을 흔들어
온몸을 흔들어
거절하자
네 손과
내 손에 남은 마지막
따뜻한 땀방울의 기억이
식을 때까지
Bản Dịch
Tháng Giêng năm 1974 – Gọi đó là Cái chết
Ánh sáng trong mắt người vụt tắt
Khi nghe bản tin trên đài
Buổi chiều trên phố ấy – Gọi đó là Cái chết
Một khoảnh khắc, máu chợt đông
Trong trái tim người
Rồi nổ tung, rồi nóng chảy, điên cuồng
Trận bão tuyết thét gào – Gọi đó là Cái chết
Và tất cả được đưa đi
Giã biệt người
bối rối
cô đơn
Được cất giấu nơi biển xa
Và trong góc mờ chiếc gương
Trên bức tường của ngôi nhà xa lạ
Một gương mặt sợ hãi
Một mũi dao của thời đại tối đen gí sát lưng người
Và những nét kinh hãi trên mặt người
Gọi đó là Cái chết
Sau những tồi tệ ấy
Ngày của tình yêu bắt đầu
Một ngày thổi đầy gió lạnh
Lần đầu tiên tôi nắm tay người
Và nhìn vào mắt người, không sợ hãi
Ngày giã biệt người
Gọi đó là Cái chết
Trái tim tôi không thể nào tin
Dẫu trên đường phố thổi đầy gió lạnh
Những cánh hoa mở ra cùng tiếng khóc
Vọng trong cơn ớn lạnh rùng mình
Gọi đó là Cái chết
Và nếu không có sự ngờ vực, bất tin
Mà tất cả những biểu lộ của âu lo, sợ hãi
Cũng gọi đó là Cái chết
Gọi đó là Cái chết
Tháng Giêng năm 1974
Chúng ta sẽ đặt tên là Sự phản bội
Hãy để chúng ta làm sự sống rung vang
Toàn bộ sự sống
Và chối từ nó
Cho đến khi ký ức của giọt mồ hôi ấm nóng cuối cùng
Trong lòng tay anh, tay tôi
Trở nên giá lạnh
Trong bóng tối 어둠 속에서
저 어둠 속에서
누가 나를 부른다
건너편 獄舍 철창 너머에 녹슬은
시뻘건 어둠
어둠 속에 웅크린 부릅뜬 두 눈
아 저 침묵이 부른다
가래 끓는 숨소리가 나를 부른다
잿빛 하늘 나직이 비 뿌리는 날
지붕 위 비둘기 울음에 몇 번이고 끊기며
몇 번이고 몇 번이고
열쇠소리 나팔소리 발자욱소리에 끊기며
끝없이 부른다
창에 걸린 피 묻은 낡은 속옷이
숱한 밤 지하실의 몸부림치던 붉은 넋
찢어진 육신의 모든 외침이
고개를 저어
아아 고개를 저어
저 잔잔한 침묵이 나를 부른다
내 피를 부른다
거절하라고
그 어떤 거짓도 거절하라고
어둠 속에서
잿빛 하늘 나직이 비 뿌리는 날
저 시뻘건 시뻘건 육신의 어둠 속에서
부릅뜬 저 두 눈이
Bản Dịch
Có ai trong bóng tối
Gọi tôi
Có đôi mắt trừng trừng
ẩn trong bóng tối
Một màu đỏ hoen gỉ
Vượt ra ngoài ấm lưới sắt
Của phòng giam bên cạnh
Sự câm lặng gọi tôi
Tiếng ai đó hắng giọng gọi tôi
Cắt ngang tiếng bồ câu kêu trên mái nhà
Khi những giọt máu nhỏ xuống
Từ bầu trời màu xám
Và cắt ngang, cắt ngang tiếng những chìa khoá va nhau
Tiếng người nói, tiếng bước chân
Là tiếng gọi tôi không ngớt
Những bộ quần ấo lót cũ dính máu mắc trên tấm lưới
Những thân hình xám ngoét bị hành hạ đêm đêm
Trong căn phòng tối đen dưới hầm ngầm
Và tiếng da thịt xé rách bị rên rỉ
Lê gót qua ngọn đồi
Sự câm lặng gọi tôi
Tiếng gọi dội vào trong máu
Hãy cự tuyệt
Cho dù sai lầm như thế nào
Hãy cự tuyệt
Và từ trong bóng tối
Nơi những giọt máu ngày rơi xuống
Từ bầu trời màu tro
Từ bóng tối mang màu đỏ của da thịt
Có hai con mắt đang nhìn
Yongdangri 용당리에서
용당리에서
용당리에서의 나의 죽음은
출렁이는 가래에 묻어올까, 묻어오는
소금기 바람 속을
돌 속에 흐느적거리고 부두에서
노동자가 한 사람 죽어 있다
그러나 나의 죽음
죽음은 어디에
무슨 일일까
신문지 속을 바람이 기어가고
포래포래마다 반짝이는 내 죽음의
흉흉한 남쪽의 손금들 수군거리고
해가 침몰하는 가래의 바다 저 끝에서
단 한 번
짤막한 기침 소리 단 한 번
그러나 용당리에서의 나의 죽음은
침묵의 손수건에 묻어올까
난파와 기나긴 노동의 부두에서 가마니 속에
노동자가 한 사람 죽어 있다
그런데
무슨 일일까
작은 손이 들리고
물 위에서 작고 흰 손이 자꾸만
나를 부르고.
Bản Dịch
Cái chết của tôi ở Yongdangri
Phải nó đến với đờm dãi trào ra?
Trong ngọn gió mang theo vị muối
Ở giữa tảng đá
Nó lắc lư đến gần
Khi đó trên bến tàu
Một người công nhân chết
Còn cái chết của tôi
Cái chết của tôi ở đâu?
Ngọn gió bò qua những tờ nhật báo
Dấu hiệu ốm đau
Những đường phía nam
Trên bàn tay của cái chết
Thì thầm
Và ở đấy trên đường viền
Nơi mặt trời chìm xuống vùng biển đờm dãi
Chỉ một lần
Tiếng ho khản đặc
Chỉ một lần
Nhưng cái chết của tôi ở Yongdangri
Phải chăng đến trong chiếc khăn tay của sự câm lặng?
Trong bao tải lúa
Trên bến cảng của lam lũ và tàu đắm
Một người công nhân chết
Và điều ấy có nghĩa gì?
Kia một bàn tay nhỏ và trắng
Vươn lên khỏi mặt nước
Vẫy gọi tôi
Trên đây, Thuvientho.com đã chia sẻ đến quý độc giả những bài thơ dịch của Nguyễn Quang Thiều. Qua đó chúng ta càng thêm nể phục khả năng sáng tác và hiểu biết ngôn ngữ của nhà thơ. Mời các bạn đọc đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi! Hẹn gặp lại!
Theo Thuvientho.com