Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 4)

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 4)

Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 4)

Do chịu ảnh hưởng của bối cảnh xã hội, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã lựa chọn nhiều tác phẩm thơ của các nhà thơ Trung Quốc để làm bản dịch. Tiếp nối Chùm bản thơ dịch tác giả khác phần 3 chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn các bản dịch đặc sắc nhất của Bùi Hạnh Cẩm. Cùng đọc và cảm nhận bạn nhé!

Thu tứ – Hứa Hồn

Gối trúc cây kỳ thu gió lộng

Sông Tương mây Sở nhớ cùng chơi

Ca vang một khúc che gương sáng

Trai trẻ hôm xưa tóc bạc rồi

Mộc Lan Từ – Khuyết danh

Thẫn thờ lại thẫn thờ

Mộc Lan đang dệt lụa

Không nghe tiếng thoi đưa

Chỉ nghe tiếng than thở

Có phải nàng đang mong

Có phải nàng đang nhớ

Nàng chẳng có gì mong

Nàng chẳng có gì nhớ

Đêm qua chiếu ngà vua

Triều đình tuyển quân ngũ

Mười hai quyển sổ quân

Sổ nào cũng tên bố

Nhà sinh gái đầu lòng

Nàng không có anh cả

Đành ngựa gươm xông pha

Thay cha nơi khói lửa

Chợ đông mua ngựa khoẻ

Chợ tây mua yên đai

Chợ nam mua bàn đạp

Chợ bắc mua roi dài

Sớm từ biệt mẹ già

Chiều ngủ trọ sông Hoàng

Không nghe cha mẹ gọi con gái

Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang

Sớm từ biệt cha mẹ

Chiều ngủ sườn non Yên

Không nghe cha mẹ gọi con gái

Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm

Muôn dặm quân dong duổi

Sông núi cách nước mây

Gió bấc động giáo mác

Trăng lạnh áo bào dày

mười năm đánh trăm trận

Tướng quân về nơi đây

Trở về vào điện ngọc

Dâng lời chúc đức vua

Công lao mười lần gấp

Ban thưởng khó ai so

Nhà vua hỏi nguyện vọng

Mộc Lan không muốn làm thượng thư

Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm

Phi về thăm làng xưa

Cha mẹ nghe gái về

Ra đón tận đầu làng

Em gái nghe chị về

Áo hồng bay đỏ đường

Em trai nghe chị về

Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn

Gác đông lại mở cửa

Gác tây lại kê giường

Cởi ngay bộ chiến giáp

Mặc luôn quần áo thường

Trước cửa trải mái tóc

Tô mày đứng trước gương

Ra cửa chào bạn lính

Bạn lính thấy kinh hoàng

Mười hai năm cùng đội

Không biết Mộc Lan gái cải trang

Thỏ cái chân bấy bớt

Thỏ đực mắt mơ mơ

Hai thỏ chung đường chạy

Gái trai tạm đổi không ai ngờ.

Đề Từ Ân tháp – Kinh Thúc

Nước non nhà Hán còn đây,

Tần Lăng cây cỏ chen dày mộ vua.

Chiều mây ngàn dặm thẩn thơ,

Nơi nào chẳng xát chẳng vò dạ ai.

Túc Long Hưng tự – Kỳ Vô Tiềm

Ở chùa, đêm quên về

Điện cổ, thông êm hè

Đèn sáng phòng phương trượng

Châu ngời áo tăng ni

Trời tỏ – tâm thành đạo

Sen xanh – pháp diệu vi

Hoa trời rơi chẳng dứt

Chim ngậm, bay bốn bề

Lã Ôn – Củng lộ cảm hoài

Ngựa hý chiều trắng nắng

Kiếm động thu rộn hơi

Lòng này theo hoang hoải

Bên sông suông ngậm ngùi

Đế kinh thiên – Lạc Tân Vương

Non sông ngàn dặm nước

Chín tầng cửa đế đô

Không xem cung điện lớn

Đâu biết đất nhà vua

Cung điện nhà vua Hào Hàm Cốc

Nội Thuần núi Long chầu bốn phương

Năm sao liền bóng ngời ánh sáng

Tám sông chia dòng chảy vắt ngang.

“Một chống trăm” ải Tần hiểm trở

Ba mươi sáu cung thời Hán hoàng

Điện quế nguy nga đối lầu ngọc

Phòng tiêu mỹ lệ nối nhà vàng.

Ba khu chín ngả đẹp thành dài

Muôn nhà ngàn cửa bừng sớm mai

Lâu đài san sát quán Chi Thước

Đường quan thẳng tới Phượng Hoàng đài.

Tể tướng cung nam tới

Văn quan cửa bắc mời

Tiếng tăm nhất thiên hạ

Văn vật sóng sông trời

Quan võ thềm lan canh

Hồ ngọc hoè rợp chợ

Chim đồng theo gió xoay

Chậu vàng trông móc rỏ.

Gác Thiên Lộc bình văn

Đầm Côn Minh luyện võ

Lầu son chen đài cao

Dinh tướng thông nội ngự

Đài cao, nội ngự cao sừng sững

Mâm vàng, tiệc ngọc gọi chuông rung

Phòng buông rèm lụa ba ngàn hộ

Đường lớn lầu hoa ngó chập trùng

Lọng báu yên thêu vàng nhạc ngựa

Cửa lan cột vẽ ngọc thần rồng

Cột vẽ giường châu tường trắng ánh

Rung vàng lắc ngọc vương hầu đông.

Vương hầu sang trong nhiều cận thần

Sáng chơi mạn bắc chiều dạo nam

Chia vàng mở tiệc vui Lục Giả

Tháo xe lưu bạn nhớ Trần Tuân

Triệu, Lý luôn qua lại

Tiều, Chu kết tình thân.

Tường phượng thành son chiều bóng đổ

Trâu đen, xe hồng, đường bụi đỏ

Hiệp sĩ đạn ngọc rặng liễu buông

Bên đường hái dâu rèm ca nữ

Nhà hát mận đào mọc xum xuê.

Khách chơi giàu sang chật kinh kỳ

Em gái Diên Niên vào điện ngự

Sứ quân áo là ngàn ngựa về

Đồng lòng kết giải lụa

Liền sợi dệt xiêm y

Sớm xuân chén quế thơm trăm vị

Đêm thu đèn lan rạng bốn bề

Màn thắm rèm châu buông lấp loáng

Tiếng đàn giọng hát êm tai nghe

Ví nói “ba vạn sáu ngàn” đúng

Bốn chín tuổi sai nào hay chi.

Xưa nay danh nợi như mây bồng

Đời người hoạ phúc gốc cùng chung

Mới hay Điền, Đậu hiềm thù lớn

Lại nghe Vệ, Hoắc đều có công.

Kim Lăng thế chưa chán

Quách đá đã khắc văn

Cửa son đâu nữa Trương công tử

Bá Đình ai sợ Lý tướng quân

Nhìn nhau trăm năm đều có kỳ

Muôn vật biến hoá nên thay đổi

Phấn son hương sắc đã tiên tan

Yến tiệc Bách Lương giờ ai nói.

Xuân đến xuân đi qua vùn vụt

Tranh danh đoạt lợi chuyện suông trò

Ở lâu Lang Thự sao khó gặp

Quét hoài cửa tướng ai biết cho.

Thuở ấy một sớm khoe hào hoa

Tự cho ngàn năm mãi kiêu sa

Chốc lát gió đông mọc vây cánh

Phút giây bùn đất khác chi mà

Sẻ làm tổ cây quế

Cửa đông đi trồng dưa.

Vàng bạc tan nát, tơ trắng ố

Một sang một hèn tình nghĩa rõ

Má hồng đầu bạc chả bao năm

Cơm lứt áo vải khinh cố nhân.

Cố nhân cũng thăng trầm

Bạn mới không ý khí

Tro bụi thân Hàn An

Lưới giăng cửa Địch uý.

Quá lắm rồi

Về đi thôi

Mã khanh bỏ Thục tài thơ phú

Dương Hùng làm quan ai nâng đỡ

Ba đông tự khoe học đã thành

Mười năm ở yên bao lỡ dở.

Chất củi chuyện Cấp Ảm

Chưa mở gác Tôn Hoằng

Thấy Trường Sa ai tiếc

Riêng phụ tài Lạc Dương.

Vô đề III – Liễu Phú

Sầu thương sóng nước ngắm trăng ngà

Dáng mảnh làn đông giá lạnh tràn

Người đẹp Tiêu Tương giờ ốm bệnh

Gã tài kinh khuyết cũng lang thang

Tằm xuân tới thác tơ vừa hết

Nến sáp thành tro lệ chửa khan

Muôn dặm núi mây không nói tới

Suông nhờ hồn mộng đến Tương giang

Đăng Liễu Châu Nga Sơn – Liễu Tông Nguyên

Núi hoang thu đứng bóng

Một mình ý mông lung

Làm sao ngó làng cũ

Tây bắc là châu Dung

Hạo Sơ thượng nhân kiến di tuyệt cú “Dục đăng tiên nhân sơn” nhân dĩ thù chi – Liễu Tông Nguyên

Óng ánh cây châu cách ráng mây

Ốm đau ngoài tục lắm điều gay

Núi tiên không thuộc người đeo ấn

Gậy tích bay cao tự ý thầy

Nam giản trung đề – Liễu Tông Nguyên

Hơi thu dồn Nam Giản

Một mình dạo giữa ngày

Gió cuốn nghe hiu hắt

Cao thấp cảnh rừng bày

Mới tới như được của

Vào sâu quên mệt ngay

Chim lạ kêu hang thẳm

Sóng rờn rêu lạnh dày

Xa nước hồn vắng quạnh

Nhớ người lệ suông đầy

Sống lẻ dễ cảm xúc

Lỡ vận ít điều may

Quạnh quẽ rồi sao nhỉ

Bâng khuâng lòng tự hay

Ai là người sắp tới

Có cùng nỗi niềm nay

Đề tăng viện – Linh Nhất thiền sư

Hổ Khê trăng lặng tiễn nhau qua

Đọng tuyết cành thông trĩu tiết la

Dằng dặc non xanh đi muốn hết

Trắng mấy chốn thẳm lắm sư già

Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 3 – Lư Như Bật

Tháng tám sương bay liễu nửa vàng

Bồng bay ngang lối nhạn sang nam

Sông trôi đầu Lũng trăng quan ải

Đẫm lệ Long Đôi ngóng cố hương

Hoạ Lý tú tài “Biên đình tứ thì oán” kỳ 4 – Lư Như Bật

Gió may thổi tuyết vết đau buốt

Ngựa uống trường thành nước vũng hàn

Giữa tối lửa bùng hay có giặc

Cùng nhau gắng sức giữ non Lan

Nam lâu vọng – Lư Soạn

Lìa nước, hun hút Thục

Lên lầu vạn dặm xuân

Trên sông khách tủi dạ

Quê cũ nào cố nhân

Đồng Tước đài – Lưu Đình Kỳ

Đồng đài cung quán bụi tro vương

Chúa Nguỵ vườn lăng bến nước Chương

Giờ ngó về tây bao xiết nhớ

Nữa người múa hát nghĩ càng thương.

Công tử hành – Lưu Hy Di

Dưới cầu Thiên Tân sông xuân chảy

Trên cầu Thiên Tân khách phồn hoa

Tiếng ngựa hý vang cuốn mây biếc

Sóng nước in bóng người lại qua

Sóng biếc dập dờn ngọc làm cát

Ráng mây làm gấm màu xanh ngát

Đáng thương dương liễu cây đau lòng

Đáng thương đào mận hoa đứt ruột

Ngày nay rong chơi đón giai nhân

Ngày nay ca múa vào nhà hát

Nhà hát bao gái như hoa đẹp

Bên cạnh công tử lại qua luôn

Loang loáng rèm châu ngời ánh rạng

Đong đưa mặt ngọc hồng phấn son

Bâng khuâng lối hoa đôi bươm bướm

Dập dìu bên đồng đôi uyên ương

Nghiêng nước nghiêng thành Hán Vũ Đế

Làm mây làm mưa Sở Tương Vương

Xưa nay nhan sắc ai cũng chuộng

Huống giờ lại thấy môi thắm son

Xin làm lụa mỏng cuốn lưng thon

Xin làm gương sáng soi mặt ngọc

Với chàng cùng trông rồi cùng gần

Với chàng song song thân bên thân

Xin làm thông trinh ngàn thuở cổ

Ai tường bông bụt một sớm xuân

Trăm năm non Tây cùng gác bóng

Muôn đời Bắc Mang cát bụi trần

Bình phiên khúc kỳ 2 – Lưu Trường Khanh

Hoang hoải khói biên trơ

Mênh mang cỏ ải khô

Đầu non nào cần khép

Muôn dặm không ngừa Hồ

Bình phiên khúc kỳ 3 – Lưu Trường Khanh

Đại quân rời sa mạc

Cát dài lính thảnh thơi

Suông trơ đá một phiến

Núi Yên sững muôn đời

Hành dinh thù Lã thị ngự – Lưu Trường Khanh

Hoài Nam nằm đâu dám

Theo tướng Hán xuất chinh

Mệnh trao ngời búa soái

Nén bệnh bái cờ tinh

Áo rách mừng tô nhẹ

Đầu bạc mời nước anh

Nước xuôi trào nát bến

Lửa cháy rợp cô thành

Chiều muộn dàn muôn ngựa

Gió thu hợp năm binh

Khổng Chương vốn tài giỏi

Chớp mắt hịch văn thành

Tống Lý phán quan chi Nhuận Châu hành dinh – Lưu Trường Khanh

Muôn dặm xa nhà mải chiến chinh

Kim Lăng lối trạm Sở mây thênh

Xuân sông chẳng chịu lưu hành khách

Rộn vó câu dài sắc cỏ xanh

Tống Trịnh Duyệt chi Hấp Châu yết Tiết thị lang – Lưu Trường Khanh

Trôi nổi thân ngàn dặm

Ngợi ca rộn trăm thành

Chúa Hán tôn thái thú

Đất Lỗ trọng nho sinh

Tục đổi dân khó trị

Sông xuôi nước trong xanh

Đá ghềnh thuyên lướt vụt

Núi loạn lối thông hành

Già được Bồng Lai thú

Xuân thương bạc tóc tình

Từng nghe Mã Nam quận

Dưới trướng có Khang Thành

Trùng tống Bùi lang trung biếm Cát Châu – Lưu Trường Khanh

Vượn kêu khách tản bến chiều rồi

Người tự đau lòng nước tự trôi

Cùng bọn quan đầy anh quá ngái

Non xanh muôn dặm chiếc thuyền côi

Dữ ca giả Hà Kham – Lưu Vũ Tích

Hai chục năm thừa xa đế kinh

Lại nghe tiên nhạc xiết bao tình

Người xưa chỉ có Hà Kham vậy

Vẫn thấy say sưa hát “Vị thành”

Thoái triều vọng Chung Nam sơn – Lý Chửng

Bãi chầu điện báu sắp hàng loan

Đan Phượng lầu ngưng ngựa ngó ngang

Chỉ có Chung Nam màu núi đậm

Thanh minh vẫn đẹp khắp Trường An

Phụng hoạ thánh chế tòng Bồng Lai hướng Hưng Khánh các, đạo trung lưu xuân vũ trung xuân vọng chi tác ưng chế – Lý Đăng

Biệt quán xuân về khí tốt tươi

Ba cung đường chuyển Phượng Hoàng đài

Mây bay cửa bắc hơi lan tỏa

Mưa tạnh non Nam núi biếc dài

Liễu ngự vẫy theo nghìn trượng lướt

Hoa rừng chẳng đợi sớm ban mai

Đã hay ơn thánh sâu vô hạn

Mừng nỗi thời hoa lắm kẻ tài

Tống Lưu thị lang – Lý Đoan

Mấy ai cùng giống Tạ Tuyên thành

Chưa kịp đền ơn đã “tử sinh”

Chỉ có vượn đêm hay hận khách

Dịch Dương ba tiếng hú đường quanh

Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I) – Lý Ích

Trước núi Hồi Nhạc cát tựa tuyết

Ngoài thành Thụ Hàng trăng như sương

Chẳng hay sáo sậy nơi nào thổi

Một tối chinh nhân thảy ngó làng

Diêm Châu quá Hồ nhi ẩm mã tuyền – Lý Ích

Nước rờn liễu biếc cỏ bồng lơi

Ẩm Mã khe xưa chuyện cũ rồi

Mấy nẻo khèn Hồ ngời bóng thỏ

Nào ai chống kiếm trắng mây trời

Bao phen tuyết ngất đường quan ải

Nay buổi dòng chia sứ Hán xuôi

Chớ để người đi soi mái tóc

Những e héo hắt vẻ xuân tươi

Đề Thái Nguyên Lạc Mạc dịch tây hậu – Lý Ích

Chinh khách tại Tang Càn

Sông Kế dằng dặc hàn

Trạm tây đường quyến luyến

Nay chuyến thẳng Trường An

Thính hiểu giốc – Lý Ích

Đêm qua sương ải động hàng du

Tiếng ốc ngang thành mảnh nguyệt trơ

Núi ngất nhạn hồng không vượt nổi

Gió thu thổi khúc “Tiểu Thiền Vu”

Tòng quân bắc chinh – Lý Ích

Gió Hồ tê tái tuyết Thiên Sơn

Ngang sáo ngân bài “Hành lộ nan”

Biển cát quân đi ba chục vạn

Quay đầu cùng ngó giữa trăng tràn

Trên đây là những bản dịch thơ tác giả khác của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn mà chúng tôi giới thiệu với bạn. Qua đó bạn có thể hiểu thêm về nội dung của tác phẩm cũng như kuynh hướng văn chương mà các tác giả muốn chuyển tải. Bên cạnh đó bạn cũng đừng quên đón đọc Các bản thơ dịch tác giả khác phần 5 mà chúng tôi sẽ giới thiệu nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …