Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 1)

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 1)

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 1)

Bùi Hạnh Cẩn sinh năm 1921 trong một gia đình Nho giáo ở thôn Vân Tập, xã Minh Tân, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thân sinh là cụ Bùi Trình Khiêm – là đại biểu Quốc hội khóa 1 của tình Nam Định.

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn

Khoảng những năm 1938 1939 ông lên Hà Nội bắt đầu tham gia Hội truyền bá chữ Quốc ngữ cùng với Nguyễn Hồng Nghi và Nguyễn Trinh Cơ. Nhóm này đã mang bảng, phấn đến các khu chợ, bến xe hay những nơi đông người để dạy học. Và ông cũng cùng một số người khác tham gia diên kịch của Nguyễn Bính để lất tiền ủng hộ Hội Truyền bá chữ quốc ngữ.

Trước cách mạng tháng Tám ông đã viết cho nhiều tờ báo nên có dịp tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến bộ. Và ông cũng đã có nhiều cách tân về mặt nội dung cho những tờ báo như Ngày nay, Tiểu thuyết thứ 5…. Thần tượng của ông chính là những người luôn đề cao sự sáng tạo, mở đường cho các trào lưu văn hóa, văn học và ngôn ngữ như Phạm Duy Tốn, Dương Bá Trạc, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học…

Sau cách mạng tháng Tám ông về công tác tại tỉnh Nam Định và được cử làm Kiểm soát viên tài liệu của Ty Bình dân học vụ. Ông có nhiệm vụ chuyển tài liệu cho mọi người đọc, học và nghiên cứu. Dù ở vị trí nào ông đều giữ được vẻ chất phác, dễ gần, năng nổ và xông xáo.

Về thơ của ông được ghi nhận thông qua các phần thơ dịch của các tác giả khác. Đó cũng chính là một cách để mang các áng văn chương đến gần hơn với người hâm mộ. Và xóa nhòa được khoảng cách về mặt ngôn ngữ hay văn tự.

Đề Diên Bình kiếm đàm – Âu Dương Chiêm

Muốn thấy gươm thiêng khó mấy vàn

Qua đò một bến nước mênh mang

Suông thừa nắng cũ nhoà sương sắc

Dài với đầm trong sáng lạnh tràn

Ký Dương Thị Ngự – Bao Hà

Làm quan may gặp được cùng thời

Không mối mười năm bị bỏ rơi

Trước mắt bàn chi đeo túi ấn

Xin anh ngó tóc muối tiêu rồi

Lộc trại – Bùi Địch

Nắng muộn lạnh màu non

Lẻ loi đành phận khách

Rừng tùng chuyện chẳng hay

Hươu nai còn dấu tích

Mạnh Thành ao – Bùi Địch

Dựng lều dưới thành cổ

Thành cổ thường lên chơi

Thành cổ đà khác trước

Người nay tự vãng lai

Nhâm Dần tuế đán – Bùi Huy Bích

Năm tết ở lâu cùng quốc giới

Năm giờ mừng thấy đế thành xuân

Nhị Hà khối nước lay cây lạnh

Cung cấm làn thơm động bụi trần

Chín bệ mũ cờ không cách mấy

Một vườn hoa trúc lại thêm thân

Thẹn điều quyền biến không thành thạo

Mà cũng xênh xang bậc đại thần

Sài Sơn tự – Bùi Huy Bích

Gấm vóc quanh co dải núi đồi

So le cây đá nổi lâu đài

Đông tây nhật nguyệt cầu tiên bắc

Sớm tối mây sương họp chợ trời

Cảnh Thống bia đề hang còn tỏ

Chính Hoà thơ khắc chữ rạng ngời

Am thiền Đạo Hạnh nay còn đó

Thác hoá đầu thai chuyện nực cười

Bính Thìn Đông Cao độ sơ thu nhàn vọng – Bùi Trục

Đông Cao một đường thẳng

Sông nước ba vùng lành

Lũ rừng mây sóng lộng

Sông thu cỏ cây xanh

Thuyền buôn đậu quang bãi

Cò sếu rỡn nắng hanh

Tản đảo trời sững núi

Hùng thay chốn đế kin

Dục Khánh Phật đài – Bùi Trục

Năm quá ba trăm Dực thánh hoàng

Anh hoa dồn đúc mãi thơm luôn

Sáng thiêng trăm kiếp dài thân nến

Lành tốt ngàn thu chả dứt hương

Khéo chuyển xe thiền công quá lớn

Giúp ngầm nghiệp báu đạo mênh mang

Một trời phúc đẹp xuân không hạn

Tứ khách Tao Đàn chợt vấn vương

Lý Ông Trọng từ – Bùi Trục

Trời đất đổi thay sáu trăm lượt

Người nam đất bắc chuyến chơi hùng

Tượng vàng ngăn giặc oai như cũ

Lưới sắt trừ yêu chuyện thực không

Nhìn miếu thấy thần đang sống động

Bàn kinh vào mộng tháng năm ròng

Ba ngàn năm đó linh thiêng mãi

Sông Nhị đìu hiu ngọn gió lồng

Tân Hợi tuế đán – Bùi Trục

Nhìn hoa biết năm đổi

Không lịch chẳng hay xuân

Lối liễu biết khác Tấn

Nguồn đào còn nhớ Tần

Ở nhà mà tựa khách

Vô sự càng nhàn thân

Quá ngại chẳng thay đổi

Bỗng chốc tóc bạc đầu

Đường thượng hành – Chân thị

Cỏ bồ mọc trong đầm

Lá ấy sao xen đầy

Ví có làm nhân nghĩa

Không bằng thiếp tự hay

Miệng người chẩy sắt thép

Khiến chàng xa chân mây

Nhớ khi chàng li biệt

Một mình oán hận đầy

Hình dáng chàng tưởng đến

Lòng dạ trĩu đắng cay

Nhớ chàng luôn buồn thương

Giấc ngủ đêm không đến

Đừng vì chuyện tài hoa

Quên thứ mình quý mến

Đừng vì thịt cá rẻ

Mà quên tỏi với hành

Đừng vì đay tơ mềm

Mà quên gianh với cói

Bước ra lại khổ sầu

Bước vào càng thêm khổ

Biên ải nhiều gió buốt

Cỏ cây sao rậm rì

Đi lính mà vui được

Tuổi thọ dài ngàn thâu.

Trấn Vũ Quán – Chu Tập Hy

Mờ mờ khí tốt khói mây chen,

Một khoảng vàng son cảnh mới thêm.

Giọng hạc vút cao lò lửa lạnh,

Hồ tinh mất bóng ánh gươm thiêng.

Đường trần tấp nập xe qua lại,

Chiều tạnh mênh mông ráng nước bên.

Hiểu được rõ ràng chân sắc tướng,

Nửa trời trăng sáng một hồ sen.

Đề Trường An tửu tứ bích kỳ 1 – Chung Ly Quyền

Một gã thường mang rượu một vò

Hai mắt không cần nhìn Hoàng đô

Đất trời khá rộng chẳng tên họ

Lẫn giữa người đời bậc trượng phu

Đề Trường An tửu tứ bích kỳ 2 – Chung Ly Quyền

Đừng chán truy hoan rộn nói cười

Nghĩ chi ly loạn chuyện buồn thôi

Giơ tay đếm thử từ xưa trước

Được hưởng thanh bình hỏi mấy ai

Hồ trung – Cố Huống

Thanh Thảo hồ bên nắng xế chiều

Giữa vùng “gianh úa” giá cô kêu

Trẻ trai phiêu bạt nay như thế

Bến Sở ca dài mấy quạnh hiu

Túc Chiêu Ứng – Cố Huống

Vũ Đế cầu thiêng Thái Ất đàn

Tân Phong cây cối đẹp ngàn quan

Đêm nay đâu biết Trường Sinh điện,

Trăng lẻ non hoang ánh lạnh tràn

Tống lưu hiệu thư tòng quân – Dương Quýnh

Thiên Tướng xuống ba cung

Tinh Môn họp năm nhung

Định mưu toan kế lớn

Truyền hịch tỏ văn hùng

Gươm sáng ngời đất đỏ

Cung báu rạng trăng trong

Hơi thu mờ đường Thục

Sát khí toả Hoàng Trung

Mưa gió năm nao biệt

Đàn rượu ngày nay cùng

Ly đình sao nỡ ngóng

Đông tây mặc xuôi dòng

Quán trung túc sự – Dương Sỹ Ngạc

Xiêm hồng rơi hết thoáng hương tàn

Trên lá màu thu móc trắng hàn

Gái Việt u tình đã vô hạn

Đừng cho vạt múa tựa lan can

Phụng họa thánh chế hạ nhật du Thạch Tông sơn – Địch Nhân Kiệt

Ban mai nắng sớm xe vàng chuyển

Chót vót đường tiên động biếc sâu

Cờ quạt xa bày loan hạc múa

Trướng rèm đông đủ phượng lân chầu

Bọt tung thác đổ ngờ mưa móc

Lá rợp rừng chen giữa cảnh thâu

Huyền phố lão thần may dự yến

Xích Tùng bầu bạn lại vui nhau

Dư Hàng túy ca tặng Ngô sơn nhân – Đinh Tiên Chi

Rèm sáng én ngực đỏ

Thành xuân quạ bạc đầu

Chỉ ríu ran trên mái

Không bay vào trong lầu

Đầu thành thì thùng trống báo sáng

Khắp sân mới trồng đào non tươi

Hoa đào đêm trước rơi lả tả

Bên hiên toả ánh rạng lâu đài

Mười ngàn “Dư Hàng” đổi rượu được

Tháng hai thành xuân ly thọ chuốc

Rượu say giữ anh chờ sáng trăng

Lại bảo trăng sáng đưa anh bước

Gia đệ đăng tường thư tặng – Đoàn Huyên

Phúc nhà một mạch nối văn chương

Thu nay em đã tới huyện trường

Cây lớn tiếng oanh vừa khỏi động

Mây xanh chữ nhạn đã thành hàng

Áo ban cha mẹ mừng khoe sắc

Cành ngọc đàn con vẻ rộn ràng

Thêm đẹp Đường anh ta ước muốn

Chi lan lại nữa khắp sân thơm

Hiểu khởi – Đoàn Huyên

Trời hè dậy sớm khí thanh hoà

Sớm tựa lan can sảng khoái là

Trời mới ngoài tường, chưa ngọn trúc

Sương thưa bên lối vẫn trong hoa

Vườn um cây cối chim mùa hót

Núi rất chon von ráng sớm qua

Nhìn chủ nhân ông xin hỏi lại

Mùi đêm oi ả sẽ sao a?

Mộng tiên thất – Đoàn Huyên

Mấy năm lưu lạc nhớ tình thân,

Gà gáy tinh mơ nhớ bội phần.

Chợp mắt chợt đâu lời thủ thỉ,

Đoan trang dạo trước vẫn tinh thần.

Trăm năm âu yếm mơ huyền hão,

Ngàn thủa tao phùng chuyện túc nhân.

Tỉnh giấc trơ trơ mình tối sáng,

Bâng khuâng chẳng rõ giả hay chân.

Nguyên nhật công xuất đồ trung tức sự – Đoàn Huyên

Xuân tới muôn nhà mây sớm cao

Sảnh đường phơ phất gió đông chào

Chín trời mưa móc khi ta nghỉ

Sông núi cùng ta đượm dạt dào

Sưu không – Đoàn Huyên

Chiều muộn về theo bóng sẫm lên

Dinh quân cồng lạnh bỗng khua rền

Tiếng vừa chuyển vội xua mây lạc

Nhịp gấp xông trời đuổi khói đêm

Vũ trụ lúc này chia sáng tối

Càn khôn ngàn thuở cũng lung liêng

Gió trong rất mến người ven gác

Ngồi lẻ còn luôn quấn quýt bên

Tiễn Tây Mỗ Hữu cơ ngự sử thăng phó khuyết – Đoàn Huyên

Cửa trời mũ trãi vẻ xênh xang

Ơn chúa rong chơi tuổi tráng cường

Câu cũ từng quen chăm phủ dụ

Chức nay chẳng thẹn quý tuần lương

Chín thu nắng gió ưng tung cánh

Muôn dặm mây xanh nhạn xếp hàng

Kinh khuyết ví ai thăm hỏi tới

Râu dài đốm tuyết, tóc pha sương

Vịnh đăng hoa – Đoàn Huyên

Rờm rợp cây thiêng vẻ đẹp giờ

Gió đông đâu mượn thổi qua hờ

Thẹn đèn hoa cánh trao là lụa

Chỉ mở lòng son rạng giấy tờ

Rực rỡ đâu theo phòng tối đổi

Long lanh cùng với cửa đêm thưa

Cuồng điên cái bướm hồn toan dứt

Mách với ngài bay chớ ỡm ờ

Vĩnh Lợi kiều bắc vọng – Đoàn Huyên

Vĩnh Lợi bên cầu dạo bước quanh

Chợt nhìn phương bắc xiết bao tình

Một đường phẳng phẳng bụi lầm đỏ

Chín nẻo giăng giăng cây lá xanh

Mũ lọng ruổi rong khôn dứt mắt

Ngựa xe qua lại rộn tơ mành

Xa xa ngoài cổng lầu Tây Bắc

Muôn dặm làn xuân nối Bắc Thành

Trên đây là một số bản dịch tác giả khác của Bùi Hạnh Cẩn. Các bản dịch này được đánh giá cao về sự sát ý với nguyên bản cũng như dễ hiểu đối với các tầng lớp sau nhất là các bạn trẻ sau này. Đó cũng là một trong những điểm đặc biệt của văn thơ ông. Và cũng đừng quên theo dõi bài viết Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 2) nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …