Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần 2

Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần 2

Nhà thơ Hồ Chí Minh và Tập thơ Nhật ký trong tù Phần 2

Tập thơ Nhật ký trong tù của nhà thơ Hồ Chí Minh không chỉ ghi lại những cảnh sinh hoạt trong nhà tù. Mà nó còn có ý nghĩa tố cáo chính quyền Tưởng Giới Thạch. Để tránh những rắc rối đối với chính quyền này, Hồ Chí Minh đã viết chệch thời gian đi 10 năm “29/8/1932 – 10/9/1933”. Tuy nhiên khi đến cuối tập nhà thơ đã dùng một thứ chữ để ghi lại chính xác thời gian sáng tác của mình. Hãy cùng tìm hiểu các bài thơ hay đặc sắc trong tập thơ này bạn nhé!

Dã cảnh

野景

我來之時禾尚青,

現在秋收半已成。

處處農民顏帶笑,

田間充滿唱歌聲。

Dã cảnh

Ngã lai chi thì hoà thượng thanh,

Hiện tại thu thu bán dĩ thành.

Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu,

Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Dịch nghĩa

Lúc ta đến lúa còn xanh,

Nay vụ gặt đã xong một nửa;

Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở,

Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát.

Chúc than

粥攤

路旁樹影涼陰下,

一椽茅蘆是酒樓。

冷粥白鹽供食譜,

行人過此暫停留。

Chúc than

Lộ bàng thụ ảnh lương âm hạ,

Nhất chuyến mao lư thị “tửu lâu”.

Lãnh chúc bạch diêm cung thực phổ,

Hành nhân quá thử tạm đình lưu.

Dịch nghĩa

Dưới bóng cây râm mát bên đường,

Một túp lều tranh: ấy là “tiệm rượu”;

Cháo nguội và muối trắng làm thành thực đơn,

Khách đi đường qua đây tạm dừng nghỉ.

Quả Đức ngục

果德獄

監房也是小家庭,

柴米油鹽自己營。

每個籠前一個灶,

成天煮飯與調羹。

Quả Đức ngục

Giam phòng dã thị tiểu gia đình,

Sài mễ du diêm tự kỷ doanh.

Mỗi cá lung tiền nhất cá táo,

Thành thiên chử phạn dữ điều canh.

Dịch nghĩa

Phòng giam cũng là một gia đình nhỏ,

Gạo, củi, dầu, muối, đều tự mình lo sắm;

Trước mỗi phòng giam là một bếp,

Suốt ngày thổi cơm và nấu canh.

Long An Lưu Sở trưởng

隆安劉所長

辯事認真劉所長,

人人讚誦你公平。

文錢粒米都公布,

乾凈囚籠好衛生。

Long An Lưu Sở trưởng

Biện sự nhận chân Lưu Sở trưởng

Nhân nhân tán tụng nhĩ công bình

Văn tiền lạp mễ đô công bố

Can tịnh tù lung hảo vệ sinh.

Dịch nghĩa

Sở trưởng họ Lưu giải quyết công việc thận trọng, đúng đắn,

Mọi người đều khen ông công bằng;

Đồng tiền, hạt gạo đều công bố,

Nhà lao sạch sẽ hợp vệ sinh.

Tảo giải

早解

一次雞啼夜未闌,

群星擁月上秋山。

征人已在征途上,

迎面秋風陣陣寒。

東方白色已成紅,

幽暗殘餘早一空。

暖氣包羅全宇宙,

行人詩興忽加濃。

Tảo giải

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,

Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san.

Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,

Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,

U ám tàn dư tảo nhất không.

Noãn khí bao la toàn vũ trụ,

Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Dịch nghĩa

Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,

Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;

Người đi xa đã cất bước trên đường xa,

Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.

Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,

Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;

Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,

Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

Đồng Chính (thập nhất nguyệt nhị nhật)

同正(十一月二日)

同正正同平馬獄,

每餐一粥肚空空。

水和光線彶充足,

每日還開兩次籠。

Đồng Chính (thập nhất nguyệt nhị nhật)

Đồng Chính chính đồng Bình Mã ngục,

Mỗi xan nhất chúc đỗ không không.

Thuỷ hoà quang tuyến hân sung túc,

Mỗi nhật hoàn khai lưỡng thứ lung.

Dịch nghĩa

Nhà lao Đồng Chính giống hệt nhà lao Bình Mã,

Mỗi bữa một bát cháo, bụng thường rỗng không.

Nước và ánh sáng thì đầy đủ,

Mỗi ngày còn hai lần mở cửa buồng giam.

Nạn hữu đích chỉ bị

難友的紙被

舊卷新書相補綴,

紙氈猶煖過無氈。

玉床錦帳人知否,

獄裡許多人不眠。

Nạn hữu đích chỉ bị

Cựu quyển tân thư tương bổ xuyết,

Chỉ chiên do noãn quá vô chiên.

Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri phủ,

Xem thêm:  Cố gắng vì nhau - Mạc Phương

Ngục lý hứa đa nhân bất miên?

Dịch nghĩa

Quyển cũ, sách mới cùng bồi chắp lại,

Chăn giấy còn ấm hơn không có chăn;

Người trên giường ngọc trướng gấm có biết chăng,

Trong ngục bao nhiêu người không ngủ?

Dạ lãnh

夜冷

秋深無褥亦無氈,

縮脛弓腰不可眠。

月照庭蕉增冷氣,

窺窗北斗已橫天。

Dạ lãnh

Thu thâm vô nhục diệc vô chiên,

Súc hĩnh cung yêu bất khả miên.

Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,

Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.

Dịch nghĩa

Đêm cuối thu không đệm cũng không chăn,

Nằm co cẳng cong lưng vẫn không ngủ được;

Trăng soi khóm chuối trước sân càng tăng thêm khí lạnh,

Nhòm qua cửa sổ, sao Bắc Đẩu đã ngang trời.

Bang

脛臂長龍環繞著,

宛如外國武勳官。

勳官的是金緦線,

我的麻繩一大端。

Bang

Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước,

Uyển như ngoại quốc vũ huân quan.

Huân quan đích thị kim ti tuyến,

Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Dịch nghĩa

Rồng dài quấn quanh cẳng chân và cánh tay,

Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài.

Dây tua quan võ là tơ kim tuyến,

Còn của ta là một sợi thừng gai lớn

Lạc liễu nhất chích nha

落了一隻牙

你的心情硬且剛,

不如老舌軟而長。

從來與你同甘苦,

現在東西各一方。

Lạc liễu nhất chích nha

Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương,

Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường.

Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ,

Hiện tại đông tây các nhất phương.

Dịch nghĩa

Tính tình anh rắn rỏi và kiên cường,

Chẳng mềm và dài như lão lưỡi;

Trước nay vẫn cùng anh chung ngọt bùi, cay đắng,

Bây giờ phải xa nhau, người một phương.

Long An – Đồng Chính

隆安同正

此間土地廣而貧,

所以人民儉且勤。

聽說今春逢大旱,

十分收穫兩三分。

Long An – Đồng Chính

Thử gian thổ địa quảng nhi bần

Sở dĩ nhân dân kiệm thả cần

Thính thuyết kim xuân phùng đại hạn

Thập phân thu hoạch lưỡng tam phân.

Dịch nghĩa

Vùng này ruộng đất rộng nhưng cằn cỗi,

Vì thế nhân dân tiết kiệm và siêng năng;

Nghe nói mùa xuân năm nay gặp đại hạn,

Mười phần chỉ thu hoạch được vài ba phần.

Nhai thượng

街上

街上人爭看漢奸,

漢奸與我本無干。

無干仍是嫌疑犯,

使我心中覺點寒。

Nhai thượng

Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian,

Hán gian dữ ngã bản vô can.

Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm,

Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.

Dịch nghĩa

Trên đường phố mọi người tranh nhau xem Hán gian,

Hán gian vốn chẳng liên can gì với ta;

Nhưng không liên can mà vẫn là người tù bị tình nghi,

Khiến lòng ta cảm thấy có chút ghê lạnh.

Lộ thượng

路上

脛臂雖然被緊綁,

滿山鳥語與花香。

自由覽賞無人禁,

賴此征途減寂涼。

Lộ thượng

Hĩnh tí tuy nhiên bị khẩn bang

Mãn sơn điểu ngữ dữ hoa hương

Tự do lãm thưởng vô nhân cấm

Lại thử chinh đồ giảm tịch lương.

Dịch nghĩa

Mặc dù chân tay bị trói chặt,

Nhưng đầy núi chim hót và hoa thơm;

Tự do thưởng ngoạn, không ai cấm được,

Nhờ thế, đường xa cũng bớt quạnh hiu.

Trưng binh gia quyến

徵兵家眷

郎君一去不回頭,

使妾閨中獨抱愁。

當局可憐余寂寞,

請余來暫住牢囚。

Trưng binh gia quyến

Lang quân nhất khứ bất hồi đầu

Sử thiếp khuê trung độc bão sầu

Đương cục khả liên dư tịch mịch

Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.

Dịch nghĩa

Chàng ra đi không trở về,

Để thiếp chốn buồng the một mình ôm sầu;

Nhà đương cục ý hẳn thương thiếp cô quạnh,

Nên mời thiếp đến ở tạm nhà tù.

Giải trào

解嘲

吃公家飯住公房,

軍警輪班去護從。

玩水遊山隨所適,

男兒到此亦豪雄。

Giải trào

Ngật công gai phạn trú công phòng

Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng

Ngoạn thủy du sơn tùy sở thích

Nam nhi đáo thử diệc hào hùng!

Dịch nghĩa

Ăn cơm nhà nước, ở nhà công,

Lính quân cảnh thay phiên nhau đi hộ vệ;

Dạo núi chơi sông tuỳ ý thích,

Làm trai đến thế cũng hào hùng!

Xem thêm:  Bài thơ Đông về man mác buồn – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Vãng Nam Ninh

往南寧

銕繩硬替麻繩軟,

步步叮噹環珮聲。

雖是嫌疑間諜犯,

儀容卻像舊公卿。

Vãng Nam Ninh

Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn,

Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh.

Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm,

Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Dịch nghĩa

Xích sắt cứng đã thay thừng gai mềm,

Bước mỗi bước leng keng như tiếng ngọc;

Tuy là người tù bị tình nghi gián điệp,

Nhưng bộ dạng lại giống vị công khanh ngày trước.

Cảnh binh đảm trư đồng hành

警兵擔豬同行

警士擔豬同路走,

豬由人擔我人牽。

人而反賤於豬仔,

因為人無自主權。

世上千辛和萬苦,

莫如失卻自由權。

一言一動不自主,

如牛如馬任人牽。

Cảnh binh đảm trư đồng hành

Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu,

Trư do nhân đảm ngã nhân khiên.

Nhân nhi phản tiện ư trư tử,

Nhân vị nhân vô tự chủ quyền.

Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ,

Mạc như thất khước tự do quyền.

Nhất ngôn nhất động bất tự chủ,

Như ngưu như mã nhậm nhân khiên

Dịch nghĩa

Cảnh binh khiêng lợn đi cùng đường,

Lợn thì người khiêng, ta người dắt;

Người lại bị coi rẻ hơn lợn,

Chỉ vì người không có quyền tự chủ.

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,

Không gì cay đắng bằng mất quyền tự do;

Mỗi lời nói, mỗi hành động đều không được tự chủ,

Mặc cho người dắt như trâu, như ngựa.

Điệt lạc

跌洛

夜仍黑暗已登程,

路又崎嶇甚不平。

跌入深坑危險甚,

幸能躍出了深坑。

Điệt lạc

Dạ nhưng hắc ám dĩ đăng trình,

Lộ hựu kỳ khu thậm bất bình.

Điệt nhập thâm khanh nguy hiểm thậm,

Hạnh năng dược xuất liễu thâm khanh

Dịch nghĩa

Đêm còn tối mịt đã phải lên đường,

Đường lại gồ ghề, không chút bằng phẳng;

Hụt chân thụt xuống hố sâu, nguy hiểm quá,

May sao đã nhảy được ra khỏi hố.

Bán lộ đáp thuyền phó Ung

半路搭船赴邕

乘舟順水往邕寧,

脛吊船欄似絞刑。

兩岸鄉村稠密甚,

江心漁父釣船輕。

Bán lộ đáp thuyền phó Ung

Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh

Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình

Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm

Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

Dịch nghĩa

Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,

Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ;

Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,

Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lướt nhẹ.

Nam Ninh ngục

南寧獄

監房建築頂摩登,

澈夜輝煌照電燈。

因為每餐惟有粥,

使人肚子戰兢兢。

Nam Ninh ngục

Giam phòng kiến trúc đính “ma-đăng”,

Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng.

Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc,

Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.

Dịch nghĩa

Nhà lao xây dựng rất “môđéc”,

Suốt đêm đèn điện sáng rực;

Nhưng vì bữa ăn nào cũng chỉ có cháo,

Khiến cho bụng người ta cứ run bần bật.

Nạp muộn

納悶

環球戰火鑠蒼天,

壯士相爭赴陣前。

獄裡閑人閑要命,

雄心不值一文錢。

Nạp muộn

Hoàn cầu chiến hoả thước thương thiên,

Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.

Ngục lý nhàn nhân nhàn chiếu mệnh,

Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.

Dịch nghĩa

Lửa chiến tranh trên hoàn cầu nóng chảy cả trời xanh,

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận;

Trong tù, người nhàn lại nhàn quá đỗi,

Chí lớn mà không đáng giá một đồng tiền.

Thính kê minh

聽雞鳴

你只平常一隻雞,

朝朝報曉大聲啼。

一聲喚醒群黎夢,

你的功勞也不低。

Thính kê minh

Nhĩ chỉ bình thường nhất chích kê,

Triêu triêu báo hiểu đại thanh đề.

Nhất thanh hoán tỉnh quần lê mộng,

Nhĩ đích công lao dã bất đê.

Dịch nghĩa

Ngươi chỉ là một chú gà bình thường,

Mỗi sớm, lớn tiếng gáy để báo sáng;

Một tiếng thôi mà gọi tỉnh giấc mộng của dân chúng,

Công lao ngươi chẳng phải là xoàng.

Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu

一個賭犯硬了

他身只有骨包皮,

痛苦飢寒不可支。

昨夜他仍睡我側,

今朝他已九泉歸。

Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu

Tha thân chi hữu cốt bao bì,

Thống khổ cơ hàn bất khả chi.

Tạc dạ tha nhưng thuỵ ngã trắc,

Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.

Dịch nghĩa

Thân hình anh ấy chỉ còn da bọc xương,

Xem thêm:  Câu nói hay về tình yêu vợ chồng sâu nặng nghĩa tình

Khổ đau, đói rét, không chống đỡ nổi;

Đêm qua anh còn nằm ngủ cạnh tôi,

Sáng nay đã về chín suối.

Hựu nhất cá

又一個

夷齊不食周朝粟,

賭犯不吃公家粥。

夷齊餓死首陽山,

賭犯餓死公家獄。

Hựu nhất cá

Di, Tề bất thực Chu triều túc,

Đổ phạm bất ngật công gia chúc.

Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn,

Đổ phạm ngã tử công gia ngục

Dịch nghĩa

Bá Di, Thúc Tề không ăn thóc nhà Chu,

Người tù cờ bạc không ăn cháo nhà nước;

Bá Di, Thúc Tề chết đói trên núi Thú Dương,

Người tù cờ bạc chết đói trong ngục nhà nước.

Cấm yên (Chỉ yên đích)

禁煙(紙煙的)

煙禁此間很厲害,

你煙繳入他煙包。

當然他可吹煙斗,

你若吹煙罰手鐐。

Cấm yên (Chỉ yên đích)

Yên cấm thử gian hẩn lệ hại,

Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao;

Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu,

Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.

Dịch nghĩa

Ở đây lệnh cấm hút thuốc rất gắt gao,

Thuốc của anh phải nộp vào túi thuốc của nó;

Đương nhiên, nó có thể hút thuốc bằng tẩu,

Nhưng nếu anh hút, bị phạt còng tay.

Dạ bán văn khốc phu

夜半聞哭夫

嗚呼夫君兮夫君,

何故夫君遽棄塵。

使妾從今何處見,

十分心合意投人。

Dạ bán văn khốc phu

Ô hô phu quân, hề phu quân!

Hà cố phu quân cự khí trần?

Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,

Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.

Dịch nghĩa

Than ôi! Chàng hỡi chàng!

Cớ sao chàng vội lìa bỏ cõi đời?

Khiến cho thiếp từ nay biết tìm đâu thấy,

Người bạn đời mười phần tâm đầu ý hợp!

Hoàng hôn

黃昏

風如利劍磨山石,

寒似尖鋒刺樹枝。

遠寺鐘聲催客步,

牧童吹笛引牛歸。

Hoàng hôn

Phong như lợi kiếm ma sơn thạch,

Hàn tự tiêm phong thích thụ chi;

Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,

Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.

Dịch nghĩa

Gió như gươm sắc mài đá núi,

Rét như giáo nhọn chích cành cây;

Tiếng chuông chùa xa giục bước chân khách,

Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về.

Công kim

工金

煮一鍋飯六毛錢,

一盆開水銀一元。

一元買物得六角,

獄中价格定昭然。

Công kim

Chử nhất oa phạn lục mao tiền,

Nhất bồn khai thuỷ ngân nhất nguyên;

Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,

Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.

Dịch nghĩa

Thổi một nồi cơm phải sáu hào,

Một chậu nước sôi một đồng bạc;

Một đồng mua hàng chỉ đáng giá sáu hào,

Giá cả trong tù định rõ như thế!

Thuỵ bất trước

睡不著

一更二更又三更,

輾轉徘徊睡不成。

四五更時才合眼,

夢魂環繞五尖星。

Thuỵ bất trước

Nhất canh… nhị canh… hựu tam canh,

Triển chuyển, bồi hồi, thuỵ bất thành;

Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,

Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.

Dịch nghĩa

Canh một… canh hai… lại canh ba,

Trằn trọc băn khoăn không ngủ được;

Canh tư, canh năm vừa chợp mắt,

Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm cánh.

Ức hữu

憶友

昔君送我至江濱,

問我歸期指谷新。

現在新田已犁好,

他鄉我作獄中人。

Ức hữu

Tích quân tống ngã chí giang tân,

Vấn ngã quy kỳ, chỉ cốc tân.

Hiện tại tân điền dĩ lê hảo,

Tha hương ngã tác ngục trung nhân.

Dịch nghĩa

Ngày nào anh tiễn tôi đến bến sông,

Hỏi tôi ngày về, trỏ mùa lúa mới;

Đến nay ruộng lại đã cày xong hết rồi,

Nơi đất khách, tôi thành người trong tù.

Trên đây là những bài thơ hay của nhà thơ Hồ Chí Minh. Từ năm 1960 tác phẩm này đã được dịch ra tiếng Việt. Với nhiều người đây là một tác phẩm nổi tiếng, thể hiện được con người Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của nhà thơ. Đó cũng chính là lý do tập thơ này được nhiều lần xuất bản với nhiều hình thức khác nhau và được giới thiệu rộng rãi trên nhiều quốc gia. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ hay đặc sắc này bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …