Do chịu ảnh hưởng của bối cảnh xã hội, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã lựa chọn nhiều tác phẩm thơ của các nhà thơ Trung Quốc để làm bản dịch. Tiếp nối Chùm bản thơ dịch tác giả khác phần 3 chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn các bản dịch đặc sắc nhất của Bùi Hạnh Cẩm. Cùng đọc và cảm nhận bạn nhé!
Thu tứ – Hứa Hồn
Gối trúc cây kỳ thu gió lộng
Sông Tương mây Sở nhớ cùng chơi
Ca vang một khúc che gương sáng
Trai trẻ hôm xưa tóc bạc rồi
Mộc Lan Từ – Khuyết danh
Thẫn thờ lại thẫn thờ
Mộc Lan đang dệt lụa
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe tiếng than thở
Có phải nàng đang mong
Có phải nàng đang nhớ
Nàng chẳng có gì mong
Nàng chẳng có gì nhớ
Đêm qua chiếu ngà vua
Triều đình tuyển quân ngũ
Mười hai quyển sổ quân
Sổ nào cũng tên bố
Nhà sinh gái đầu lòng
Nàng không có anh cả
Đành ngựa gươm xông pha
Thay cha nơi khói lửa
Chợ đông mua ngựa khoẻ
Chợ tây mua yên đai
Chợ nam mua bàn đạp
Chợ bắc mua roi dài
Sớm từ biệt mẹ già
Chiều ngủ trọ sông Hoàng
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang
Sớm từ biệt cha mẹ
Chiều ngủ sườn non Yên
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm
Muôn dặm quân dong duổi
Sông núi cách nước mây
Gió bấc động giáo mác
Trăng lạnh áo bào dày
mười năm đánh trăm trận
Tướng quân về nơi đây
Trở về vào điện ngọc
Dâng lời chúc đức vua
Công lao mười lần gấp
Ban thưởng khó ai so
Nhà vua hỏi nguyện vọng
Mộc Lan không muốn làm thượng thư
Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm
Phi về thăm làng xưa
Cha mẹ nghe gái về
Ra đón tận đầu làng
Em gái nghe chị về
Áo hồng bay đỏ đường
Em trai nghe chị về
Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn
Gác đông lại mở cửa
Gác tây lại kê giường
Cởi ngay bộ chiến giáp
Mặc luôn quần áo thường
Trước cửa trải mái tóc
Tô mày đứng trước gương
Ra cửa chào bạn lính
Bạn lính thấy kinh hoàng
Mười hai năm cùng đội
Không biết Mộc Lan gái cải trang
Thỏ cái chân bấy bớt
Thỏ đực mắt mơ mơ
Hai thỏ chung đường chạy
Gái trai tạm đổi không ai ngờ.
Đề Từ Ân tháp – Kinh Thúc
Nước non nhà Hán còn đây,
Tần Lăng cây cỏ chen dày mộ vua.
Chiều mây ngàn dặm thẩn thơ,
Nơi nào chẳng xát chẳng vò dạ ai.
Túc Long Hưng tự – Kỳ Vô Tiềm
Ở chùa, đêm quên về
Điện cổ, thông êm hè
Đèn sáng phòng phương trượng
Châu ngời áo tăng ni
Trời tỏ – tâm thành đạo
Sen xanh – pháp diệu vi
Hoa trời rơi chẳng dứt
Chim ngậm, bay bốn bề
Lã Ôn – Củng lộ cảm hoài
Ngựa hý chiều trắng nắng
Kiếm động thu rộn hơi
Lòng này theo hoang hoải
Bên sông suông ngậm ngùi
Đế kinh thiên – Lạc Tân Vương
Non sông ngàn dặm nước
Chín tầng cửa đế đô
Không xem cung điện lớn
Đâu biết đất nhà vua
Cung điện nhà vua Hào Hàm Cốc
Nội Thuần núi Long chầu bốn phương
Năm sao liền bóng ngời ánh sáng
Tám sông chia dòng chảy vắt ngang.
“Một chống trăm” ải Tần hiểm trở
Ba mươi sáu cung thời Hán hoàng
Điện quế nguy nga đối lầu ngọc
Phòng tiêu mỹ lệ nối nhà vàng.
Ba khu chín ngả đẹp thành dài
Muôn nhà ngàn cửa bừng sớm mai
Lâu đài san sát quán Chi Thước
Đường quan thẳng tới Phượng Hoàng đài.
Tể tướng cung nam tới
Văn quan cửa bắc mời
Tiếng tăm nhất thiên hạ
Văn vật sóng sông trời
Quan võ thềm lan canh
Hồ ngọc hoè rợp chợ
Chim đồng theo gió xoay
Chậu vàng trông móc rỏ.
Gác Thiên Lộc bình văn
Đầm Côn Minh luyện võ
Lầu son chen đài cao
Dinh tướng thông nội ngự
Đài cao, nội ngự cao sừng sững
Mâm vàng, tiệc ngọc gọi chuông rung
Phòng buông rèm lụa ba ngàn hộ
Đường lớn lầu hoa ngó chập trùng
Lọng báu yên thêu vàng nhạc ngựa
Cửa lan cột vẽ ngọc thần rồng
Cột vẽ giường châu tường trắng ánh
Rung vàng lắc ngọc vương hầu đông.
Vương hầu sang trong nhiều cận thần
Sáng chơi mạn bắc chiều dạo nam
Chia vàng mở tiệc vui Lục Giả
Tháo xe lưu bạn nhớ Trần Tuân
Triệu, Lý luôn qua lại
Tiều, Chu kết tình thân.
Tường phượng thành son chiều bóng đổ
Trâu đen, xe hồng, đường bụi đỏ
Hiệp sĩ đạn ngọc rặng liễu buông
Bên đường hái dâu rèm ca nữ
Nhà hát mận đào mọc xum xuê.
Khách chơi giàu sang chật kinh kỳ
Em gái Diên Niên vào điện ngự
Sứ quân áo là ngàn ngựa về
Đồng lòng kết giải lụa
Liền sợi dệt xiêm y
Sớm xuân chén quế thơm trăm vị
Đêm thu đèn lan rạng bốn bề
Màn thắm rèm châu buông lấp loáng
Tiếng đàn giọng hát êm tai nghe
Ví nói “ba vạn sáu ngàn” đúng
Bốn chín tuổi sai nào hay chi.
Xưa nay danh nợi như mây bồng
Đời người hoạ phúc gốc cùng chung
Mới hay Điền, Đậu hiềm thù lớn
Lại nghe Vệ, Hoắc đều có công.
Kim Lăng thế chưa chán
Quách đá đã khắc văn
Cửa son đâu nữa Trương công tử
Bá Đình ai sợ Lý tướng quân
Nhìn nhau trăm năm đều có kỳ
Muôn vật biến hoá nên thay đổi
Phấn son hương sắc đã tiên tan
Yến tiệc Bách Lương giờ ai nói.
Xuân đến xuân đi qua vùn vụt
Tranh danh đoạt lợi chuyện suông trò
Ở lâu Lang Thự sao khó gặp
Quét hoài cửa tướng ai biết cho.
Thuở ấy một sớm khoe hào hoa
Tự cho ngàn năm mãi kiêu sa
Chốc lát gió đông mọc vây cánh
Phút giây bùn đất khác chi mà
Sẻ làm tổ cây quế
Cửa đông đi trồng dưa.
Vàng bạc tan nát, tơ trắng ố
Một sang một hèn tình nghĩa rõ
Má hồng đầu bạc chả bao năm
Cơm lứt áo vải khinh cố nhân.
Cố nhân cũng thăng trầm
Bạn mới không ý khí
Tro bụi thân Hàn An
Lưới giăng cửa Địch uý.
Quá lắm rồi
Về đi thôi
Mã khanh bỏ Thục tài thơ phú
Dương Hùng làm quan ai nâng đỡ
Ba đông tự khoe học đã thành
Mười năm ở yên bao lỡ dở.
Chất củi chuyện Cấp Ảm
Chưa mở gác Tôn Hoằng
Thấy Trường Sa ai tiếc
Riêng phụ tài Lạc Dương.
Vô đề III – Liễu Phú
Sầu thương sóng nước ngắm trăng ngà
Dáng mảnh làn đông giá lạnh tràn
Người đẹp Tiêu Tương giờ ốm bệnh
Gã tài kinh khuyết cũng lang thang
Tằm xuân tới thác tơ vừa hết
Nến sáp thành tro lệ chửa khan
Muôn dặm núi mây không nói tới
Suông nhờ hồn mộng đến Tương giang
Đăng Liễu Châu Nga Sơn – Liễu Tông Nguyên
Núi hoang thu đứng bóng
Một mình ý mông lung
Làm sao ngó làng cũ
Tây bắc là châu Dung
Hạo Sơ thượng nhân kiến di tuyệt cú “Dục đăng tiên nhân sơn” nhân dĩ thù chi – Liễu Tông Nguyên
Óng ánh cây châu cách ráng mây
Ốm đau ngoài tục lắm điều gay
Núi tiên không thuộc người đeo ấn
Gậy tích bay cao tự ý thầy
Nam giản trung đề – Liễu Tông Nguyên
Hơi thu dồn Nam Giản
Một mình dạo giữa ngày
Gió cuốn nghe hiu hắt
Cao thấp cảnh rừng bày
Mới tới như được của
Vào sâu quên mệt ngay
Chim lạ kêu hang thẳm
Sóng rờn rêu lạnh dày
Xa nước hồn vắng quạnh
Nhớ người lệ suông đầy
Sống lẻ dễ cảm xúc
Lỡ vận ít điều may
Quạnh quẽ rồi sao nhỉ
Bâng khuâng lòng tự hay
Ai là người sắp tới
Có cùng nỗi niềm nay
Đề tăng viện – Linh Nhất thiền sư
Hổ Khê trăng lặng tiễn nhau qua
Đọng tuyết cành thông trĩu tiết la
Dằng dặc non xanh đi muốn hết
Trắng mấy chốn thẳm lắm sư già
Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 3 – Lư Như Bật
Tháng tám sương bay liễu nửa vàng
Bồng bay ngang lối nhạn sang nam
Sông trôi đầu Lũng trăng quan ải
Đẫm lệ Long Đôi ngóng cố hương
Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 4 – Lư Như Bật
Gió may thổi tuyết vết đau buốt
Ngựa uống trường thành nước vũng hàn
Giữa tối lửa bùng hay có giặc
Cùng nhau gắng sức giữ non Lan
Nam lâu vọng – Lư Soạn
Lìa nước, hun hút Thục
Lên lầu vạn dặm xuân
Trên sông khách tủi dạ
Quê cũ nào cố nhân
Đồng Tước đài – Lưu Đình Kỳ
Đồng đài cung quán bụi tro vương
Chúa Nguỵ vườn lăng bến nước Chương
Giờ ngó về tây bao xiết nhớ
Nữa người múa hát nghĩ càng thương.
Công tử hành – Lưu Hy Di
Dưới cầu Thiên Tân sông xuân chảy
Trên cầu Thiên Tân khách phồn hoa
Tiếng ngựa hý vang cuốn mây biếc
Sóng nước in bóng người lại qua
Sóng biếc dập dờn ngọc làm cát
Ráng mây làm gấm màu xanh ngát
Đáng thương dương liễu cây đau lòng
Đáng thương đào mận hoa đứt ruột
Ngày nay rong chơi đón giai nhân
Ngày nay ca múa vào nhà hát
Nhà hát bao gái như hoa đẹp
Bên cạnh công tử lại qua luôn
Loang loáng rèm châu ngời ánh rạng
Đong đưa mặt ngọc hồng phấn son
Bâng khuâng lối hoa đôi bươm bướm
Dập dìu bên đồng đôi uyên ương
Nghiêng nước nghiêng thành Hán Vũ Đế
Làm mây làm mưa Sở Tương Vương
Xưa nay nhan sắc ai cũng chuộng
Huống giờ lại thấy môi thắm son
Xin làm lụa mỏng cuốn lưng thon
Xin làm gương sáng soi mặt ngọc
Với chàng cùng trông rồi cùng gần
Với chàng song song thân bên thân
Xin làm thông trinh ngàn thuở cổ
Ai tường bông bụt một sớm xuân
Trăm năm non Tây cùng gác bóng
Muôn đời Bắc Mang cát bụi trần
Bình phiên khúc kỳ 2 – Lưu Trường Khanh
Hoang hoải khói biên trơ
Mênh mang cỏ ải khô
Đầu non nào cần khép
Muôn dặm không ngừa Hồ
Bình phiên khúc kỳ 3 – Lưu Trường Khanh
Đại quân rời sa mạc
Cát dài lính thảnh thơi
Suông trơ đá một phiến
Núi Yên sững muôn đời
Hành dinh thù Lã thị ngự – Lưu Trường Khanh
Hoài Nam nằm đâu dám
Theo tướng Hán xuất chinh
Mệnh trao ngời búa soái
Nén bệnh bái cờ tinh
Áo rách mừng tô nhẹ
Đầu bạc mời nước anh
Nước xuôi trào nát bến
Lửa cháy rợp cô thành
Chiều muộn dàn muôn ngựa
Gió thu hợp năm binh
Khổng Chương vốn tài giỏi
Chớp mắt hịch văn thành
Tống Lý phán quan chi Nhuận Châu hành dinh – Lưu Trường Khanh
Muôn dặm xa nhà mải chiến chinh
Kim Lăng lối trạm Sở mây thênh
Xuân sông chẳng chịu lưu hành khách
Rộn vó câu dài sắc cỏ xanh
Tống Trịnh Duyệt chi Hấp Châu yết Tiết thị lang – Lưu Trường Khanh
Trôi nổi thân ngàn dặm
Ngợi ca rộn trăm thành
Chúa Hán tôn thái thú
Đất Lỗ trọng nho sinh
Tục đổi dân khó trị
Sông xuôi nước trong xanh
Đá ghềnh thuyên lướt vụt
Núi loạn lối thông hành
Già được Bồng Lai thú
Xuân thương bạc tóc tình
Từng nghe Mã Nam quận
Dưới trướng có Khang Thành
Trùng tống Bùi lang trung biếm Cát Châu – Lưu Trường Khanh
Vượn kêu khách tản bến chiều rồi
Người tự đau lòng nước tự trôi
Cùng bọn quan đầy anh quá ngái
Non xanh muôn dặm chiếc thuyền côi
Dữ ca giả Hà Kham – Lưu Vũ Tích
Hai chục năm thừa xa đế kinh
Lại nghe tiên nhạc xiết bao tình
Người xưa chỉ có Hà Kham vậy
Vẫn thấy say sưa hát “Vị thành”
Thoái triều vọng Chung Nam sơn – Lý Chửng
Bãi chầu điện báu sắp hàng loan
Đan Phượng lầu ngưng ngựa ngó ngang
Chỉ có Chung Nam màu núi đậm
Thanh minh vẫn đẹp khắp Trường An
Phụng hoạ thánh chế tòng Bồng Lai hướng Hưng Khánh các, đạo trung lưu xuân vũ trung xuân vọng chi tác ưng chế – Lý Đăng
Biệt quán xuân về khí tốt tươi
Ba cung đường chuyển Phượng Hoàng đài
Mây bay cửa bắc hơi lan tỏa
Mưa tạnh non Nam núi biếc dài
Liễu ngự vẫy theo nghìn trượng lướt
Hoa rừng chẳng đợi sớm ban mai
Đã hay ơn thánh sâu vô hạn
Mừng nỗi thời hoa lắm kẻ tài
Tống Lưu thị lang – Lý Đoan
Mấy ai cùng giống Tạ Tuyên thành
Chưa kịp đền ơn đã “tử sinh”
Chỉ có vượn đêm hay hận khách
Dịch Dương ba tiếng hú đường quanh
Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I) – Lý Ích
Trước núi Hồi Nhạc cát tựa tuyết
Ngoài thành Thụ Hàng trăng như sương
Chẳng hay sáo sậy nơi nào thổi
Một tối chinh nhân thảy ngó làng
Diêm Châu quá Hồ nhi ẩm mã tuyền – Lý Ích
Nước rờn liễu biếc cỏ bồng lơi
Ẩm Mã khe xưa chuyện cũ rồi
Mấy nẻo khèn Hồ ngời bóng thỏ
Nào ai chống kiếm trắng mây trời
Bao phen tuyết ngất đường quan ải
Nay buổi dòng chia sứ Hán xuôi
Chớ để người đi soi mái tóc
Những e héo hắt vẻ xuân tươi
Đề Thái Nguyên Lạc Mạc dịch tây hậu – Lý Ích
Chinh khách tại Tang Càn
Sông Kế dằng dặc hàn
Trạm tây đường quyến luyến
Nay chuyến thẳng Trường An
Thính hiểu giốc – Lý Ích
Đêm qua sương ải động hàng du
Tiếng ốc ngang thành mảnh nguyệt trơ
Núi ngất nhạn hồng không vượt nổi
Gió thu thổi khúc “Tiểu Thiền Vu”
Tòng quân bắc chinh – Lý Ích
Gió Hồ tê tái tuyết Thiên Sơn
Ngang sáo ngân bài “Hành lộ nan”
Biển cát quân đi ba chục vạn
Quay đầu cùng ngó giữa trăng tràn
Trên đây là những bản dịch thơ tác giả khác của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn mà chúng tôi giới thiệu với bạn. Qua đó bạn có thể hiểu thêm về nội dung của tác phẩm cũng như kuynh hướng văn chương mà các tác giả muốn chuyển tải. Bên cạnh đó bạn cũng đừng quên đón đọc Các bản thơ dịch tác giả khác phần 5 mà chúng tôi sẽ giới thiệu nhé!
Theo Thuvientho.com