Nhà thơ Hồ Chí Minh (1890 – 1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành quê ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Trong những năm tháng hoạt động ở nước ngoài có lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Người sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo có cha là Nguyễn Sinh Sắc từng đỗ chức phó bẳng và sau này bị cát chức vởi chống đối bọn quan trên và thực dân Pháp. Mẹ ông là bà Hoàng Thị Loan là con gái của một nhà Nho làm nghề dạy học.
Tiểu sử nhà thơ Hồ Chí Minh
Tên lúc nhỏ của Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Sinh Cung tự là Tấy Thành. Tuy nhiên cũng có một số tài liệu ghi là Nguyễn Sinh Côn. Người được sinh ra ở quên ngoại ở làng Hoàng Trù và sống ở đây cho đến năm 1895. Còn quê nội là làng Kim Liên. Cha là Nguyễn Sinh Sắc từng đỗ chức Phó bảng, còn mẹ là Hoàng Thị Loan. Trong gia đình còn có thêm chị Nguyễn Thị Thanh, anh Nguyễn Sinh Khiêm và một em trai mất từ khi nhỏ là Nguyễn Sinh Nhuận.
Tuổi ấu thơ
Khi còn nhỏ sau khi cùng gia đình vào Huế lần đầu thì tới năm 1901 trỏ lại quê nhà. Đó là thời điểm sau khi mẹ mất và đó cũng là lúc sử dụng tên gọi là Nguyễn Tất Thành. sAu này đến năm 1906 đã theo cha vào Huế lần 2 và theo học ở trường Pháp Việt Đông Ba. Lúc ấy cũng là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường Pháp Việt Đông Ba.
Sau khi vào lớp đệ nhị của trường Quốc học Huế thì bị đuổi vào cuối thàng 5 năm 1908. Sở dĩ có điều này là do tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Sự kiện này làm người cha bị triều đình khiển trách vì hành vi của hai con trai và hai anh em bị giám sát chặt chẽ. Để tránh sự kiểm soát cha đã quyết định vào miền Nam.
Đến năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết tại đây dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp 3 và tư tại trường Dục Thanh. Tại đây người đã gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời. Và tham gia công tác bí mật với chí hướng đuổi Pháp và giải phóng đồng bào. Tuy nhiên người không tán thành cách làm của các nhà yêu nước lúc bấy giờ. Đến tháng 2 năm 1911 người nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây học 3 tháng và quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Hoạt động ở nước ngoài
Khi đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba lên tàu sang phương Tây. Đó cũng chính là hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của người. Người lúc ấy đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lê nin và có nghiên cứu phong trào cách mạng tháng 10 Nga. Người cũng tích cực hoạt động.
Trong thời gian đó, NGuyễn Tất Thành cũng gặp không ít khó khăn và cũng có thời gian bị bắt tù.Trong suốt những năm hoạt động ở nước ngoài, người đã đi nhiều nước, gặp gỡ nhiều người và có sự chuẩn bị rất lớn cho cách mạng Việt Nam.
Trở về nước hoạt động cách mạng
Đến năm 1941, người trở về nước và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941. Tại đây người đã sử dụng tên gọi mới là Hồ Chí Minh. Sau đó ít lâu khi liên lạc với lực lượng cách mạng, người đã bị chính quyền Tưởng giới Thạch bắt giam và di chuyển qua gần 30 nhà lao. Đó cũng chính là lúc người viết tập Nhật ký trong tù nổi tiếng.
Sau này người cũng đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Và cũng có thể nói rằng, cả cuộc đời của người đã dành cho các hoạt động cách mạng. Điều này cũng làm sáng ngời lên nhân cách tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng và trong số đó phải kể tới thơ chữ hán, Nhật ký trong tù, Thơ tiếng Việt. Và dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn hai tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của thơ Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là hai tác phẩm gắn liền với sự nghiệp cách mạng của người.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Tuyên ngôn độc lập
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Trên đây là các thông tin cơ bản nhất về nhà thơ Hồ Chí Minh. Qua các thông tin này ta cũng sẽ hiểu thêm được bối cảnh của những sáng tác của người. Thêm vào đó chúng tôi cũng đã cung cấp cho bạn hai tác phẩm nổi tiếng và gây được tiếng vang lớn nhất ở thời điểm đó và cả bây giờ. Hy vọng qua bài viết này bạn đã có được những thông tin hữu ích về tác gia nổi tiếng này.
Theo Thuvientho.com