Home / Chùm thơ chọn lọc / Nguyễn Trọng Tạo Cùng Tập Thơ Con Đường Của Những Vì Sao

Nguyễn Trọng Tạo Cùng Tập Thơ Con Đường Của Những Vì Sao

Nguyễn Trọng Tạo Cùng Tập Thơ Con Đường Của Những Vì Sao

Nguyễn Trọng Tạo được ví như một ngôi sao sáng chói trên nền văn học Việt Nam. Ông là người đi đầu trong phong cách thơ thời kì đổi mới văn học. Cùng theo đó là một kho tàng thơ đặc sắc, ông nổi bật với những bài thơ tình chiêm nghiệm sâu xa về tình yêu trở thành một sợi dây vô hình buộc chặt vào tâm hồn người đọc

Tập thơ Con Đường Của Những Vì Sao được xem là một tập thơ kể về cuộc chiến tranh khốc liệt tại Đồng Lộc. Nguyễn Trọng Tạo dồn bút lực vào chương “ đỉnh cao” viết về sự hy sinh của 10 cô gái anh hùng. Sự cảm phục những cô gái quên mình vì tổ quốc

Nào, hôm nay chúng ta hãy cùng Thuvientho.com cảm nhận những bài trường ca đi vào huyền thoại này nhé!

I. Đôi Nét Về Nhà Thơ Nguyễn Trọng Tạo

– Nguyễn Trọng Tạo (25/8/1947 – 7/1/2019) là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ, sinh tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi.

– Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004), từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi.

– Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha…

– Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, công tác tại Tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt Nam, đã có 8 giải thưởng âm nhạc.

+ Các album đã phát hành:

– Tình khúc bốn mùa (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996)

+ Các bài hát nổi tiếng:

– Làng quan họ quê tôi (lời thơ của Nguyễn Phan Hách)

– Đôi mắt đò ngang

– Khúc hát sông quê (lời thơ của Lê Huy Mậu)

+ Ông đã vẽ khoảng 500 bìa sách, trong đó có:

– Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)

– Vẽ nhiều minh hoạ trên báo, tạp chí, và trình bày mỹ thuật tạp chí Cửa Việt bộ đầu tiên (1990-1992), báo Thơ, mẫu măng-sét tạp chí Sông Hương, Hồng Lĩnh, Sông Lam, v.v…

+ Các tác phẩm chính:

– Thơ: Gửi người không quen, Sóng thuỷ tinh, Đồng dao cho người lớn, Thư trên máy chữ, Tản mạn thời tôi sống, Nương thân, Thơ trữ tình, Thế giới không còn trăng,…

– Trường ca: Con đường của những vì sao, Tình ca người lính.

– Văn xuôi: Miền quê thơ ấu, Ca sĩ mùa hè, Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ, Văn thơ nhạc tuổi thơ,…

– Tiểu luận phê bình: Văn chương cảm và luận

II. Tập Thơ Con Đường Của Những Vì Sao

Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ lớn. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có tập thơ Con Đường Của Những Vì Sao đây cũng chính là những bài trường ca Đồng Lộc. Ông trân trọng sự hi sinh của 10 nữ anh hùng không tiếc thân mình hi sinh cho đất nước. Qua bài, ông khắc họa được sự khốc liệt của chiến tranh mang lại và sự biết ơn lớn lao đối với những người con gái tuổi trăng tròn xả thân vì quê hương

Chúng ta cùng nhau cảm nhận những bài thơ này nhé!

Phần mở đầu – Khúc hát tặng

Mãi biết ơn Mười cô gái Anh hùng cùng hy sinh ở Ngã Ba Đồng Lộc,

Anh hùng La Thị Tám và những người đã gợi cho tôi viết trường ca này.

Tuổi trẻ ơi, xin nhận ở thơ tôi

một ngọn cỏ xanh xanh trưa lửa bỏng

như giọt nước rơi dài không tan biến

ngưng giữa nắng trời hình lá cỏ, long lanh

nếu bạn đang vui, bạn hãy đi quanh

và có thể mời cả người yêu nữa

trên ngọn đồi ngỡ chỉ còn sỏi đá

trên ngọn đồi ngỡ chỉ còn lửa đỏ

vẫn âm thầm ngọn cỏ lên xanh

nếu bạn buồn vô cớ, mong manh

xin bạn áp trái tim mình vào cỏ

và có thể, mời cả người yêu nữa

bạn sẽ nghe lời cỏ hát thì thầm…

Không đùa đâu, thơ tôi nói thật lòng

trước niềm đau, trước niềm vui có lẽ nào dối trá

(thật kinh tởm sau cơn đau trở dạ

lại sinh ra một con búp bê vàng!)

Tôi sống ở đây từ thuở ngọn đồi xanh

những người nông dân lên đồi cắt cỏ

gánh cỏ đầy đứng nhìn phía hoàng hôn

và họ nói với nhau: phía ấy dãy Giăng Màn

phía ấy núi non thâm nghiêm, sừng sững

rồi họ quay về phía biển

nhìn sóng ngoạm cánh đồng

những cánh đồng gió thổi quắt quay

con suối hẹp xoáy bờ vực thẳm

tôi sống ở đây những ngày lửa bỏng

khi con đường chiến lược vắt qua đồi

cuối những năm sáu mươi

từ phía biển, bom ném vào Tổ quốc

bom ném vào ngọn đồi căng phồng vòm ngực

bom không ngừng không dứt

bom ném vào tuổi trẻ của tôi…

Tuổi trẻ của tôi

mười tám, hai mươi

trong và tinh khiết như nước suối đá

khỏe và mơn mởn như mầm lá

rộng và dài như mơ ước, yêu thương

vươn lên và bền vững như con đường

gắn vào đất, tạc vào mặt đất

Tuổi trẻ như sao trời mát mắt

khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên

và cháy bùng như lửa thiêng liêng

khi giặc giã đụng vào bờ cõi

dẫu rụng xuống, vẫn chói lên lần cuối

gọi dậy những lớp người

dẫu rụng xuống, bầu trời không trống trải

trong mắt người sao vẫn mọc khôn nguôi…

Tuổi trẻ ơi

xin nhận ở thơ tôi

khúc hát thầm của cỏ

nếu không may bạn gặp lời cau có

xin đừng buồn

xin bạn đừng buồn

ấy là lúc tôi đang tìm cách kể

cho bạn nghe cảm động dễ dàng hơn

như cô gái mở đường đứng trước bãi bom

một thoáng cau mày

cho con đường sống lại

trên Đồng Lộc những năm gay cấn ấy

ngày yên bình tôi cùng bạn về thăm…

Chương một – Hai người yêu chia tay

Hai người yêu nhau đi về phía đầu làng

trăng mười sáu theo đi lặng lẽ

khi trăng khuất sau ngọn tre cắm cúi

khi trăng ngồi nghỉ ngơi một chút

trên mái tranh xóm nghèo

và ánh trăng cứ lặng lẽ nhìn theo

hai người yêu nhau đi bên nhau, đi mãi…

Cô gái áo nâu vai tròn gió thổi

ngực căng đầy hồi hộp ánh trăng

tóc chàng trai dính chút bùn non

sau buổi cày bừa đồng chiêm vội vã

Ở xa kia dòng sông La giũ lụa

ở xa kia dải Trường Sơn tím mờ

ở xa kia sóng biển húc vào bờ

ở xa kia… nhập nhòe pháo sáng

những con đường trườn trên mặt đất

những chuyến xe trườn trên mặt đất

những đoàn quân như hàng cây chuyển động

về hướng Nam

lặng im

lầm lũi…

Hai người yêu nhau vẫn chưa ai chịu nói

dù một lời rất khẽ, rất xa mờ

dường như họ nén lặng để nghe

từng tiếng động trong đất đai xóm mạc

từng tiếng động không thể nào đánh mất

trên con đường họ đi đến ngày mai…

Trăng quan tâm đến nhịp thở hai người

trăng bước chậm cho đêm không ngắn lại

cái xóm nghèo sao mà im ắng vậy

cây đa già hôm qua đâu rồi?

trăng rùng mình ngỡ vừa đánh rơi

vùng bóng mát trăng dành cho chú Cuội

(ngày hôm qua, trước khi trời tối

những quả bom đã xô xuống xóm nghèo!)

Hai người yêu nhau dừng lại tự lúc nào

trên thảm cỏ những chú bê thường đến

hai cặp mắt nhìn nhau trìu mến

hai cặp mắt quyện hòa ánh sáng

ngỡ chưa bao giờ như thế lúc nhìn nhau

trăng thẹn thùng không biết nấp vào đâu

bỗng một đám mây nhởn nhơ bay đến

trăng lơ đãng cho vòng tay nồng ấm

chàng trai ôm cô gái vào lòng…

Có cái gì như một cái hôn nồng

gió thoảng hương hoa lúa

hai người yêu nhau như chẳng hề biết sợ

– ngày mai

ngày mai mỗi người mỗi ngả

đi vào cuộc chiến tranh…

Đến bây giờ, hai người vẫn lặng im

nói mà làm chi khi chưa cần phải nói

cứ im vậy cho trái tim tuổi trẻ

đập nhịp tình yêu có thật của mình

ôi hạnh phúc như cười như khóc

chỉ còn nhau trong mắt ướt lung linh!…

Trên thảm cỏ xanh trăng trải lụa vàng

họ ngồi xuống như không về nhà nữa

họ ngồi xuống như quên sương gió

– ngày mai

ngày mai mỗi người mỗi ngả

đi vào cuộc chiến tranh!

Chàng trai vô tình hái một ngọn cỏ xanh

đặt vào lòng tay cô gái

cô cười mỉm và buột thành tiếng nói:

“- ngày mai chúng mình mặc áo cỏ xanh!”

“ngày mai chúng mình mặc áo cỏ xanh”

chàng trai nhắc lại lời cô gái

như đọc một câu thơ láy lại

trong bài thơ không chút êm đềm

trong đêm cỏ mềm

tình yêu và xa cách.

Ngày mai

ngày mai chàng trai thành người lính

đường người lính – đường ra mặt trận

bàn tay người lính – bàn tay cầm súng

trái tim người lính – chọi cùng đạn bom

chọi cùng lưỡi lê

súng đạn mặt kẻ thù…

sẽ chẳng thành người lính bao giờ

nếu từ nan cái chết

đất nước những người sợ chết

chẳng bao giờ đất nước sống bình an!

Sau nụ cười, cô gái nghĩ miên man

về đất nước, tình yêu

và bỗng lạ trước bao điều mới mẻ

nếu không có cuộc chia tay như thế

biết bao giờ, biết đến bao giờ

cô nhận mặt những suy tư khao khát

cô nhận mặt những vui, buồn, day dứt

của lòng mình

mà không thể, không ai có thể

mang đến cho, hay đến mách lại giùm!

Ấy là năm

không chỉ máu miền Nam đổ xuống đất miền Nam

không chỉ máu miền Bắc đổ xuống đất miền Nam

chiến tranh như gió dữ phừng phừng

tràn qua vĩ tuyến

máu miền Bắc đã nhuộm bầm đất Bắc

vẫn âm thầm dành dụm

vẫn âm thầm dồn máu xuống phương Nam…

Ấy là năm

cả dân tộc mình mặc áo cỏ xanh

mặc tự nguyện, mặc không lựa chọn

những lứa đôi ở hai đầu tiếng súng

chỉ mình hiểu lòng mình ngày tháng đợi chờ nhau.

Ấy là năm

dải đất hẹp miền Trung

như quãng hẹp một dòng sông chảy xiết

bom kẻ thù vung vãi nơi đây

ba giờ chiều: bom cắt đường số Một

ba giờ mười lăm phút: thông xe

bốn giờ chiều: bom cắt đường số Một

bốn giờ mười hai phút: thông xe

năm giờ chiều

rồi tám, chín giờ đêm

cuộc hành quân san sang đường chiến lược

những con đường đi cứu nước

đích gặp nhau ở phía có quân thù.

“- Em nghĩ gì trong đêm chia ly

mà anh hỏi, em không nghe thấy?”

cô gái giật mình ngước cặp mắt ráo khô

nhìn vào mắt người yêu

như nói hết bao điều cô chợt nghĩ

chàng trai hiểu, và anh không hỏi nữa

xiết chặt vòng tay

như sợ gió mang người yêu đi mất:

“- La! La ơi, rồi anh sẽ trở về

với em, với mẹ

với bao người thay ta trồng ngô, trồng lúa

với bờ tre, lối ngõ, dòng sông

với những gì ta nhớ ta mong

với tháng Mười Hai hai đứa mình hẹn cưới…”

Nào riêng hai người yêu nhau hoãn cưới

bao cô dâu đêm tân hôn tất bật

khoác ba lô tiễn chú rể lên đường

để tới đêm tân hôn có thật

có cái gì hơn cả máu xương!…

“Anh Mùa ơi,

chắc ngày ta gặp lại

trăng chẳng đầy như trăm đêm nay

anh có nhận ra em, buổi ấy

mé núi xa treo mảnh trăng gầy?…”

hết nhìn trăng lại nhìn cô gái

“Trăng! Trăng ơi, anh nhận ánh trăng này

như nhận men say

nhận dòng sữa ngọt

trên sa mạc của tình yêu cháy khát

La! La ơi, anh thề không phụ bạc

với vầng trăng chung thủy của mặt trời”

… Mùa nghe trái tim rộn rã bao lời

anh không nói, nhưng hẳn La nghe được…

Thảm cỏ xanh được ánh trăng đánh thức

mở lá mềm đỡ lấy tình yêu

mái tóc xõa thơm mùi cỏ dại

mái tóc xõa tan vào cỏ dại

gương mặt La ngây ngất vầng trăng

Mùa đặt nụ hôn

lên vầng trăng trên cỏ…

– Ngày mai, ngày mai mỗi người mỗi ngả

đi vào cuộc chiến tranh,

“La! La ơi, em tha lỗi cho anh

nếu anh được nói lời sâu kín nhất

rất có thể em nghe, em sẽ khóc:

“- ước gì chúng mình cưới nhau hôm qua

ước gì chúng mình cưới nhau bữa trước

để trong đêm ly biệt

nói chuyện tương lai

em ước con trai

anh mong con gái…”

La rùng mình cắn vai Mùa đau nhói

nước mắt vui hay nước mắt buồn

ôi, có những điều mong ước giản đơn

nói ra thành yêu thương

nói ra thành sợ hãi

“- Thôi, hãy dành cho ngày mai gặp lại

ngày ấy gió Hòa Bình

mang chúng mình về ngôi nhà của mẹ

dẫu đã qua thời tuổi trẻ

vẫn còn thời tuổi trẻ làm bài hát ru con

cái thời tuổi trẻ đạn bom

ta đi cứu nước

sống xứng đáng với người sau, người trước

câu hát chẳng ngượng ngùng, câu hát chẳng vu vơ”

Và họ tin như thế, hai người

như đất nước vẫn tin ngày toàn thắng

(có những lúc niềm tin phải nói to lên như sợ ai quên lãng)

thật ngây thơ và cũng thật đáng yêu

nhưng ở sau ánh mắt họ nhìn nhau

trăng có biết họ nghĩ gì, trăng hỡi?

– rất có thể một người không trở lại

máu chan hòa mặt đất quê hương

máu chan hòa dưới thảm cỏ xanh non

tốt tươi đất đai, tốt tươi Tổ quốc

sống hết lòng mình, chết đời cao đẹp

những con người như thế, mãi gần nhau!

Trăng tròn ngự đỉnh trời cao

trăng đứng đỉnh trời lâu chưa trăng hỡi

La và Mùa hôn nhau lần cuối

nghe đất trời lảo đảo cơn say

cái hôn dài ánh trăng đầy

như đi suốt tháng ngày xa cách

như đi suốt núi sông trời đất

vẫn nồng nàn men tình ái ngất ngây…

Rồi trăng mười sáu lặn về đâu

còn nhớ đêm nay trên bán đảo

ở xa kia dòng sông La giũ lụa

ở xa kia dải Trường Sơn tím mờ

ở xa kia sóng biển húc vào bờ

ở xa kia nhập nhòe pháo sáng

bao cuộc chia ly đầu làng cuối xóm

đắm say và xúc động

khiến vầng trăng chia ly không mòn khuyết bao giờ…

Chương hai – Ngã ba

Nơi La đến: Ngã ba Đồng Lộc

nơi tuổi thơ cắt cỏ chăn trâu

những buổi chiều sim tím sim nâu

ăn không hết, đựng đầy túi áo

nơi mỏm đá Mùa thường ngồi thổi sáo

đàn trâu đen rong ruổi hoàng hôn

những đám mây ngũ sắc lang thang

nhập vào đá sỏi

nhập vào khói bếp cuối làng

nơi con suối nước trong nho nhỏ

mỗi lần rửa cỏ

La gọi thầm: Suối Út ơi!

suối Út là con út của đất và trời

La, con út của cha và mẹ

suối Út chảy qua đồi Đồng Lộc

La như con suối sinh ra từ tình yêu của mẹ cha nghèo

Nhưng suối Út ơi, suối Út chẳng biết đâu

nơi ngã ba đường hiểm trở

những quả bom của kẻ thù xám úa

như răng thú dữ

cắn vào suối Út, cắn vào ngã ba này

răng chúng dính đất đai

dính máu sông máu suối

Kẻ thù

những cái mồm đen tối

sống lật bàn tay

như khi đang bay trên trời

nó lật cánh cắt bom đột ngột

kẻ thù

những tổng thống kếch sù buôn máu

những nghị viện luôn sờ tay túi quần túi áo

dáng nghĩ suy đếm nhẩm tiền vàng

và tính nhẩm đạn bom

sẽ ném xuống dòng sông ngọn núi

sẽ ném xuống con đường nơi hiểm yếu

nơi những người diệt chúng sẽ đi qua…

La đến đây

nơi ngã ba trụi trần đất đỏ

ngã ba nắng, ngã ba gió

ngã ba đất, ngã ba trời

ngã ba xe, ngã ba người

ngã ba bom đạn

cây muỗm chạc ba ngã xuống

nhập vào ngã ba tro than

gốc bám phía nam

cành vươn phía bắc

lá cháy nhập vào màu áo đoàn quân

dưới ánh sáng mặt trời

ánh sáng trái tim người

cuộc quang hợp màu xanh…

Ngã ba

Mọc những căn hầm chữ A

cửa mở phía mặt đường

cửa mở phía chiến trường

những cô gái lòng hướng về phía đó

những cô gái mở đường, rất trẻ

với La, là đồng chí,

với La, là em, là chị

là Tần, là Cúc, là Xanh…

những cái tên hiền lành

hôm qua còn đuổi nhau quanh ngã ba xóm nhỏ

nụ cười tuổi trẻ

rung rinh mấy cánh bèo vương.

…….

Rồi một sớm – bình minh

La cùng Tần, Xanh, Cúc…

đứng như tạc vào nền trời Đồng Lộc

nhìn xuống ngã ba đường

Xanh bỗng reo lên, giọng vang như chuông:

“- Ngã ba xòe bình minh rẻ quạt

mỗi ngả đường một tia hồng sáng rực

những tia hồng dừng lại ở nơi đâu?”

Cúc đẫy đà, cắm xẻng xuống đất nâu:

“- Những tia nắng bắt đầu từ xẻng cuốc

chỉ dừng lại nơi con người bất lực

nơi con người chồn gối trước Tương lai!”

Tần trầm tư, ý tứ mỉm cười:

“- Nhìn ngã ba mình nhớ bài hình học

bài toán ấy như một niềm thúc giục

về những cách giải gọn gàng khi đứng trước ngã ba!”

Rồi họ đi dưới tán bạch đàn che

dưới tiếng lá lao xao trò chuyện

ôi tiếng lá khi gần như tiếng đất

khi xa vời như tiếng các vì sao…

Rồi họ đào, họ gánh

trong rát bỏng gió Lào

trong nắng cháy chân trần, tay áo xắn

đất và đá

yếu mềm và cứng rắn

cán xẻng với tay người

đòn gánh với vai người

con đường và trái núi

phá và xây ngày tháng đỡ đần nhau…

Và đêm

đêm bị xắn ra bằng lưỡi xẻng

đêm bị xắn ra bằng choòng bằng cuốc

đêm chuyển dời

theo tiếng bước chân

đêm bồng lên khi tiếng hát trong ngần

bay từ vồng ngực con gái

đêm giãn ra

đêm nén lại

đêm vỡ tan trong đột ngột tiếng cười.

Cũng có khi

đêm ướt đẫm mồ hôi

họ bỗng thấy sao trời đậu trên má, trên cánh tay

sao di động nhanh và uyển chuyển

theo ba hướng con đường

rồi trở về nơi ngã ba hội tụ

có một lần nào đó

La gọi thầm: Ôi, Ngã-ba-sao!

Ý nghĩ của La chẳng ngây thơ đâu

Ý nghĩ ấy cũng chẳng hề già cỗi

Ngã-ba-sao! Mấy lời cô thầm gọi

thật hồn nhiên và chín chắn dường nào

ấy là La đã nghĩ về bè bạn

những con người giản dị, lớn lao!…

Cho đến lúc những vì sao trên trời

tan vào mây xanh mây trắng

cho đến lúc con đường chan chứa nắng

dưới hàng cây chưa lặn những mặt người

cho đến lúc xe qua

vang vọng tiếng còi

bao cô gái mới về căn hầm chật

qua cửa hầm, mắt những người lái xe gặp

bao nụ cười lấp lánh dưới đất sâu….

– Có gì lạ?

“thật là giản đơn”, La nghĩ

nếu không có cuộc hành quân đánh Mỹ

thì ngã ba này như mọi ngã ba thôi

đồi Đồng Lộc vẫn như con rùa ngủ

đầu cúi trước đại dương

lưng tựa vào rú Bụt

rồi thỉnh thoảng rùa giật mình thức giấc

nhìn đoàn xe chở gỗ đi qua

màu bụi trên thùng xe thay cho giấy nhật trình

xe từ Khe Giao, Thông Linh, Hương Sơn, Linh Cảm?

ra Vinh hay về Đò Điệm

xe đi rồi, rùa lại cúi thiu thiu

lắng tiếng động dập dìu

quanh ruộng đồng xóm mạc

những âm thanh quen thuộc

như điệu hát ru thanh bình…

và,

những đứa trẻ chăn trâu lớn lên

sẽ đi xa quê hương bỗng nhớ

vệt bánh xe ngã ba chiều mưa

nhắc kỷ niệm ấu thơ

trên mỗi trang thư

bỗng muốn làm con sẻ đồng bay về tuổi nhỏ…

– Có gì lạ?

“thật là đơn giản

mẹ ơi,

hôm mẹ tiễn con đi đến vùng bom đạn

mẹ chỉ dặn

sống cho xứng với chị em, bầu bạn

sống cho xứng…

ôi, đời mẹ đã về chiều

vẫn dành con tia nắng nồng đượm nhất

sống cho xứng…

khi dân tộc đang đứng trước một ngã ba thử thách

chiến thắng hay đầu hàng

ngày hay là đêm

mình làm chủ đời mình hay sống đời nô lệ

sống cho xứng… giản đơn lời mẹ

đưa con cùng đồng đội đến ngã ba này

như một câu trả lời, như một ý thơ hay.

– Có gì lạ?

– Thật là đơn giản

bom đạn giặc bay tung đất đá

bay tung con đường

rồi đất đá lại trở về đất đá

rồi con đường vẫn là con đường ấy

với ngã ba vẫn ngã ba này

bởi con vẫn là con của mẹ

bởi đoàn xe không thể nào dừng lại

người vẫn gọi người

máu thịt vẫn gọi về máu thịt

nửa nước vẫn gọi về nửa nước

tiếng vọng xuyên con đường

xoáy lại mỗi ngã ba

Xem thêm:  Thu qua - Nguyễn Thành Sáng

ngã ba!

mỗi ngã ba trên cơ thể đất đai

những ngày cứu nước

hướng đi của đoàn quân không thể nào đổi khác

ngã ba như mũi tên

chỉ về phía chiến trường ác liệt.

Chương ba – Quanh tháng ba 1968

TỔNG THỐNG

“- Họ đã tập kích vào tòa đại sứ

mười lăm phút, vâng, cách đây mười lăm phút

đêm nay, đêm Giao thừa Mậu Thân

hỏi còn chỗ nào yên ổn hơn

cho nước Mỹ

trên bán đảo cỏn con

cái bán đảo bao giờ cũng ngỡ bị sóng Thái Bình Dương

nuốt chửng

và cái lãnh thổ cỏn con của họ có gì bí hiểm

mà chúng ta gậm một phần tư thế kỷ chẳng mòn

quai hàm của chúng ta cũng mệt nhoài

với sóng Thái Bình Dương…

Hỏi còn cách nào hơn

để diệt mầm Cộng Sản

máy chém ư?

những lưỡi chém bằng thép và thợ rèn hảo hạng

đã cùn

trong cuộc hành-quân-máy-chém

hàng viện trợ? Chúng ta hùn cả vốn

không cứu nổi mớ quân bài tã lót

tung lính Mỹ vào ư?

thật không còn thứ bia nào sinh động hơn

bao mũi súng cứ thập thò sau lá

cái màu lá ngụy trang

qua vĩ tuyến vẫn màu trăng kỳ lạ

cái màu trăng ngụy trang!…

Hỏi còn cách nào hơn

bom đã ném xuống bên kia màu trăng ấy

người chảy máu và trăng chảy máu

những chiếc “F” chiếc “A” chảy máu

lửa bén sang Lầu Năm Góc của ta

không phải cháy ở xa

lửa bốc ngay trước cửa

ta phải tuôn nước mắt ướt đầm như một kẻ khóc thuê

thứ nước mắt tuôn ra không phải nhờ ớt cay mà là vì lửa

để khóc cho hòa bình

ta đã bắt tay rất thiện tình

cả với người quáng mắt

miễn họ nói một lời dù rẻ mạt

cho danh dự của ta trên bán đảo cỏn con này.

Nhưng không được rồi

họ đã đấm vào cửa nhà ta ở

cửa nhà nước Mỹ

phía Sài Gòn

họ đã đấm vào phòng ta ngủ

từng hồi chuông điện thoại kinh hoàng

họ từ đâu? Ở đâu? Măng đã mọc thành rừng

măng đã mọc thành chông thành súng

măng đã mọc những sư đoàn biệt động

măng đã mọc những sư đoàn thiện chiến

bên này bờ vĩ tuyến

hỏi còn cách nào hơn?…

– Rút chân khỏi bùn?

ôi đáng sợ là vùng bùn châu thổ

cái vùng bùn chính trị

cái vùng bùn quân sự

vùng bùn trên lục địa mênh mông!…

– Hãy chặt đứt “cuống xoong” trên bán đảo Đông Dương

đoạn miền Trung đất Việt

như cá bị chặt ra từng khúc

như động mạch giữa chừng bị cắt

a ha ha

Nam Việt Nam phải hóa thành hòn đảo giữa đất liền

rừng măng sẽ chết vì nước mặn

thứ nước mặn của bom của đạn

của nước Mỹ chúng ta…”

Như con hổ trọng thương – viên tổng thống

gào lên. Hai tay đấm trời xanh

trời vần vũ nghìn đám mây màu xám

chiến hào hằn sâu trên vừng trán

chiến hào màu đen

phác những đội hình

cho không lực dàn đội quân quỷ quái

viên tổng thống mỉm cười, đắc ý:

“- Chẳng lẽ bùn lầy lội trời cao?

hãy đem ra pháp trường

những phi công nói láo

sau khi hắn từ Việt Nam trở lại

dù chỉ trong ý nghĩ

về những vệt bùn hắn đã gặp trên không!?

“Nhưng muốn họ đắng cay hơn, hãy cho vị ngọt ngào

trước cái chết, hãy cho hy vọng sống”

(phút yên lặng của viên tổng thống

có bao nhiêu cơn bão lớn đi qua):

“- Thưa các ngài

không lực Mỹ sẽ ném-bom-hạn-chế

trên vùng đất các ngài đang ở

ngoài vĩ tuyến hai mươi, trẻ nhỏ

hãy ném đi những chiếc mũ rơm

đó là dấu hiệu hòa bình

mà người lớn chúng ta mong muốn

vĩ tuyến hai mươi, vâng bên này vĩ tuyến

xin giữ làm nhiệt-kế-chiến-tranh!

Tổng thống nghẹn ngào, nước mắt vòng quanh

thứ nước mắt lọc lừa gian xảo

rồi tổng thống quay về cùng tiệc rượu:

– “Hỡi các ngài trong cuộc chiến tranh này

chúng ta không làm nhạc sĩ

đi hát rong cảm xúc tóe tung

hãy làm nhà thơ nén từng câu từng chữ

từng câu đạn, từng chữ bom

nén lại trên “cuống xoong”

Khu Bốn

ta sẽ có một bài thơ cô đọng

trong cuộc chiến tranh này

mà điểm sáng bài thơ là Ngã ba Đồng Lộc

ngã ba chiến lược

nơi tất cả mọi con đường ta dễ dàng cắt đứt

sẽ tụ về Đồng Lộc. Tứ thơ hay

hỡi các ngài

ta sẽ dùng từ mới ở đây

MÔĐEN 1, MÔĐEN 2

bom bốn cánh hình bán cầu khuyết lõm

những A6, A7, F4

hãy dồn vào đây

và nếu cần, cả pháo-đài-bay

để cửa ngõ chiến trường thành Cửa Tử

đó là chiến-tranh-hạn-chế

a ha ha

ta không làm nhạc sĩ

hãy làm nhà thơ trong cuộc chiến tranh này

điều khiển câu bom chữ đạn

nào,

chạm cốc, chạm ly, chạm…”

Bữa tiệc máu trong dinh tổng thống

đã bắt đầu như thế, bắt đầu

trời thì cao, biển cả thì sâu

đất thì rộng, ngôi nhà thì kín mít

Oa-sin-tơn điện màu nhòe nhoẹt

mặt Giôn-xơn lúc hiện lúc mờ…

NHỮNG CÔ GÁI

Một ông sao sáng

hai ông sao ngời

bốn

năm

sáu

bảy

sao trời

ghép gàu sóng tát cho vơi đêm dài

chòm sao nào ghép gàu dai

sao Thần nông có biết ai thức cùng?

ở đây trời đất một vùng

trông xuống biển

ngó lên rừng

dễ thay!

một đêm rồi lại một ngày

mấy lần giặc phá, mình xây mấy lần

đoàn xe mải miết về Nam

sao rung trên lá ngụy trang lập lòe

Qua một chuyến xe

qua hai chuyến xe

con đường thở dốc…

qua ba chuyến xe

qua bốn chuyến xe

tim người hồi hộp….

năm

sáu

bảy

tám….

chuyến xe

hàng cây lặng gió lắng nghe bồn chồn

người ngồi mỏm núi gác bom

giữa trời sao, dáng thon thon, tóc dài….

Đất sâu vọng tiếng học bài

một

hai

ba…

lại một, hai… lũy thừa

độ cao “hát”, góc “anpha”

đường lên bởi dốc, đường “cua” bởi vòng

tiếng Xuân “Vĩnh Lộc” trong trong

giọng Xuân “Đức Hồng” hay hỏi, the the

người ngồi mỏm núi lắng nghe

tiếng học bài với tiếng xe quyện hòa….

“Chị La ơi, buồn ngủ chưa?

xuống đây giảng hộ một tua đã nào

bài hình mới khó làm sao

cái bài lượng, chẳng tài nào giải ra!…”

Tiếng Tần át tiếng xe qua

La nhìn trời… bỗng sao nhòa âm thanh

trời cao như chốc rùng mình

– máy bay lũ giặc trá hình vào sao

vẫn là chấm lửa trên cao

với người lính gác, làm sao đánh lừa?

Một chấm lửa kia

hai chấm lửa kia

bốn

năm…

chấm lửa

con mắt kẻ thù

lúc long lên, lúc đỏ lừ, lăm le

“- Tần ơi, xong trận này về

lại ngồi bên ánh đèn che, học bài!”

Đất chao một loạt bom dài

đất ơi, đất có mệt nhoài vì bom?

Hái lá chua-ngút non

ngậm cho đỡ khát

trên đường đi lấp hố bom nắng cuối xuân bức bối

cây chút – ngút cạnh ngã ba sót lại

lá tròn đầy như giọt nước tiên

Ở đằng kia suối Út đã bị thương

cách suối một quả bom

mà không sao đến được!

Đã bắt đầu mùa gió Lào khắc nghiệt

đã bắt đầu mùa bom?

Đội nữ giao thông

hai mươi cô gái

sau mỗi trận bom, tiếng bước chân chạy vội

những căn hầm lắng nghe, mong đợi

những căn hầm

chiếc áo giáp họ cởi ra, để lại

mong manh áo vải mẹ may cho

lại một trận bom, họ vẫn chưa về

những căn hầm thắc thỏm

biết họ lấy gì che bom che đạn

ngoài trái tim

và tấm áo mong manh của mẹ?…

Đường thông xe

hai mươi cô gái trở về

những căn hầm đã bay đi đâu cả

chỉ còn đất đá

hun hút hố sâu

chỉ còn những mảnh giấy nát nhầu

như cánh bướm phập phồng run rẩy

đây bài văn của Xanh còn bỏ dở

đây bài lượng giác của Thủy, của Hường

đây lá thư Mùa viết vội trên đường

cho La biết: “Anh thành quân vận tải

thế nào anh cũng qua Đồng Lộc ấy

thăm bao cô bạn gái ở cùng em…”

La đứng lặng tim

những cô gái vây quanh lặng phắc

họ nhìn vào mắt La, như hỏi

– Chúng ta sẽ ở đâu, chị La?

– Chúng ta sẽ ở đâu, đội trưởng?

“- Sẽ ở đâu?

khi chiến tranh hóa phép tính chia, tính cộng

đất Khu Bốn nhận cả phần bom đạn

cho Thanh Hóa, Hải Phòng, Hà Nội…

các đồng chí ơi

nơi chúng ta thêm một loạt bom rơi

bớt gánh nặng cho Quân Khu mình đấy

bớt gánh nặng cho Hoàng Mai, Tam Soa, Bến Thủy

cho Kỳ Anh, Long Đại, Xuân Sơn…

cho miền Nam

cho cả nước

cho trong căn phòng Bác Hồ làm việc

đêm không phải che ba phía ngọn đèn

– chúng ta sẽ ở đâu?

con đường vẫn vươn thẳng bạch đàn

thân dẫu gãy, gốc không rời đội ngũ

ta đã thề bám trụ

với con đường, Ngã ba!”

Hường tìm đâu được cành hoa mua

cắm cẩn thận trên ngổn ngang đất đá

– thôi chào nhé, những căn hầm yên nghỉ

đội nữ giao thông dời lên đồi cao!

Đất Tổ quốc, chân bấm từng bậc dốc

những bắp chân con gái tròn đầy…

LỜI CỦA NẮNG

Ta say mùi cháy khét đá gan gà

ta say mùi héo khô cây cỏ

nên muốn nung đất này chín đỏ

cho mùi mật cháy bốc lên

nếu có ai nản lòng

rời bỏ quê hương đất cằn đá cỗi

ta nhìn theo mỉm cười!

và,

có gì lạ thế, trưa nay

hai mươi đôi chân hai mươi tuổi trẻ

giẫm lên mình ta buốt giá

ta phun lửa. Nhưng họ không hề sợ

họ vẫn lên từng bậc dốc cao cao

họ đi hái sao

hay đi trẩy mặt trời

mồ hôi chảy trên mình ta như suối

ta nhũn mềm, ta tan rữa

ta bị bỏ rơi sau bóng họ đổ dài…

LỜI CỦA GIÓ NÓNG

Ta từng phi qua bao miền lửa cháy

lật đổ rừng cây, lật đổ ngôi nhà

ta đi khắp miền Trung cát sỏi

ôi, những tấm-lưng-trần-đất-đai quê hương ta

bỗng có gì lạ thế, trưa nay

hai mươi bộ ngực hai mươi tuổi trẻ

dâng lên đồi cao trấn giữ

ta giật phừng phừng tóc xanh

ta giật phừng phừng bắp chân

không lay chuyển, họ không hề lay chuyển

ta mệt nhoài, mặt đỏ gay, xấu hổ

ngã sõng soài trên sườn đồi lăn xuống lũng cỏ may…

BÀI CA

Khát

xin uống bài ca

lên dốc mệt

bài ca làm gậy chống

ai buồn nhớ, bài ca xin bè bạn

ai đang vui bài ca đến vui cùng

nắng gió không héo khô bài ca xanh tốt lạ lùng

đi đánh giặc bài ca thành vũ khí

xin đến hát trên môi tuổi trẻ

lời hát tình yêu

xin đến hát cùng hai mươi cô gái trên đồi

lời hát đào hầm bám trụ

áo mỏng tướp vai

bàn tay bàn chân bỏng rộp

lời ca đau bấm sâu thêm nhát cuốc

và long lanh mắt ướt

từ đồi cao bay xuống ngã-ba-bom

bài ca mở tuyến thông đường

át tiếng gầm bom đạn

yêu Tổ quốc bài ca trong sáng

bài ca cùng số phận những đời người….

Treo giò phong lan xanh tươi

trước cửa hầm lưng đồi Đồng Lộc

đội gái giao thông quây quần như gió mát

chuyện về những anh lái xe tinh nghịch

đi qua Đồng Lộc chiều nay

giò phong lan ai gửi tặng ai đây?

cái Hường, cái Xanh, cái Tần, cái Thủy

hay cái Nho “lúm đồng tiền hết ý”?…

– ôi, sao chúng mình không có một anh chàng để nhớ

mà biết đâu, có anh chàng bóng gió nhớ chúng mình!

người bảo tình yêu thường đến thình lình

người bảo tình yêu phải cãi nhau một “cú”

– nhất cự li, nhì cường độ

người lại bảo xa nhau tình yêu mãnh liệt hơn

chăm viết thư chưa hẳn đã thủy chung

yêu lặng lẽ biết mưa hay là gió?..

“- chị La ơi, chị La phân giải hộ

giò phong lan ai gửi tặng ai đây?”

Giò phong lan khẽ nở búp hoa đầu

cả đội nhận của mình, của tớ

Những cuộc vui như thế

giữa chừng hai trận bom…

NHÂN DÂN

Súng hiệu tắc đường nổ ba phát một

như tiếng hú dài

choàng dậy xóm làng quanh Đồng Lộc

nói choàng dậy, nhưng nào ai ngủ được

người thức nghe, cây cối thức nghe

căn nhà thức nghe

giường phản thức nghe

tiếng rì rầm đoàn xe

tiếng gió thở phía Ngã ba vọng lại

ông già khăn đỏ thủ rìu bỏ điếu cày hút vội:

“- Tiếng súng đội o La!”

cả xóm làng: “Tiếng súng đội o La!”

họ đổ về Ngã ba

gió đêm chạy chân trần cuồn cuộn…

Cuối Ngã Ba một vực bom thăm thẳm

máu suối Út chảy vào loang trắng

phía tây núi dựng

con đường quờ quạng

qua vực thẳm tìm nhau.

Nhân dân nhìn vực sâu

đau nỗi đau Bến Hải

nhưng còn thời gian đâu để lặng yên và hỏi

lòng người bao nhiêu vĩ tuyến cắt chia?

Đá xẻ lòng mình ra

rời bụng núi xuống vực sâu xây móng

đất xẻ lòng mình ra lấp vào khoảng trống

lũy tre vang, cây xoan vườn

ai định dựng nhà cao, ai định làm giường cưới

xin đừng hỏi, xin đừng ai gặng hỏi

chú rể tương lai đang ở chiến trường xa

cô dâu tương lai còn bận trực ca

nơi nhà máy

cách nhau một vực bom này đấy

cách nhau một vực bom

không tự nguyện làm cầu qua lửa cháy

biết bao giờ chú rể gặp cô dâu?

La đón từ nhân dân những cột những kèo

những cây gỗ cụ trồng cho ông bà, ông bà trồng cho cha mẹ

những cánh cửa ngậy mùi sơn mới

tấm phản gụ ba người khiêng không nổi

ngọn gió nóng tạt qua

bàn tay chạm vào mặt phản

ngỡ chạm vào giấc ngủ tuổi thơ…

Viên gạch nung từ bao giờ

sau lớp vữa, còn tươi như máu

trong ánh chớp nhoáng nhoàng đêm chiến đấu

vân bàn tay trên viên gạch ngời lên

vân bàn tay bây giờ gặp vân bàn tay tổ tiên

rồi tất cả đắp vào con đường tuyến.

Lại một trận bom ném xuống

Nhân Dân

“- Nhân Dân hãy tản ra, ẩn nấp!”

“- Đoàn xe trên đường biết ẩn vào đâu?

“- Nhân Dân hãy tản vào những căn hầm lưng đồi!”

“- Các o nấp vào mây trời được chắc?”

La nhìn Nhân Dân, cô muốn khóc

“Không thể nào ra lệnh được Nhân Dân

khi chưa hiểu hết lòng dân rộng lớn

Nhân Dân sống Nhân Dân làm lụng

áo vá vai lòng thơm thảo lành nguyên

Nhân Dân căm hờn như núi dựng chông

Nhân Dân yêu thương đồng dâng gạo trắng

bom đạn giặc từ trời cao ném xuống

Nhân Dân từ ruột đất trồi lên!”…

Pháo sáng rơi quằn quại trời đêm

đạn phòng không dựng đứng từng bó lửa

đường viền núi, đường viền người quay đảo

gió cuốn bắp chân

núi cuộn vai trần.

con đường gãy xích lại từng gang tấc

cho đến lúc vòng bánh xe lăn trên đường chóng mặt

Nhân Dân còn nán lại, nhìn theo…

Lúc bấy giờ chợt gặp sao mai

không ai bảo ai

nước mắt Nhân Dân

như những vì sao chậm chạp rụng xuống

đất nhận mùa sao sáng

đậu quanh giấc ngủ thiu thiu

ông già khăn đỏ thủ rìu…

Chương bốn – Hai người yêu gặp lại

Lại một vầng trăng đến

vầng trăng hỏa tuyến

gần, trên mũi súng, cuốc xẻng, gương mặt bạn bè

xa, trên lá ngụy trang phủ bạt những đoàn xe

gần, trong tiếng cười đùa chào hỏi

xa, trong nỗi nhớ người yêu, mong đợi

đêm sáng trăng đêm rộng đêm dài

(đêm không ngủ trăng là con mắt thức)

xe có trăng xe say mùa chiến dịch

trăng làm đèn trên mỗi chặng đường qua

ngã ba có trăng ngã ba hội hè

câu hát đến, câu hát đi, gương mặt thì ở lại…

Rẽ ánh trăng, một chiếc xe bụi đỏ

La ngước nhìn hồi hộp cả vầng trăng

“Anh ấy đã về. Bỏ lại sau lưng

nỗi mong nhớ, những khúc đường cua, vòng bánh xe quay, đạn bom và cái chết

anh ấy đã về, Hường ơi, Xanh ơi, Cúc ơi… La muốn gọi to lên cho bạn bè được biết

anh ấy đã về!…”

Nhưng tín hiệu của tình yêu không cánh cứ bay đi

những cô gái nhận điều linh cảm ấy

(họ đã từng giữa đêm choàng dậy

nhận ra tiếng bom nổ hẫng cuối đồi hoang

khẽ mỉm cười trở lại giấc mơ lành)

giờ họ đến vây quanh xe bụi đỏ

họ chen lấn để được nhìn thật rõ

“ông anh rể tương lai” vừa ở chiến trường về

– Anh đã đến những đâu, hãy kể bọn em nghe?

– Xe có chở kịp hàng cho những sư đoàn “đánh lớn”?

– Anh có nhớ chị La như xe nhớ bến?

– Có biết ai gửi lại ngã ba này một chuỗi phong lan?

Mùa quay về từng câu hỏi âm vang

gặp những tấm lòng…

“biết nói làm sao, biết kể làm sao

ngày tháng gian lao

cơn bão lớn đập trong lòng đất nước

xe nặng vượt đèo bốn mươi độ dốc

những cua gấp khúc

vòng vô lăng xoay tít mặt trăng, xoay tít mặt trời, xoay tít trái tim người

(trái tim người lái xe như quả dọi)

treo lên sợi dây con đường từ Bắc thẳng vào Nam

phía ấy chiến tranh

phía ấy chiến trường

phía ấy những binh đoàn không thể nào thiếu đạn

không thể nào thiếu gạo

không thể nào tắt lạnh

hơi thở hậu phương…)

“biết nói làm sao, biết kể làm sao

rừng nhiệt đới quanh năm tươi tốt

bao chiến sĩ tựa vào cây khi lên cơn sốt

cánh rừng rung lên nhận cơn sốt về rừng

những binh đoàn lại khỏe mạnh lên đường

đưa cái chết đến tận giường lũ giặc

xe Mùa đã đuổi theo dấu chân chiến dịch

gặp bao nhiêu hậu cứ bỏ không

gặp bao nhiêu hố củ ấu, củ mài

gặp bao nhiêu vùng rau rừng vừa hái

như lời chào để lại

như lời nhắn giục người vào…

“biết nói làm sao, biết kể làm sao

người tiền tuyến nhận từng hạt gạo

thấm máu người hậu phương

máu người cấy trồng hay máu người bốc dỡ

máu dân làng hay cha mẹ

người yêu ơi

người yêu ta có bị thương

em của ta ơi

em có phải chít khăn tang

đi nhặt thóc rơi trên cánh đồng vì tiền tuyến?….

nỗi nhớ thương theo ta suốt từng trận đánh

nỗi nhớ những người đang ở đâu mà máu ở nơi này!

ôi hậu phương, ta trở về đây

không thể nào chậm trễ

trăng thì sáng thế

mà không đủ thời gian cho ta ngồi kể

về ngày hôm qua

ngày hôm qua ta không dám quên

nhưng cũng đừng vội nhớ…”

“- Thôi đừng hỏi, bạn bè ơi, đừng hỏi nữa

ánh trăng gặp gỡ

sẽ nói nhiều ngày tháng cách xa

như đêm nay giữa Đồng Lộc trụi trơ

vẫn vầng trăng không hề lỗi hẹn

vầng trăng là nhân chứng

vầng trăng là mầm sống

vầng trăng là lòng ta gửi gắm

vượt lên nghìn cái chết tỏa sáng trong…”

Xe rú ga, ánh trăng bỗng rung rung

những cô gái bấm nhau về vị trí

dành một phút cho hai người tình tự

thời gian hơn vàng ngọc giữa vùng bom.

La nhìn Mùa, ánh mắt sáng niềm tin

ánh mắt nói bao điều kỳ lạ quá:

“- Anh đi đi, đường dài đội ngũ

đất quê mình gió nóng tạt xiên vai

mẹ vẫn chờ anh trước ô kính cửa xe này

mẹ phía trước mỗi chặng đường kháng chiến

nơi anh đến, hậu phương hay tiền tuyến

mẹ cánh đồng, mẹ nhà máy, mẹ dòng sông

mẹ đất đai dàn trận địa mênh mông

ngày có giặc, lòng mẹ như ngọn súng

trái tim mẹ trải mọi vùng bom đạn

anh đi đi, phía trước, mẹ đang chờ

“nơi anh trở về, mẹ lại tiễn anh đi

xe có nặng anh đừng san sẻ lại

đồng Bắc Bộ cò dân ca bay mỏi

rừng miền Trung gỗ quý dựng chân trời

súng đạn qua đại dương không phiêu bạt

mẹ nâng niu xúc động nước mắt rơi…

anh hãy mang vào tiền phương, anh ơi

tấm lòng Mẹ-hậu-phương-miền-Bắc

dẫu chum sập không còn nhiều gạo thóc

với con xa lòng mẹ gửi phần nhiều.

“anh đi đi, chim bằng thương yêu

cánh bay sải đất trời Tổ quốc

cánh đất Bắc, cánh trời Nam

trái tim em giữa ngã ba Đồng Lộc

máu đỏ xin dồn về đôi cánh tình yêu

ở đây núi dựng ráng chiều

người trong khói đạn

đừng lo lúc trở vào bóng em xa vắng

“yêu nhau chiến đấu suốt đời

bụi sim sót lại lưng đồi

trái tròn chín muộn

ngọt ngào cho ai đường dài xa ngái

trăng thì con gái trăng chẳng hững hờ

đường đi đánh giặc đồi chẳng chơ vơ

vẫn đợi vẫn chờ là con đường rộng

em vẫn thương thầm cái xẻng cái mai

anh ơi tháng rộng ngày dài

cho ai dung dăng quên lãng

với ta bây giờ thời gian nóng bỏng

với ta bây giờ thời gian trôi băng

bay đi, ơi cánh chim bằng

tình yêu nổi gió thổi căng bầu trời…”

Xem thêm:  Ta vẫn còn thương - Lê Hoàng

ánh mắt Mùa như nói nên lời

trong giây phút thời gian dào dạt ấy:

“Thôi chào nhé, người yêu ơi, ở lại

em nhỏ nhoi, em cứng cáp của anh

với bao đồng đội

với tuổi thanh xuân

với con đường đỏ trụi trần

mưa bom bão đạn

bất ngờ hơn giông hơn nắng

giữa ngã ba này

giữa ngọn đồi này

giữa trọng điểm này – giọt thủy ngân nhiệt kế cuộc chiến tranh

giọt thủy ngân nhiệt kế lòng dũng cảm

em ở lại

như quê hương vai áo nhiều mảnh vá

thức chờ anh, thức tiễn đưa anh

chiến trường xa, chiến trường gần

anh gặp em như Nam gặp Bắc

hai nỗi nhớ tụ về Đồng Lộc

điểm hội tụ tấm lòng đất nước

tháng ngày lửa cháy giữa sống lưng

ở đây hậu tuyến, ở đây tiền phương

ở đây lòng người đo bằng máu đỏ

ở đây lòng người đo bằng cấp số

những chuyến xe qua

đo bằng lưỡi mai mòn vẹt đá gan gà

đo bằng tiếng trả lời nhau sau trận bom sập về đánh úp

“Xe anh ra Bắc

xe anh lại vào Nam

qua đoạn đường này em đang bám trụ

nếu lúc ấy sau phút thông đường, em bắt đầu giấc ngủ

em đừng buồn anh đã xa rồi

thương em, xe chẳng kéo còi

cho em trọn một giấc dài vô tư…”

Chương năm – Đàn bê và trẻ nhỏ

Bom nổ chậm vãi đen trời Đồng Lộc

chui xuống đất sâu mang cái chết nằm rình

kim hẹn giờ trong lòng đất chạy lanh tanh

giọt a-xít mang răng loài gậm nhấm

Bom nổ ngay nhằm đàn bê ném xuống

cỏ cháy rồi không ăn được, bê ơi

bê bị thương chạy về phía sườn đồi

tiếng bê gọi nghẹn ngào như tiếng khóc

(những cô gái bận lăn bom xuống vực

ở xa kia, nơi ngã ba đường

dưới chân bê bom nổ chậm im lìm

giọt a-xít gậm vội vàng kim loại…

Bầy trẻ nhỏ chạy tìm bê hớt hải

quẳng áo tơi che nắng dọc chân đồi

áo cộc quần đùi

đầu trần tóc rối

ngây thơ tiếng gọi

bê à bê ơi…

NHỮNG QUẢ BOM RÌNH NỔ:

Này lũ bê vàng, lũ nhóc con hỗn láo

sao dám giẫm lên đầu ta

không biết oai danh của ta ư

hay thừa biết mà giả đui giả điếc?

ta là con của Thần-sấm-sét

là cháu đích tôn của ông nội Giôn-xơn

ta là con cưng của nước-Mỹ-gieo-chiến-tranh

ồ, nước Mỹ nâng ta hơn nâng trứng

giao trọng trách cho ta đến miền đất nóng

nơi ta ngồi, nơi ta đứng

có kẻ nào dám bén mảng đi qua?

Trọng trách của ta:

những cú nổ bất ngờ

không ai có thể đoán trước

giống như người ta không thể đoán trước

lúc nào kẻ cắp sẽ móc túi mình…

dọc những con đường, ta kiên nhẫn nằm rình

cái chết rình cái sống

cái im lặng rình cái chuyển động

bao âm mưu sau vỏ cứng bọc dày…

Trọng trách của ta:

những đoàn xe qua đây

ta lật đổ!

Trọng trách của ta:

những con đường đêm, con đường ngày

ta cắn đứt!

Trọng trách của ta:

những gì nối liền Nam với Bắc

là kẻ thù

là đích ta tấn công!

– Hãy gậm mòn kim loại, hãy gậm mòn…

hỡi hàm răng a-xít

trong vỏ cứng của sắt thép, của đất đai xám xịt

âm mưu không co lại bao giờ!

Này lũ bê vàng, lũ nhóc ngây thơ

đừng dại dột

đừng nên nhầm lẫn

nằm dưới đất nghĩa là ta đang sống

tung đất lên ta chết kiếp iêng hùng

điếc đui ư? Hỡi lũ nhóc, bê vàng

mà cứ giẫm lên đầu ta mãi thế

ồ, lại tè cả xuống đầu ta nữa

đất đặc dày ta biết ẩn vào đâu?

– Hãy gậm mòn kim loại thật mau

hỡi hàm răng a-xít

ta nổ tung thây đàn bê hỗn xược

cho đất kia hoang hoá giữa mùa cày

cho lũ trẻ con không kịp lớn lên dù chỉ một phút giây

chĩa nòng súng vào đội quân đế quốc…

– hãy gậm nhanh lên, hỡi hàm răng a-xít!

ĐÀN BÊ:

Bê à bê ạ

bê đi tìm mẹ qua mấy sườn đồi

mẹ ta đâu rồi làng mờ làng tỏ

bê đi tìm sim, bê đi tìm cỏ

sim chẳng còn cành, cỏ chẳng còn xanh

lượn quanh miếu đổ bê nằm

gậm nắng chiều vàng đỡ đói

bê nhớ cây rơm cặm cụi

biết bao giờ trở về chuồng…

Bê à bê ạ

ai để ta nằm giữa dải đồi hoang

ai bắt ta đi tìm mẹ lang thang

chỉ có đất và mảnh bom ngang dọc

đất nuôi cỏ mà cỏ thì cháy khét

mảnh bom thì sắc lạnh làm sao

lựa chân bước ngắn bước dài

mệt mỏi mắt tròn ngơ ngác.

Bê à bê ạ

bê con không nhiều nước mắt

chỉ muốn lồng lên tung vó dạo chơi

sao nghe đất cứ hú dài

không phải tiếng người, chẳng là tiếng mẹ

lẽ nào đất sâu ẩn loài thú dữ

lẽ nào đất sâu lắm kẻ rình mò?….

Bê à bê ạ

bê liếm vết thương cho máu mau khô

màu nắng chưa phai mặt trời còn đỏ

đường về xóm nhỏ

rẽ lối nào đồi núi ơi?…

TRẺ TÌM BÊ:

Bê à bê ơi

đạn bom nó rải đầy đồi

ta đi tìm bê mỏi chân mỏi mắt

đâu chú bê hoa, đâu bê cà-nhắc

sao mau quên, mau quên

trận bom hôm qua làm chú bị thương

trận bom hôm nay chú còn hay mất?

bê còn nhớ không đồng xôi bãi mật

tay ta chăn dắt bê còn nhớ không?…

ơ này con chim sẻ đồng

sao lạc lên đồi lên núi

ta đi tìm bê bước chân vồi vội

phải chi mà giật thột, chim ơi!

chân qua mấy hố bom rồi

ta không nhớ nữa

nghe vọng tiếng bê khi nhoè khi rõ

bê ở tận đâu, mau rời vùng bom

bê à bê ơi… vội vã hoàng hôn

bê à bê ơi… cỏ non rửa sạch

bò mẹ cày đồng về ràn họp mặt

ta đi tìm bê qua núi qua đồi

bê à bê ơi

bê à bê ơi….

Giữa tiếng trẻ gọi bê hời

giữa tiếng bê non gọi bầy gọi bạn

mặt đất rung lên xáo động

– những quả bom rình nổ tự phân thây

ở nơi kia, ở nơi này

khói đen đặc mọc trùm như nấm độc

tiếng trẻ, tiếng bê vẫn gọi nhau không dứt

bay đè lên tiếng nổ đạn bom…

Những cô gái giao thông theo tiếng gọi, kiếm tìm

họ đã gặp đàn bê và trẻ nhỏ

ôm choàng những đứa em dũng cảm

họ ôm choàng đàn bê non.

– Tại sao các em không sợ bom?

– La hỏi –

tại sao các em phải tìm được bê trước khi trời tối

tại sao?…

– Tại sao các chị lại ở đây?

những đứa trẻ ngây thơ hỏi lại

Không ai trả lời, nước mắt chạy quanh

đàn bê ngơ ngẩn mắt nhìn

đoàn xe vội vàng ngược dốc

ráng chiều đỏ rực lá nguỵ trang…

Chương sáu – Độc thoại của máu

Cho thơ được viết vần lục bát

để nói lời của máu dọc đường

khi xe Mùa băng băng qua Đồng Lộc

nhận cái chết về mình cho đồng đội vượt lên

máu tim anh phun qua ô kính vỡ

nhập vào từng tấc đất quê hương

nơi cao điểm Tình Yêu – Tuổi Trẻ

những tháng năm cuộc chiến đấu mất còn

cho thơ được viết vần lục bát

trước nỗi đau cô gái trẻ mở đường

thơ tôi đặng ngợi ca và an ủi

xin đến cùng chia sẻ nỗi đau thương?

Tự bao giờ máu đỏ tươi

cho hồng gương mặt, nụ cười ngàn năm

cho trong đêm rét căm căm

ấm nồng theo mãi ai cầm tay ai

cho em xanh mái tóc dài

(nhựa nuôi lá, máu nuôi hoài tóc em)

khi bên cầu hát giao duyên

tim anh nghe nhịp máu lên bồi hồi…

Tự bao giờ máu đỏ tươi

cái màu đỏ dựng nên người hôm nay

chuyên cần theo nhịp tháng ngày

máu âm thầm, máu hăng say không lời

sinh con, tóc mẹ rụng rơi

gửi trao hạt máu sống đời mai sau

cha cày đồng cạn đồng sâu

trắng ngần gạo với thắm màu máu son…

“Cầm dao, cầm cán nghe con…”

với trái tim máu quý hơn vàng mười

thuỷ chung người với con người

cũng là giọt máu bao đời nuôi nhau

phơ phơ mái sóng mái đầu

au au ruột đất đỏ màu hy sinh

nước non từ thủa bình minh

mặt trời – mặt trống tượng hình, âm vang

ở đâu hạt máu lang thang

ở đâu hạt máu huy hoàng muôn năm?

máu qua gạn lọc thời gian

hoá long lanh, hoá chói chang mặn mà

qua bao bão táp phong ba

máu Dân tộc để bây giờ cháu con…

Nghìn đời giọt máu chẳng mòn

vẫn hình dạng ấy đầy tròn trái tim

cho anh nặng nghĩa với em

cho ngày nặng nghĩa với đêm nhọc nhằn

cho giây phút với tháng, năm

cho yêu thương với hờn căm không bờ

Máu anh đổ xuống bây giờ

ngày bom rơi, chẳng bất ngờ đâu em

những ngày đất nước không yên

nửa nước ngày nửa nước đêm mịt mờ

những ngày độc lập Tự do

chói lên như lửa như cờ, chói lên…

máu ta không chịu đeo xiềng

máu ta không chịu chia niềm đau thương

máu đi về phía chiến trường

chặn nòng súng giặc mở đường tấn công

bạn ta thân bắc cầu vồng

trên tầng gai thép ròng ròng máu tươi

em ta trong ngọn lửa thiêu

máu thầm tuôn hoá tiếng kêu nát lòng

mười năm chị đợi chờ chồng

sau mười năm… nhận máu hồng trang thơ…

Máu anh đổ xuống bây giờ

nơi cao điểm, chẳng bất ngờ đâu em

khi con đường đỏ màu tim

khi từng mạch máu gọi tên: Con Đường!

khi non nước hoá chiến trường

con đường nối với con đường đi lên

thiêng liêng nối với thiêng liêng

tim người nối với trái tim Con Người

nối sâu biển với cao trời

nỗi đau xưa với tiếng cười mai xa

con đường nối Máu và Hoa

cho đêm đen tới chan hoà bình minh.

Ta nào tiếc máu hy sinh

máu vì người, cũng vì mình, em ơi

máu là máu của cuộc đời

lung linh máu dưới mặt trời. Lung linh

thương ai chiu chắt máu mình

qua buốt giá, máu hành trình cho ta

trách ai nay hững mai hờ

tránh nhìn máu đổ, lại mơ cờ hồng

– máu hy sinh chẳng yên nằm

triệu con-mắt-thức muôn năm trên cờ!…

Máu anh đổ xuống bây giờ

“mai sau dẫu có bao giờ…” em ơi

em về Đồng Lộc cùng ai

vẫn con đường ấy chưa phai máu này

em là em của anh đây

em yêu: người biết quý ngày máu rơi

em yêu: người biết yêu người

biết yêu anh, hiến cho đời và em

dẫu là giọt máu không tên

ở cùng em, sống cùng em xây đường

cho còn Tổ quốc yêu thương

cho tình yêu mãi mãi gương trăng tròn…

Em, em đừng khóc đừng buồn

máu tim anh nén căm hờn đứng lên

máu xin luyện với đất bền

cho anh được dựng móng nền nơi đây

cho anh sống với tháng ngày

bên em, giữa trọng điểm này, sẻ chia

em đừng dựng nữa mộ bia

và thôi hương khói đầm đìa mà chi

thương anh, những lúc hiểm nguy

lúc buồn vui… nhớ gọi về tên anh!…

Đứng lên em. Giặc rập rình

Bom cày đạn xới rung rinh đất trời

con đường Cứu Nước, em ơi

ánh lên như thể máu người, ánh lên!…

Chương bảy – Ông nhòm và đôi mắt

Mắt La xanh hai giọt nước sông La

hai giọt nước mát dịu trời xứ nóng

hai giọt nước hành trình qua biển rộng

cho mắt La xanh một sắc mặn mòi

Đôi mắt xanh đứng gác đỉnh đồi

chòi quan sát mất lần bom phạt gẫy

ở nơi ấy vẫn dáng La đứng đấy

mắt xanh xuyên lửa đến bom rơi.

“Ống nhòm đừng rung nhé, ống nhòm ơi

dẫu lửa khói liếm vào rát mặt

dẫu bom đen từng bầy như thú ác

nhảy bổ vào ống nhòm nhảy bổ vào mắt xanh

cho ta nhìn rõ từng chiếc răng nanh

bom nổ chậm cắn vào thịt đất

cắn vào con đường – cắn vào huyết mạch

bom cắn vào Tổ quốc yêu thân.

“Ơi quê hương, trong tầm mắt ta nhìn

chín mươi chín ngọn núi cao đứng cạnh trời phương bắc

chín mươi chín đại bàng sải cánh trong truyền thuyết

để rơi lại bên này sông La một ngọn núi lẻ loi

thương đất, thương mình, gọi tên núi Mồ Côi

phải chăng nên đất với người

gắn bó nặng duyên, nặng nghĩa

dòng sông con đường, hẹn hò gặp gỡ

bao nhiêu ngã ba sông bao nhiêu ngã ba đường

bao nhiêu nhịp cầu cởi nón trao khăn

bao nhiêu đạn bom kẻ thù trút xuống…

“Ta nhìn núi cao ta nhìn biển rộng

nhấp nhô dáng người nhấp nhô núi sóng

nhấp nhô địa danh nhấp nhô mũi súng

Bến Thuỷ, Rú Nài, Sông Phủ, Vũ Quang

nghìn mười thước cao chót vót Hoành Sơn

bao nhiêu đạn bom kẻ thù xối trút?…

xe qua Đèo Ngang – không thể nào khác được

cuộc chiến đấu đi qua, lòng dũng cảm đi qua!

“Ống nhòm ơi, ống nhòm dõi tầm xa

cho ta gặp ngôi nhà tranh của Bác

gặp gió sông Lam, mượt mà câu hát

thơm hoa cam hoa bưởi võng tre

mấy năm Bác bận chưa về

quả chín vườn ươm tươi tốt

cháu mong mai ngày hết giặc

mang giống cây vườn Bác về trồng

mát xanh Đồng Lộc trẻ trung…

“Ống nhòm đừng rung nhé, đừng rung

cho ta nhìn về mái nhà của mẹ

mẹ tuổi già lúc xâu kim vất vả

tóc sương cặm cụi đồng xanh

ước lúc qua nhà cởi ống nhòm trao mẹ

hẳn mẹ cười “so chỉ ấm trôn kim”!…”

Và bầu trời trong mắt kính rung lên

bầy bom từ trường xoè đuôi rơi xuống

đuôi bom xoè như chiếc dù kim loại

ôi, bom găm vào đất thật nhẹ nhàng!

Bom rơi hàng lũ hàng đàn

mắt La nhìn, miệng La nhẩm đếm

phía bom rơi là xóm là làng

là đồng xiêu xiêu bóng ai gánh nắng

là chỗ trâu đằm vẫy tai gợn sóng

là trường mới xây vôi màu nguỵ trang

mũ rơm em nhỏ đến trường

sạm khói dăm ba mảnh đạn

là con đường xe máu Mùa đổ xuống

cứ phập phồng trên lăng kính gọi kêu…

“Anh ơi, đừng hỏi em nhiều

bao nhiêu con đường lượn trên trái đất

đường nhựa đường tàu bê-tông-cốt-sắt

người đi như trôi xe chạy như trôi

đường quê ta bom đạn giặc xới đào

đất đá tai mèo lởm chởm

thương bàn chân ai không dày sương sớm

cheo leo tay vịn nhẵn cành cây

thương đoàn xe nặng vượt ngầm sâu

nước-thấp-khớp lắp xắp chân tài xế

trên đỉnh núi cao đá bồng đá bế

đường đâu mà pháo nặng vẫn lên đèo?

xe thồ bầm vai

xe xích mòn đai

đêm dài lích kích

ngày dài thay màu lá nguỵ trang…

Đất đai đạn đứng bom nằm

hố sau chồng lên hố trước

mộ bố chết vì giặc Pháp

bây giờ bom Mỹ xới tung

hỏi có ở đâu như đất nước mình

vai gánh lưng mang chân bước

giá mà ống nhòm thâu được

miền Nam những phố những làng

nơi nhoè nhoẹt điện màu, nơi leo lét cà-boong

nơi phố xá ngất trời, nơi lán dừa mưa dột

sung sướng cho ai, cho ai cùng cực

đau thương lớn dậy những Binh đoàn…

“ống nhòm đừng rung nhé, ống nhòm

nợ nước thù nhà đừng nhoà nước mắt

dẫu sớm sương mù dẫu trưa nắng gắt

sáng lòng ta cho mắt sáng trong…”

lòng dặn với lòng

dạ thề với dạ

tuổi xuân thề với cây với đá

mắt xanh thề với bầu trời

Một ngày bốn trăm quả bom rơi

bốn trăm quả bom chìm bom nổi

bốn trăm quả rình mò, chờ đợi

bao quanh một ngã ba đường

hiện trong đôi mắt – ống nhòm

hiện trong tim người con gái

không nhầm lẫn. Dáng La lao tới

cắm cờ tiêu báo tử mỗi đầu thù

cờ tiêu như giấy vụn vãi quanh đồi

hoá cờ lệnh mở đường lên giải phóng

Hai giọt nước mát dịu trời xứ nóng

qua ống nhòm thành biển lớn yêu thương!…

Chương tám – Đỉnh cao

1.

Tấm bản đồ Việt Nam trong phòng ngủ Giôn-xơn

tỷ lệ một phần trăm nghìn, rộng mở

“- Giá có thể phóng to nhiều lần nữa

cho ta nhìn từng hòn sỏi trên đường

cho ta nhìn từng điểm nổ của bom

quanh Đồng Lộc. Để rồi ta… cách chức

ta xử phạt những con bò đực

sau chuyến bay qua bán đảo trở về!…”

Tấm bản đồ vẫn không nói năng chi

ngoài những dấu nhân chồng lên đường số một

trên những tên cầu, tên đất

Nghèn, Ba Giang, Cày, Phủ, Kỳ Anh

những mũi tên di động – những con đường

chụm về Đồng Lộc

rồi cứ thế băng đi như dòng thác

thẳng về Nam sống dậy những lá cờ:

Quảng Trị, Tây Ninh, Đà Nẵng, Bến Tre…

đầu tổng thống nóng ra như trái cây chín nắng

lửa thuốc lá sém kẽ tay bợt trắng

y vẫn ngồi như đá giữa cơn điên.

Tê-lê-phôn réo từng hồi hoảng loạn

“Bân-cơ ư? Lảm nhảm mãi làm gì!”

cô thư ký liền ba lần gõ cửa

“Tin Đông Dương? Phét lác mãi làm chi!”

Y vẫn ngồi giữa hai phía tỉnh, mê

giữa bài thơ cuộc chiến tranh xâm lược

bài thơ đã lắm lời mà ý ít

chửa là thơ mà cũng chẳng thành văn.

“- Thì ra muốn làm Nhà Thơ, thật không chút dễ dàng

cái-cảm-giác dễ đánh lừa nhau quá!…”

nhưng máu nóng của anh chàng muốn làm “thi sĩ”

chẳng thể nào từ bỏ tứ thơ “hay”

“- Chữ KIA không vần với chữ NÀY

NHÒM với BOM ta phải GIEO cho trúng

Đất Đồng Lộc – điểm bài thơ ngời sáng

phải đào xăm nát nhàu như đất mặt trăng

a ha ha

ta viết bài thơ đã đến đoạn cuối cùng

đầu mệt mỏi, nhấp ca-kao, sữa nóng

hỏi ai đã thức qua bao đêm trắng

cho bài thơ tâm đắc suốt một đời?…”

Y vươn vai đứng dậy. Và cười

tiếng cười đập vào bê-tông dội lại

nghe rùng rợn như tiếng gằn ma quái

tiếng nhạc nền xủng xoảng nhịp thơ điên…

2.

Ở đỉnh đồi Đồng Lộc. Lúc nửa đêm

chuông điện thoại leng keng đài quan sát:

“Phương án một: NGÂM THƠ

Phương án hai: CA NHẠC”

tư lệnh tuyến đường phía Tỉnh uỷ gọi lên.

La bồn chồn qua hầm ngủ chị em

ôi giấc ngủ trong đêm cảnh giác

bàn chân lấm cứ mang nguyên giày, dép

hai bên người xẻng súng để song song

Ngọn đèn xanh chong mắt Ngã Ba Bom

xe cuốn bụi sương giăng mờ ảo thế

La muốn hát một điệu gì khe khẽ

lại thương thương đồng đội giấc đang muồi….

“Phương án một… phương án hai…

đường A-phẩy đã vòng qua Rú Bụt

đường A-phẩy qua đèo, qua suối Út

bốn xóm làng quanh Đồng Lộc dời đi!”

La nghe đêm lời gió hát thầm thì

về cuộc chiến tranh nhân dân – bản trường ca hùng vĩ

nhân dân sống cho ngày mai một nửa

một nửa kia cũng sống bởi ngày mai…

Những xóm làng thuần thục đất đai

những ngôi nhà móng nền xây vững chãi

cây mít cây tre cây cam cây bưởi

trảng sân kho trục lúa vợi đêm trăng

kỷ niệm bờ ao giếng nước cánh đồng

dẫu xa ngái chẳng bao giờ xưa cũ

nhưng ở vậy sống cuộc đời cực khổ

ở làm chi, gắn bó mãi làm chi

(khi con đường lên Độc Lập, Tự Do

khi con đường qua đói nghèo lam lũ

đi qua mảnh vườn, qua nền nhà ở

khoẻ và dài như tiếng gọi thiêng liêng)

sức nhân dân xẻ núi lấp sông

mồ hôi mặn nhoè bàn tay máu ứa

con đường mở qua lòng dân rộng mở

đường vươn dài, dân trải tấm lòng che…

La cứ đi quanh phiên trực. Và nghe

đêm sống động tiếng ầm ì xe chạy

đêm yên ắng những vì sao cao vợi

đêm bồn chồn linh cảm một ngày mai…

3.

Và,

bình minh không bắt đầu bằng rẻ quạt mặt trời

bình minh đầy bóng tối

từng đàn máy bay USA vút lên từ Hạm đội

màu xỉn đen trùm lấp trời xanh

từng đàn quạ đói chiến tranh

nhằm Đồng Lộc bay về tìm máu…

Đồng Lộc lại bắt đầu một bình minh chiến đấu!

Chưa bao giờ đất bị sự tấn công dữ dội

của bom tối tân, của tên lửa tầm xa

như ở Đồng Lộc sáng nay. Nhưng đất chẳng bất ngờ

đất đón nhận, ngẩng cao đầu thách thức.

đất bị cướp tấm áo màu xanh tốt

dệt bằng cây nhiệt đới. Chẳng hề chi

sau cơn mưa muốn mặc áo màu gì

đất lại dệt chuyên cần màu cây ấy

Xem thêm:  Ví dụ về các thể thơ để bạn hiểu thêm về cách gieo vần, số câu, số chữ

da thịt đất lửa na-pan bén cháy

hoá than đen bỏng rộp đất nước này

không còn chỗ lành nguyên. Bom vung vãi

đất trở về hoang dã thuở sơ khai

đất nghìn đời vẫn là đất, mà thôi

đất sinh nở – thời gian không già cỗi

bom tung đất tít trời cao chấp chới

đất lại về quanh lòng Mẹ cưu mang

chỉ những mảnh bom. Chỉ những mảnh bom

sẽ bị đất lấp vùi vĩnh viễn

chết gỉ sét qua mưa qua nắng

bầy côn trùng đưa đám dọc đêm khuya…)

bạn bao giờ gặp đất mặt trăng chưa?

– mời bạn đến Ngã ba Đồng Lộc

đất mặt trăng hiện hình trên trái đất

nơi “túi bom” nước Mỹ thế kỷ này

nhưng đất nghìn đời lòng dạ chẳng đổi thay

nai lưng chắn cả một trời sóng gió

những căn hầm quanh quanh Đồng-Lộc-Đỏ

dáng bao cô gái trẻ vẫn đi về

và con đường bám vào đất mà đi

đất trần trụi mênh mông thế đứng

đất – chỗ dựa không hề lay chuyển

của mọi cuộc tấn công về phía bầu trời!

NHỮNG VIÊN ĐẠN TỪ MẶT ĐẤT:

Không nhắm vào trời xanh

chúng tôi nhắm vào bóng đen tội lỗi

những viên đạn dầu khác nhau kích cỡ

chúng tôi có chung một độ lửa căm thù

(độ lửa căm thù – chúng tôi không có trước

độ lửa căm thù – người cầm súng truyền cho!)

Chúng tôi bay lên từ ruộng lúa đồng ngô

chúng tôi bay lên từ lùm cây cụt ngọn

chúng tôi bay lên từ sáng sớm

từ chiều hôm – giữa bữa cơm độn sắn độn mì…

chúng tôi bay lên vào giây phút bất ngờ

khiến mặt tên giặc lái phỗng ra không lẩn vào đâu được

(giây phút bất ngờ – chúng tôi không có trước

giây phút bất ngờ – người cầm súng truyền cho)

– người cầm súng là ai? Bạn hỏi

– người cầm súng trùng tên sông tên núi

ở khắp nơi trên đất nước này

là gái là trai

là già là trẻ

nước có giặc, họ đi theo tiếng gọi

xây trận địa, xẻ chiến hào

thương nhau không nịnh tâng nhau

nhường áo xẻ cơm chia lửa

chẳng thấy giá gương, ít gặp nhiễu điều

vẫn nhớ câu ca răn điều ăn ở…

người cầm súng, bom ném vào trận địa

mong bình an những cô gái mở đường

khi ngã xuống giữa chừng trên công sự

súng bên người nguyên tư thế tiến công

những viên đạn nhằm Con ma. Thần sấm

theo con đường ngắn nhất, bay đi

(lòng dũng cảm – chúng tôi không có trước

xáp mặt thù, người cầm súng truyền cho!)

LỜI CỦA ĐOÀN XE

Qua khỏi rặng bạch đàn, rũ lá ngụy trang đi

xe quét màu đất cháy

như lạc đà phi qua sa mạc vậy

chúng tôi qua Đồng Lộc nấu nung này

rẽ theo đường A-phẩy phóng như bay

thương đội nữ giao thông phía đường A chịu cả phần

bom đạn

đường A-phẩy bình yên đến cảm động

xe đi trong dào dạt “giọng” NGÂM THƠ

vài trạm ba-ri-e bỗng gặp bất ngờ

(ấy là lúc có đạn bom rơi lạc)

cái ngáng đường là cánh tay bị mảnh bom xuyên toạc

của một nông dân nào đó vụt hiện lên

và con đường chớp nhoáng lại lành nguyên

xe lại rú ga trong bàn tay vẫy

gặp suối Út phía đầu nguồn tuôn chảy

đầu nguồn nước trong mà nước đục cuối nguồn(!)

chúng tôi đi. Và xúc động nhiều hơn

qua Đồng Lộc lòng ngoái về Đồng Lộc

trái tim chẳng chia làm hai được

vẫn dập dồn trước ngực, sau lưng…

4.

Những mũi tên màu đỏ – những con đường…

vẫn sống động trên bản đồ chiến sự

viên tổng thống gầm lên rung nước Mỹ:

– Đường trong người trong máu Việt Nam ư?

chẳng bao giờ như vậy, chẳng bao giờ

đường không thể xa rời mặt đất

xe không thể bay qua Đồng Lộc

đổ tràn về phương Nam…

mắt điện tử để đâu? Hãy tìm cho được đường ngầm

và bom tấn! Hãy vãi từ trời xuống

năm nghìn thước cao, năm trăm thước thấp

bảy trăm quả một ngày, ba trăm quả một đêm

bom nổ chậm, bom bi, bom sát thương… cứ linh động cài xen

cho Đồng Lộc hoá thành sa-mạc-chết

cho huyết mạch qua “cuống xoong” dập nát

cho bài thơ chiến tranh khép lại đỉnh cao này!”

Từng đàn quạ chiến tranh đói máu lại bay đi

những F những A những B những H

mặc bao mẹ già tiếng kêu gào khản đặc

mặc bao người vợ trẻ gọi chồng thao thiết khắp năm châu…

*

Khi con đường A-phẩy bị thương

La cảm thấy trái tim đau nhói

mắt giàn giụa nhoè cay trưa lửa khói

Tần ở đâu? Hường, Thuỷ… ở đâu rồi?…

tiếng máy bay vẫn băm bổ bầu trời

chòi quan sát – mảnh đất bằng trơ trụi

chỉ còn lại tiếng chuông điện thoại

đổ liên hồi trong đất – dưới hầm sâu.

– Đồng chí Tần ơi! Dưới ấy có làm sao?

– Tất cả vẫn giữ nguyên vị trí!

– Tôi ra lệnh: Phương án hai, rõ chứ?

giờ G này mọi hướng sẽ ĐỒNG CA!

Con đường A-phẩy, con đường A

xe rú máy, kéo còi, lửa táp

hai con đường cùng vượt qua cái chết

hai con đường đi tới chiến trường xa

Anh lái nào tung xuống những chùm hoa

phong lan trắng phong lan hồng máu thắm

bao cô gái mở đường đón nhận

– Chùm hoa này dành riêng tặng chị La

Họ chưa kịp quay nhìn

đoàn xe đã lướt qua

người đến người đi không nhớ mặt

bao cô gái lại nhập vào công việc

lại cười vui át tiếng đạn bom gầm…

Tiếng cười chan chứa trẻ trung

bay tới đỉnh cao Đồng Lộc

La sung sướng nhận tiếng cười thân thuộc

yên lòng dõi từng chuyến xe đi…

Bỗng chao nghiêng mặt đất, đoàn xe

– trái đất có lẽ nào đổ sập?

La tỉnh dậy, ngọn đồi bom phạt

trời cao bỗng thấp xuống ngỡ ngàng!…

“- Đồng chí Tần ơi!… A lô… Đồng chí Tần…”

tiếng La gọi nghẹn ngào trong khói đắng

tiếng La gọi xiên qua tầng đất nặng

xiên qua bom đạn rú gầm

chỉ có gió ầm ầm

tiếng súng báo thông đường

và tiếng đoàn xe ra chiến trường

đáp lại…

La quẫy mình… không làm sao gượng dậy

đất hầm hập hơi lửa, hơi người

trong cơn mê, La gặp một khoảng trời

xanh như thể trời xanh không có được

khoảng trời ấy có bóng Tần, bóng Cúc

tuổi hai mươi mái tóc xoả lưng ong

trước lúc đi phá bom

nơi bến tắm cùng chụm đầu “chụp ảnh”

nước suối Út làm tấm gương lấp lánh

giữ nụ cười con gái tuổi hai mươi…

Và dáng Xuân “Vĩnh Lộc” buổi chiều nào

trả phép sớm – trở về cùng con đường, trở về cùng đồng đội

Xuân “Đức Hồng” vỗ vào vai sôi nổi:

– nếu có chồng rồi, dám trả phép sớm không?

bè bạn cười vui cho gương mặt thêm hồng

khoảng trời ấy chuyển màu theo nụ cười tuổi trẻ

khoảng trời ấy màu trời chưa hề có

màu của hoa, màu của lửa, màu của trời

nhưng nhiều hơn – màu của những nụ cười

trong rực rỡ khoảng trời hư thực ấy!…

La lại quẫy mình…

không làm sao gượng dậy

nắng nửa chiều tung hoa cải hoa cà

trên bụi khói

bỗng lành lạnh bờ vai

như máu chảy lại như là nước chảy

và dòng sông xanh cứ dâng đầy lên mãi

dọc cơn mê – dịu ngọt một dòng sông…

Dáng ai quẩy nước gót chân hồng

lên bậc đê cao chiều hạ

thấp thoáng như là bóng Nhỏ

bước lên máy ủi gặp người yêu

“cô em” trông thật yêu kiều

như sông chảy dịu mềm qua đạn lửa

“- Mạnh dạn lên nào… Trao hoa đi chứ…

gan thỏ thế kia – bom nó dội bây giờ!…”

Lại một trận bom giật La khỏi cơn mê

“- Đồng chí Tần ơi!… Alô… Đồng chí…”

vẫn tiếng xe đi, tiếng bom gầm rú

không lời Tần đáp lại giữa mênh mông

La bật mình khỏi đất lấp cửa hầm

bước lảo đảo giữa làn bụi khói

máu chảy bờ vai bết lại

nóng lòng tìm đồng đội dưới bom rơi

căn hầm tổ chốt đâu rồi?

đâu Cúc đâu Tần, đâu mười bạn gái?

La nhìn trời, bỗng thấy trời trống trải

ngỡ đêm dài không bóng một vì sao…

Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào

lưỡi mai lưỡi cuốc xới vào đất sâu

em ở đâu? Chị ở đâu?

sau cơn mưa sắt quặn đau đất này

linh thiêng xin vẫy bàn tay

vẫy bàn tay báo ở đây có người!

Mười chị em ở đâu rồi

để cho nước mắt khôn nguôi người tìm

con đường xe hãy còn lên

và mai và cuốc vẫn tìm, người ơi

cách nhau một lớp đất thôi

mà xa xôi thế – không lời… lặng im…

Nhẹ nhàng nào, hỡi người tìm

lưỡi mai có mắt nhìn xuyên đất rồi

cửa hầm: một bức phù điêu

nhẹ nhàng nào, kẻo nắng chiều tan nhanh!…

Võ Thị Tần ngồi đó, trước cửa hầm

chở che cho đồng đội

tay cầm xẻng, tay vịn vào đất chói

đầu ngẩng cao mắt dõi hướng bom rơi

mái tóc bay trong đất – tóc hai mươi

tóc trong đất, gió thời gian thổi mãi…

Hồ Thị Cúc cặp mày đen nhíu lại

dáng lao lên, tay xách chiếc cáng thương

đất đỏ tươi áo bạc vai tròn

đường chỉ mới bình yên trên mảnh vá

trong túi áo còn lá thư gửi mẹ

– con sống với chị em, xin mẹ hãy yên lòng!

Và Xuân “Vĩnh Lộc”, Xuân “Đức Hồng”…

ôm phong lan giữa những người bạn gái

(chùm phong lan anh lái xe nào vừa gửi lại

hoa vùi trong đất vẫn còn tươi)

đồng đội tựa vào nhau dáng một tượng đài

ôi, dáng đứng của những người bám trụ

những cặp mắt tuổi hai mươi không ngủ

những khoảng trời – khói đạn chẳng thể che!

Họ đứng đây như vẫn lắng nghe

tiếng đạn nổ

tiếng con đường băng tới

tiếng đồng đội lao lên trong lửa khói

tiếng xe đi không nghỉ tới phương Nam

và Nhân Dân – rầm rập bước Nhân Dân

đang ùa tới Ngã Ba – ùa tới họ…

La cảm thấy ngực mình như muốn vỡ

“- Mười đồng đội yêu thương

mười đồng đội yêu thương nằm lại với con đường!

– La không khóc mà đầm đìa nước mắt

ơi Hợi, ơi Nho, ơi Hà, Xanh, Cúc

ơi Hường, ơi Rạng, ơi Tần

ơi hai bạn gái tên Xuân

bài hát gửi đây cho ai đến hát:

Cô gái mở đường đi dưới trời sao…

La cắn môi đứng dậy giữa thương đau

dáng đứng tạc vào trời bom đạn

đồi Đồng Lộc như bất ngờ vụt lớn

– trái tim yêu nước dựng đỉnh cao!

Chương chín – Khúc hát mười cây xanh

Bạch đàn xoả mái tóc xanh

tôi đi qua cuộc chiến tranh trở về

vô tư hát dưới nắng hè

vô tư toả bóng mát cho con đường

Ai qua Đồng Lộc mờ sương

ai qua Đồng Lộc chiều hôm một mình

ai qua Đồng Lộc tự tình

ai qua Đồng Lộc có mình có ta…

tôi xin hát tặng bài ca

bài ca tôi hát hẳn là tốt tươi.

…. Bạch đàn – mười chị em tôi

những ngày lửa táp bom rơi mịt mờ

tôi không phải sống bơ vơ

– có bao cô gái đi về cùng tôi

họ trò chuyện họ vui cười

tôi trao nhành lá họ cài tóc thơm

tôi luôn sống với con đường

bao cô gái cũng nắng sương không rời…

Thuở đầu, tôi rất đông vui

đôi bờ lớn dậy bao chồi tơ non

đến khi đạn bắn con đường

cây ngã xuống, cây bị thương. Đau lòng

cây còn, cây sống ung dung

che đoàn xe nặng rùng rùng đi qua

nghe bao cô gái bảo là

những đoàn xe ấy đi ra chiến trường

tôi gắn bó, tôi yêu thương

bao nhiêu cô gái mở đường và xe…

Một ngày bom đạn ê chề

vắng mười cô gái không về cùng tôi

bạch đàn cháy trụi lưng đồi

tình cờ, mười chị em tôi vẫn còn?

Tôi thương bè bạn bạch đàn

hoá thân cho những mùa màng tốt tươi

thương mười cô gái đôi mươi

lúc ngừng thở vẫn nụ cười và hoa

(ước gì năm, tháng trôi qua

mười cô đi lấy chồng xa, chưa về!)

thôi mà, ước vậy làm chi

cho thơm hoa trắng mãi thì trẻ trung…

Hỡi ai về vẽ chân dung

bao nhiêu tưởng tượng vẫy vùng, bay xa

bao nhiêu màu sắc, tài hoa

bao nhiêu nhân nghĩa tan hoà thời gian

mười gương mặt sáng núi ngàn

mười đôi mắt với muôn vàn lá non

nụ cười biết mấy vui buồn

mỗi hy sinh mấy căm hờn, thương yêu….

Ai về dựng tượng, mang theo

đá hoa ư? hay rất nhiều đồng đen?

dẫu là vàng chói ngời lên

làm sao sánh nổi trái tim con người

trái tim của tuổi đôi mươi

gắn đời mình với triệu người – Nhân Dân

thiết tha cuộc sống nghìn lần

mà hy sinh – chẳng ngại ngần, đắn đo!

Ai người dựng tượng mười cô

đạn bom thuở ấy mịt mờ, đừng quên

dáng mười cô gái trong đêm

chói lên như thể sao trên bầu trời

đừng quên đêm dưới bom rơi

từng trang sách mở cho đời bình minh!

Giờ lên Đồng Lộc thanh bình

nước non một dải trời xanh một màu

nghĩa trang mấp mé đồi cao

cỏ non lẫn với dạt dào cỏ non

bạch đàn lẫn với bạch đàn

nắng nghĩa trang lẫn nắng vàng đó đây

đồi kia lẫn với núi này

hạt mưa ngọt với suối đầy nước trong

bao cô gái trẻ chưa chồng

mai kia rồi sẽ con bồng cháu mang…

Giờ ai mặc áo lụa vàng

nhớ vai áo vá ai mang thuở nào

giờ ai thoả ngắm trời sao

nhớ đêm ai xẻ chiến hào dưới bom

trời xanh tung cánh chim non

nhớ chăng con sẻ lang thang gọi bầy

đi trên đường rộng hôm nay

nhớ chông chênh bánh xe quay nặng nề

gói hòn đất đỏ mang về

nhớ bao nhiêu máu tràn trề hy sinh…

Bạch đàn xoả mái tóc xanh

tôi đi qua cuộc chiến tranh trở về

vô tư hát dưới nắng hè

vô tư tỏa bóng mát che con đường

Tôi ca tụng những Anh hùng

những cuộc đời trọn hiếu trung với đời

những cái chết hoá tuyệt vời

những im lặng hoá muôn lời dạy khuyên

tôi ca tụng những yêu tin

sống không quỳ luỵ, van xin, hẹp hòi

cánh chim tìm đến bầu trời

con người tìm đến con người vô tư

đói trong sạch, rách thơm tho

hạt cây rơi biết gọi mùa ngọt thơm

tôi ca tụng sự biết ơn

quả khế đầu vườn năm cánh của hoa

móng sâu gánh vác cao nhà

bữa cơm thêm chút mặn mà… từ đâu?

Yêu nhau cởi áo trao nhau

người đi dạ để nhịp cầu nhớ thương

ở đây còn đó con đường

ở đây một thuở chiến trường, ở đây

ngọn đồi dáng đợi chờ ai

mà con đường tựa cánh tay vẫy mời?

“thương nhau thì giữ lấy lời…”

câu ca ai hát một thời trẻ trung…

Bạch đàn xoả mái tóc xanh

tôi đi qua cuộc chiến tranh trở về

hồn ai rợp bóng tôi che

hồn mười cô gái mát về hồn tôi!…

Chương mười – Thay cho vĩ thanh

La trở về trong tiếng hát bạch đàn

vẫn đôi mắt mát dịu trời xứ nóng

vẫn nước da đậm đà gió nắng

vẫn mùa hè dữ dội đất quê hương

Thương mẹ ra đồng

thương nắng mang tơi

củ khoai đào lên nóng rẫy tay người

đất rạn chân chim đồng chiêm cuống rạ

cánh chìa vôi quạt lửa chân trời

Đất vẫn đất bao đời cháy khát

người vẫn người một nắng hai sương

quầng thâm trăng khuyết trăng tròn

quả chín mặt trời sa muộn

tát cạn mồ hôi cho lúa trổ đòng

mồ hôi lép nửa mùa gặt hái…

La nhìn đất – đỏ lời máu gọi

những mùa màng thịnh vượng hẹn cùng ai

“yêu nhau chiến đấu suốt đời”

còn đây lời hứa với người ngày xưa.

“- Em đã về

vẫn em của anh xưa

em của tình yêu gặp gỡ chia xa

chị đã về, ơi Tần, ơi Cúc…

chị đã về trong lời em ao ước

câu “Bao giờ…” đến lúc gọi “Bây giờ…”

con đã về, ơi quê hương, ơi mẹ già

ơi Ngã-Ba-Bom ơi con suối Út

con đã về – nghĩa là vai gánh vác

nghĩa là đời gắn chặt đất quê hương

nghĩa là đồng phải thêm những dòng sông

nghĩa là lúa phải lên mùa no ấm

con đã về, sức còn dài, vai rộng

tóc còn xanh tuổi trẻ điệp trùng

Ngọn gió bây giờ không phải ngọn gió hoang

khi nghìn vạn cánh tay vung lên chiều ồn ã

con suối Út sẽ hoá Dòng Sông Chị

trải phù sa lên những cánh đồng

khi hoang vu lớn dậy những công trường

khi tuổi trẻ biết trông sau, nhìn trước

tiếng gà gáy vút từ giàn máy húc

rung rung trong tiếng máy đẫm sương

(tiếng đêm gọi bình minh

hay tiếng bình minh gọi về đêm thôi thúc?)

sống – làm việc vượt qua nghìn cơn khát

cơn khát nào Đồng Lộc đã đi qua?

cơn khát nào hơn cơn khát Ấm No?

sức tuổi trẻ: sông băng về với biển

đất như đất trả nợ nần tìm về nơi hò hẹn

hai mươi ba cây số người – hai mươi ba cây số dòng sông!

Phút giải lao trong bóng mát bạch đàn

Mái tóc La nhập vào mái lá

mắt xanh nhập vào dòng sông trẻ

La nhập vào Quá khứ – Tương lai

“- Em đã về, vẫn em của anh đây

của Đồng Lộc mùa hè hoa sim tím

(rễ sim bám vào đâu thời kháng chiến

mà bất ngờ hoa tím dậy xôn xao?)

ước chi nhiều, một phút nắm tay nhau

đủ đi suốt rộng dài hạnh phúc

cho anh hát bài ca chưa kịp hát

em khẽ khàng nước mắt chạy quanh môi

cho anh đi như chạy dưới xanh trời

ngực lộng gió bao cánh đồng màu mỡ

(ngọn gió mát tự dòng sông mới mở

ngọt và mềm sang năm tháng phì nhiêu!)

cho anh cầm liềm hái gặt trời sao

mùa lúa chín cùng em gánh thóc

anh trao lược cho em chải tóc

hương bạch đàn hương lúa quyện tay ai…

Ước chi nhiều, một phút nắm tay nhau

cho ta đến ngôi nhà của mẹ

ngôi nhà cũ đã tươi màu ngói đỏ

đừng ngỡ ngàng, anh nhé, xóm làng ta…

mẹ chờ con – lòng mẹ rộng bao la

như cỏ xanh gọi bê đàn tung vó

như bờ bến cho cánh buồm về ở

sau bao nhiêu cơn bão. Lại ra khơi…

đừng dài dòng với mẹ, anh ơi

(mẹ hằng dõi theo ta qua tháng ngày đạn lửa)

anh thưa khẽ; mai anh thành chú rể

hẳn mẹ cười cau dẻo thắm trầu cay…

Ước chi nhiều, một phút nắm tay nhau

khi hai mảnh trăng chia li tròn đầy đêm sum họp

từ Đồng Lộc ta nhìn về đất nước

biển dịu dàng

em dịu dàng biển xanh

anh đất đai cuồn cuộn nồng nàn

biển và đất – em và anh. Trăng sáng

đêm không ngủ mãi rì rầm trò chuyện

biển dịu dàng

đất nồng nàn tình yêu

biển mặn mồ hôi

đất trộn máu người

ôi Tổ quốc! Ta muốn cười muốn khóc

sau cơn bão chiến tranh hủy diệt

tóc biển xanh ôm vai đất mỡ mầu…

Em đã về, vẫn em của anh đây

“em yêu anh như yêu đất nước”

như em yêu Đồng Lộc

có con đường Cứu Nước đi qua

có lời anh ước hẹn ngày về

cho em đợi bên này bờ sum họp

cho em đợi phía lòng anh khao khát

phía bông hoa đậu quả chín cho Mùa

Tháng mười hai

em mặc áo mong chờ

cùng bè bạn cầm tay vào tiệc cưới

như có anh ngồi bên em, ăn kẹo

như có anh

trong mỗi lời chúc tụng, mỗi bài ca…”

Mai sau rộng

mai sau xa

mai sau vết thương đất liền da

dòng sông trẻ ở mãi cùng Đồng Lộc

ai vục nước rửa chân

ai ngụp tắm giữa trưa nắng gắt

chợt gặp đôi bờ đỏ au màu đất

xin đừng quên một thuở chiến tranh

xin đừng quên thuở Đồng Lộc trụi trần

đất nhận máu bao người con ngã xuống

đất nén khóc qua hy sinh đau đớn

cho ngày vui nước mắt đất tuôn trào

nước mắt thành sông tắm mát đời sau!

Trên đây, Thuvientho.com đã dành tặng cho bạn những bài thơ sâu sắc trong tập Con Đường Của Những Vì Sao của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ thể hiện nỗi xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với sự hy sinh quên mình của 10 nữ anh hùng. Bài trường ca này luôn đi sâu trong mỗi tâm khảm của những người con của đất nước. Cảm ơn các bạn đã đồng hành và theo dõi chúng tôi trong suốt thời gian qua!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …