Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà Thơ Hoàng Hưng Cùng Những Tác Phẩm Dịch Nổi Tiếng Phần 1

Nhà Thơ Hoàng Hưng Cùng Những Tác Phẩm Dịch Nổi Tiếng Phần 1

Nhà Thơ Hoàng Hưng Cùng Những Tác Phẩm Dịch Nổi Tiếng Phần 1

Hoàng Hưng được độc giả biết đến là một nhà thơ tài hoa và tinh tế. Ở ông có lòng nhiệt huyết, tìm tòi và luôn muốn làm mới mẻ tác phẩm của mình. Những cống hiến và nỗ lực của ông đã được khẳng định bằng những giải thưởng danh giá khiến mọi người phải trầm trồ khen ngợi

Ngoài một kho tàng thơ nổi tiếng thì ông còn có một tập thơ dịch những bài thơ của tác giả vang danh thế giới. Muốn chiêm ngưỡng sự thông thảo ngôn ngữ của ông thì các bạn hãy theo dõi bài viết này nhé!

Bất khuất Indomptable

l’espace est un bandit d’honneur

c’est à lui que tu penses

quand tu suis le galop de ton cœur

le destin t’a laissé la bride sur le cou

et la poussière au goût de silice et de feu

mange ta bouche sans mémoire

le sauve-qui-peut s’évade d’une géhenne intime

qui voudrait déchirer son ciel rouge

à la proue des nuages

là-bas l’impossible dit merveille ou désastre

comme défi d’une noire solitude

contre le sabot fendu de l’aube

l’espace est un bandit d’honneur

Bản Dịch

không gian là tên cướp đáng tin cậy

chính là kẻ mà em nghĩ tới

lúc dõi theo nước đại tim mình

số phận không trói buộc em

và bụi đường mang vị sỏi của lửa

ăn mất cái miện không ký ức của em

sự tán loạn vượt thoát địa ngục riêng tư

địa ngục toan xé nát bầu trời rực đỏ

ở đầu mũi những đám mây

ở đàng kia cái bất khả nói lên sự diệu kỳ hay thảm hoạ

như thách thức của nỗi cô đơn màu đen

chống lại chiếc móng xẻ của bình minh

không gian là tên cướp đáng tin cậy

Đốt cháy giai đoạn Etapes brûlées

Derrière tout poème

est une épaule poignardée

un gouffre sec

de dix mille ans

Derrière tout poème

est un refus fragile

une roue

jamais centrée

Le poème est la paupière

du tueur. Il descend

le hasard

Présence sans présent

Le poème

est la forêt brûlée

entre l’eetre et l’enfance

la perte de ce qui, quand même, demeure

Bản Dịch

Phía sau mọi bài thơ

là bờ vai bị dao đâm

vực khô

nghìn tuổi

Phía sau mọi bài thơ

là sự chối từ yếu ớt

vành xe

không bao giờ định tâm

Bài thơ là mí mắt

kẻ giết người. Kẻ hạ gục

sự tình cờ

Sự hiện diện không hiện tại

Bài thơ

là khu rừng cháy

giữa hiện hữu và tuổi thơ

sự mất đi của cái vẫn còn

Nhà thờ Poète

Comme en passant

Entre deux lames

Au premier sang

Sur le qui-vive

Là pas de place

Maigre vertu

Se rit de toi

L’exode est sûr

Viens dans le noir

Viens dans l’azur

Ange perdu

Avec une aile

Qui bat l’éclair –

Et je respire

Con đường im miệng

Le chemin se tait

Feuillage sans un mur

Sable effleuré

L’ombre avant les jardins

Ajonc et mouettes

Comme si bougeait

Cette distance

Dont le nom est visible

Trop trop d’enfance

Qu’un froissement détache

Mélèze

Plus loin que le silence

Et où le ciel

Chaque fois surgissait

Courir et les roches

Embrassées dans l’été

Rien que les fougères

Un oiseau la lisière

Le ciel voici

Le taillis avant l’aube

Quel frémissement

Jamais ne fuyait

Arbuste pierre

Où les prairies regardent

Poussière et dune

Le désir plus terrible

Encore

L’oubli dans la lumière

Encore un bond

Ce serait autrefois

Comme sur la pente

La barrière est muette

Chứng mất ngủ khách sạn

I liked my little hole,

Its window facing a brick wall.

Next door there was a piano.

A few evenings a month

a crippled old man came to play

“My Blue Heaven.”

Mostly, though, it was quiet.

Each room with its spider in heavy overcoat

Catching his fly with a web

Of cigarette smoke and revery.

So dark,

I could not see my face in the shaving mirror.

At 5 A.M. the sound of bare feet upstairs.

The “Gypsy” fortuneteller,

Whose storefront is on the corner,

Going to pee after a night of love.

Once, too, the sound of a child sobbing.

So near it was, I thought

For a moment, I was sobbing myself.

Bản Dịch

Tôi thích cái hố nhỏ của tôi

Có cửa sổ trông ra một bức tường gạch

Ở phòng bên có một chiếc dương cầm

Mỗi tháng vài chiều

Một ông già què đến chơi

Bản Thiên Đường Xanh Của Tôi

Tuy nhiên phần lớn là yên tĩnh

Mỗi phòng một con nhện trong áo khoác nặng nề

Bắt ruồi bằng cái mạng

Dệt bằng khói thuốc với mộng mơ

Tối quá

Tôi không nhìn được mặt mình trong tấm gương lavabô

Năm giờ sáng tiếng chân trần lên gác

Người “Gypsy” đoán số

Có cửa hiệu ở góc đường

Đi tiểu sau đêm ân ái

Cũng có lần, tiếng một đứa trẻ thút thít

Gần đến nỗi đã có lúc

Tôi tưởng chính mình đang thút thít.

Kiến trúc bi thảm

Trường học, nhà tù, những cái cây trong gió

Ta trèo những cầu thang ảm đạm của các ngươi

Đứng trong những góc xa nhất của các ngươi

Mặt nhìn vào vách

Tên sát nhân ngồi hàng đầu

Một cô bé Ophelia điên dại

Viết lên bảng đen ngày tháng hôm nay

Đao phủ là người bạn tốt nhất của tôi

Hắn đã mặc đồ đen rồi

Người giữ nhà đem con chuột nhắt cho chúng tôi chơi

Trong căn phòng ấy với những hoàng hôn đỏ

Là thời gian cho vĩnh cửu nói

Nên chúng tôi nghe

Như thể tim mình làm bằng đá

Tất cả bây giờ đổ nát

Những bức tường nứt, tróc

Mọi cửa sổ đều vỡ

Không còn đến một bóng đèn trần trụi

Cho người tù bị quên trong cô vắng

Và cậu học trò bị rớt lại đằng sau

Ngắm nhìn cây mùa đông trụi lá

Bị gió quất tơi bời.

Những que diêm

Tối mò khi tôi bước

Trên phố

Nhưng rồi ông xuất hiện

Người chơi diêm

Trong những giấc mộng của tôi

Tôi chưa bao giờ thấy

Mặt ông mắt ông

Sao bao giờ tôi cũng

Phải chậm chạp thế nhỉ

Và những que diêm đã cháy

Xuống sát ngón tay ông

Nếu là một ngôi nhà

Chỉ kịp nhìn một thoáng

Nếu là một đàn bà

Chỉ một cái hôn thôi

Rồi bóng tối chập lại

Thì tôi có thể đang ăn tối

Đang đắp một quả tuyết cầu

Đang được Giáo Hoàng La Mã

Nhổ cho mấy cái răng

Hoặc đang trần truồng chạy

Trên một bãi chiến trường

Người chơi diêm

Biết mà không nói

Ông chỉ thích những trò chơi bỏ dở

Những thành phố khó nhận mặt

Những tình yêu lớn ra đi

Trong một hơi thổi phù.

Koyasan

Très haut, très loin perché vous trouverez un peuple de pierre, un peuple gris entassé sous les cryptomères et la fougère géante. Peuple impavide et froid qui ne se remue pas. Ou ne se remue plus. Définitif. Assis aux marches de l’infini. Qu’il se couche ou qu’il se brise, cela n’est plus de son fait. On le croirait occupé à mâcher, puis à recracher la brume, indifférent aux désordres de ses assises et au tumulte du monde. Mais la seule voix des gongs — bulles cuivrées qui montent du fond des années et viennent mourir ici dans le silence —, la voix des gongs parle-t-elle seulement du monde?

On accède à leur domaine par une vallée que borne l’inutilité de lanternes vides et d’autels sans offrande. La pensée par là nourrit de grands corbeaux pouilleux. Ils volent pour elle. Ils lui rapportent, dociles, en partage, la paille et l’écorce insanes de l’en-delà.

Thuyền trưởng của loài sim

Et moi aussi

j’ai été huissier des chants

appariteur des couleurs

berger d’enfants

et instituteur des caprins et ovins

j’ai été ingénieur des bétons et bitumes

manœuvre des dossiers et paperasses

j’ai eu une chaire associée de docteur du cœur

et de pharmacien des âmes

mais c’est toujours jardinier de fourmis et scarabées

brocanteur des mûres et chanterelles

troisième classe des eaux et forêts

que j’ai été parfaitement à l’aise

comme le gardon dans son élément

car il n’y a pas un paysage pas une vie végétale

pas une plante au monde

dont je ne me sois jamais senti l’étranger

mais que dirai-je de l’homme?

Bản Dịch

và tôi cũng thế

tôi đã là nhân viên tiếp tân những khúc ca

người trực cổng những màu sắc

người chăn trẻ nhỏ

và thầy giáo dê cừu

tôi đã là kỹ sư bê tông và bitum

nhân công những hồ sơ và giấy má

tôi đã có một chân viện sĩ công tác về sản học tim

và dược sĩ linh hồn

nhưng bao giờ cũng thế là người làm vườn của kiến và bọ hung

kẻ buôn đồ cũ của dâu tằm và nấm mồng gà

hạng ba của suối và rừng

thì tôi hoàn toàn thoải mái

như cá trong nước

vì không một phong cảnh nào không một đời sống thực vật nào

không một cái cây nào trên đời

tôi từng cảm thấy mình xa lạ

Xem thêm:  Chùm thơ hay viết về Sapa (Lào Cai)

nhưng tôi biết nói sao về con người

Bài thơ thứ bảy của Fang Yi

Quand tu en déchires sans bruit le tissu pour que respire son étoile de quel côté du réel es-tu

De quel côté du réel est-elle

Bleu d’encre et seuil de l’émoi enfin détachés — clair sur les bords — il y a du rose un rose venteux au bord des choses

Voisine d’une autre diaphane aussi voisine d’une autre à paraître

Sans quoi nous serions sans indice des parois de la vie à toutes les profondeurs

La zone conversationnelle est la zone qui contient les fréquences propres à la communication humaine

Tu fermes les yeux tu touches et tu frissonnes tu n’as pas touché pour frissonner tu touches tu frissonnes

tu ouvres les yeux tu touches avec les yeux

Tant de mots plus ou moins accentués courent sous les doigts la phrase est ininterrompue

À la surface

Plus ou moins déchirée — quand le soir les distances s’atténuent sans que rien ait été physiquement déplacé

reste une surface plate sans épaisseur pourtant volu- mineuse est-ce que c’est ça

Plus ou moins calme c’est l’air qui fait plan

Bản Dịch

Khi anh xé êm như không lớp vải để ngôi sao của nàng thở anh đứng bên nào của thực tại

Nàng ở bên nào của thực tại

Màu xanh mực và ngưỡng cảm động rồi cuối cùng cũng bật lên – sáng trên những mép bờ – có đó màu hồng một màu hồng nổi gió bên bờ mọi vật

Là cô láng giềng của một nàng trắng muốt cũng là cô láng giềng của một nàng sắp xuất hiện

Không thế thì chúng ta sẽ vô tăm tích chỉ là những vách thành của sự sống ở mọi độ sâu

Vùng hội thoại là vùng chứa những tần số phù hợp cho thông liên nhân loại

Anh nhắm mắt anh sờ và run rẩy không phải anh sờ để mà run rẩy anh sờ anh run rẩy anh mở mắt anh sờ bằng mắt

Quá nhiều lời ít nhiều được nhấn mạnh chạy dưới những ngón tay câu không ngưng nghỉ

Trên bề mặt

Ít nhiều rách rưới – khi chiều xuống những khoảng cách co lại tuy chẳng ai thực sự di chuyển còn lại một bề mặt phẳng lì không có chiều dàu tuy nhiên vẫn cồng kềnh phải chăng chính là thế đó

Ít nhiều bình lặng đó là không khí dàn mặt phẳng

Bài ca kỵ sĩ (1860)

En la luna negra

de los bandoleros,

cantan las espuelas.

Caballito negro.

¿Dónde llevas tu jinete muerto?

…Las duras espuelas

del bandido inmóvil

que perdió las riendas.

Caballito frío.

¡Qué perfume de flor de cuchillo!

En la luna negra,

sangraba el costado

de Sierra Morena.

Caballito negro.

¿Dónde llevas tu jinete muerto?

La noche espolea

sus negros ijares

clavándose estrellas.

Caballito frío.

¡Qué perfume de flor de cuchillo!

En la luna negra,

¡un grito! y el cuerno

largo de la hoguera.

Caballito negro.

¿Dónde llevas tu jinete muerto?

Bản Dịch

Dưới vầng trăng đen

của bọn cướp đường

đinh thúc ngựa anh lóc cóc

Chú ngựa ô bé nhỏ

đưa chàng kỵ sĩ chết về đâu?

Đinh thúc ngựa cứng quá

chàng kẻ cướp im lìm

để dây cương tuột mất

Ơi chú ngựa rét cóng

Lưỡi dao tỏa hương gì?

Dưới vầng trăng đen

rặng Morena

mạn sườn nhỏ máu

Chú ngựa ô bé nhỏ

đưa chàng kỵ sĩ chết về đâu?

Ven trời đen thẳm

màn đêm gieo trồng

những đinh thúc ngựa

Ơi chú ngựa rét cóng

Lưỡi dao tỏa hương gì?

Dưới vầng trăng đen

một tiếng kêu! Và chiếc sừng

lửa núi

Chú ngựa ô bé nhỏ

đưa chàng kỵ sĩ chết về đâu?

Cây mâm xôi màu xám

Zarzamora con el tronco gris,

dame un racimo para mí.

Sangre y espinas. Acércate.

Si tú me quieres, yo te querré.

Deja tu fruto de verde y sombra

sobre mi lengua, zarzamora.

Qué largo abrazo te daría

en la penumbra de mis espinas.

Zarzamora ¿dónde vas?

A buscar amores que tú no me das.

Bản Dịch

– Ơi cây hoang dại cây màu xám

Em có cho ta trái ngọt lành?

– Đến đây. Máu đỏ và gai sắc

yêu em, em sẽ thuộc về anh.

– Trái cây em màu xanh sắc tối

hãy để tan dần trên lưỡi ta.

– Em sẽ ôm ghì anh mãi mãi

trong rừng gai bóng tối mơ hồ.

– Cây ơi, em đi tìm chi đó?

– Tình yêu mà anh không biết cho.

Chết lúc rạng ngày

Noche de cuatro lunas

y un solo árbol,

con una sola sombra

y un solo pájaro.

Busco en mi carne las

huellas de tus labios.

El manantial besa al viento

sin tocarlo.

Llevo el No que me diste,

en la palma de la mano,

como un limón de cera

casi blanco.

Noche de cuatro lunas

y un solo árbol.

En la punta de una aguja

está mi amor ¡girando!

Bản Dịch

Đêm bốn vầng trăng

chỉ một cây

một bóng

một chim

Tìm trên thân thể

hơi ấm môi em

Nguồn hôn lên má

mà không chạm vào

Tiếng “Không” em trao

giữa lòng tay anh

như trái chanh bằng sáp

trắng

Đêm bốn vầng trăng

mà cây chỉ một

ở đầu kim nhọn

quay, quay tình anh!

Chú bé câm

El niño busca su voz.

(La tenía el rey de los grillos.)

En una gota de agua

buscaba su voz el niño.

No la quiero para hablar;

me haré con ella un anillo

que llevará mi silencio

en su dedo pequeñito.

En una gota de agua

buscaba su voz el niño.

(La voz cautiva, a lo lejos,

se ponía un traje de grillo.

Bản Dịch

Chú bé tìm giọng nói của mình

(chính vua dế bắt được)

Trong giọt nước

chú bé tìm giọng nói của mình

Em tìm không để nói đâu mà

giọng nói em đem đánh nhẫn

để sự lặng im

đeo vào ngón nhỏ

Trong giọt nước

chú bé tìm giọng nói của mình

(giọng nói bị cầm tù nơi xa

vận lốt dế)

Chuông Campana

En la torre

amarilla,

dobla una campana.

Sobre el viento

amarillo,

se abren las campanadas.

En la torre

amarilla,

cesa la campana.

El viento con el polvo,

hace proras de plata.

Bản Dịch

Trong những tháp

vàng

nguyện hồn ai chuông đổ

Trên cánh gió

vàng

nở những tiếng chuông

Trong những tháp

vàng

chuông sững

Gió tạc vào bụi đường

chân vịt tàu bằng bạc

Đoàn người ra đi

Las gentes iban

y el otoño venía.

Las gentes

iban a lo verde.

Llevaban gallos

y guitarras alegres.

Por el reino

de las simientes.

El río soñaba,

corría la fuente.

¡Salta.

corazón caliente!

Las gentes

iban a lo verde.

El otoño venía

amarillo de estrellas,

pájaros macilentos

y ondas concéntricas.

Sobre el pecho almidonado,

la cabeza.

¡Párate,

corazón de cera!

Las gentes iban

y el otoño venía.

Bản Dịch

Đoàn người ra đi

và mùa thu tới

Người đi

về xứ biếc

với những chú gà

với cây đàn ngày hội

qua quê hương

của những hạt vàng

Dòng sông mơ màng

bồn nước chảy

Ơi tim nồng cháy

tung lên đi!

Người đi

về xứ biếc

Và mùa thu tới

dát đầy sao màu đồng

với những con chim buồn

vòng sóng tròn loang mãi

Tim mềm yếu ơi

dừng lại!

Đoàn người ra đi

và mùa thu tới

Hai vầng trăng muộn

I

(A Laurita, amiga de mi hermana)

La luna está muerta, muerta;

pero resucita en la primavera.

Cuando en la frente de los chopos

se rice el viento del Sur.

Cuando den nuestros corazones

su cosecha de suspiros.

Cuando se pongan los tejados

sus sombreritos de yerba.

La luna está muerta, muerta;

pero resucita en la primavera.

II

(A Isabelita, mi hermana)

La tarde canta

una berceuse a las naranjas.

Mi hermanita canta:

La tierra es una naranja.

La luna llorando dice:

Yo quiero ser una naranja.

No puede ser, hija mía,

aunque te pongas rosada.

Ni siquiera limoncito.

¡Qué lástima!

Bản Dịch

I

(Tặng Laurita, bạn em gái tôi)

Vầng trăng chết, chết rồi

lại hồi sinh khi xuân tới

Khi trên trán dãy bạch dương

cơn gió nam sủi bọt

Khi chín mùa than thở

trái tim mình đem trao

Khi những mái nhà

xinh xinh mũ cỏ

Xem thêm:  Người Dệt Tầm Gai – Thi phẩm xuất sắc của nhà thơ Vi Thùy Linh

Vầng trăng chết, chết rồi

lại hồi sinh khi xuân tới

II

(Tặng Isabelita, em gái tôi)

Buổi chiều khe khẽ hát

điệu ru những trái cam

Isabelita hát:

Quả đất là trái cam

Mặt trăng thổn thức:

Tôi muốn là trái cam

Chẳng được đâu, con gái ơi

khi con sơn mình hồng

Thật là tai hại!

Cũng chẳng được là một trái chanh con

Idilio

Tú querías que yo te dijera

el secreto de la primavera.

Y yo soy para el secreto

lo mismo que es el abeto.

Árbol cuyos mil deditos

señalan mil caminitos.

Nunca te diré, amor mío,

por qué corre lento el río.

Pero pondré en mi voz estancada

el cielo ceniza de tu mirada.

¡Dame vueltas, morenita!

Ten cuidado con mis hojitas.

Dame más vueltas alrededor,

jugando a la noria del amor.

¡Ay! No puedo decirte, aunque quisiera,

el secreto de la primavera.

Bản Dịch

(Tặng Enrique Durán)

Em muốn anh thổ lộ

bí mật sự hồi sinh

Nhưng bí mật anh giữ

chẳng kém gì cây thông

Cây ngàn ngón tay

chỉ ra ngàn lối

Em yêu ơi, chẳng bao giờ anh nói

vì đâu sông chảy lững lờ

Nhưng trong giọng anh như nước lặng

anh sẽ hoà trời xám mắt em!

Quay quanh anh nhé em tóc nâu ơi

và hãy dè chừng muôn ngọn lá

Quay quay nữa, quay quay mãi

trò chơi guồng nước ái tình

Dù anh muốn, anh không sao thổ lộ

hỡi ơi, bí mật sự hồi sinh

Khúc dạo Preludio

Las alamedas se van,

pero dejan su reflejo.

Las alamedas se van.

pero nos dejan el viento.

El viento está amortajado

a lo largo bajo el cielo.

Pero ha dejado flotando

sobre los ríos sus ecos.

El mundo de las luciérnagas

ha invadido mis recuerdos.

Y un corazón diminuto

me va brotando en los dedos.

Bản Dịch

Hàng phong cao ra đi

còn để lại bóng hình

Hàng phong cao ra đi

để cho ta ngọn gió

Còn để trên sông

bập bềnh tiếng vọng

Một trời đom đóm

ngập ký ức tôi

Mọc một trái tim

tí teo giữa ngón

Khúc roman về ưu phiền đen

Las piquetas de los gallos

cavan buscando la aurora,

cuando por el monte oscuro

baja Soledad Montoya.

Cobre amarillo, su carne,

huele a caballo y a sombra.

Yunques ahumados sus pechos,

gimen canciones redondas.

Soledad, ¿por quién preguntas

sin compaña y a estas horas?

Pregunte por quien pregunte,

dime: ¿a ti qué se te importa?

Vengo a buscar lo que busco,

mi alegría y mi persona.

Soledad de mis pesares,

caballo que se desboca,

al fin encuentra la mar

y se lo tragan las olas.

No me recuerdes el mar,

que la pena negra, brota

en las tierras de aceituna

bajo el rumor de las hojas.

¡Soledad, qué pena tienes!

¡Qué pena tan lastimosa!

Lloras zumo de limón

agrio de espera y de boca.

¡Qué pena tan grande! Corro

mi casa como una loca,

mis dos trenzas por el suelo,

de la cocina a la alcoba.

¡Qué pena! Me estoy poniendo

de azabache carne y ropa.

¡Ay, mis camisas de hilo!

¡Ay, mis muslos de amapola!

Soledad: lava tu cuerpo

con agua de las alondras,

y deja tu corazón

en paz, Soledad Montoya.

Por abajo canta el río:

volante de cielo y hojas.

Con flores de calabaza,

la nueva luz se corona.

¡Oh pena de los gitanos!

Pena limpia y siempre sola.

¡Oh pena de cauce oculto

y madrugada remota!

Bản Dịch

Những mỏ gà vang dội

mồi lửa cho bình minh

Từ ngọn non tối mờ

Soledad bước xuống

Tấm thân màu đồng vàng

mùi bóng đêm, ngựa cái

Cặp đe đen – đôi vú

rên rỉ bài ca tròn

Soledad tìm ai

mà một mình buổi sớm?

– Tìm ai tôi tìm chi

việc gì anh hỏi đến?

Tôi chạy theo hạnh phúc

chạy theo trí khôn tôi

– Cô em buồn sầu ơi

con ngựa mà chạy sổng

rồi sẽ gặp biển xanh

và tan thây vì sóng

– Đừng nói biển anh ơi

Ưu phiền đen nó mọc

trong mảnh đất ô liu

dưới tiếng cành xao xác

– Soledad thương quá!

Ưu phiền nàng khôn khuây!

Nước mắt cô như chanh

đắng vị môi, chờ đợi

– Ưu phiền! Như con dại

tôi chạy rông khắp nhà

Tóc kéo lê dưới đất

buồng ngủ đến bếp ăn

Làn áo và thịt da

biến thành huyền đen nhức

Ôi áo bằng chỉ tơ!

Cặp đùi hoa thuốc phiện!

– Hãy rửa mình, em hỡi

trong suối nguồn sơn ca

và cho tim nó ngủ

Soledad Montoya

Dưới kia dòng suối hát

lá với mảnh trời bay

Một ngày mới lên ngôi

đội vành hoa bầu trắng

Nỗi phiền muộn gi-tan

cô đơn và thuần khiết

của bến bờ bí mật

và ban mai xa vời

Mộng du

A Gloria Giner y Fernando de los Ríos

Verde que te quiero verde.

Verde viento. Verdes ramas.

El barco sobre la mar

y el caballo en la montaña.

Con la sombra en la cintura

ella sueña en su baranda

verde carne, pelo verde,

con ojos de fría plata.

Verde que te quiero verde.

Bajo la luna gitana,

las cosas la están mirando

y ella no puede mirarlas.

Verde que te quiero verde.

Grandes estrellas de escarcha,

vienen con el pez de sombra

que abre el camino del alba.

La higuera frota su viento

con la lija de sus ramas,

y el monte, gato garduño,

eriza sus pitas agrias.

¿Pero quién vendrá? ¿Y por dónde…?

Ella sigue en su baranda,

verde carne, pelo verde,

soñando en la mar amarga.

Compadre, quiero cambiar

mi caballo por su casa,

mi montura por su espejo,

mi cuchillo por su manta.

Compadre, vengo sangrando

desde los puertos de Cabra.

Si yo pudiera, mocito,

este trato se cerraba.

Pero yo ya no soy yo,

ni mi casa es ya mi casa.

Compadre, quiero morir

decentemente en mi cama.

De acero, si puede ser,

con las sábanas de holanda.

¿ No veis la herida que tengo

desde el pecho a la garganta?

Trescientas rosas morenas

lleva tu pechera blanca.

Tu sangre rezuma y huele

alrededor de tu faja.

Pero yo ya no soy yo.

Ni mi casa es ya mi casa.

Dejadme subir al menos

hasta las altas barandas,

¡Dejadme subir!, dejadme

hasta las altas barandas.

Barandales de la luna

por donde retumba el agua.

Ya suben los dos compadres

hacia las altas barandas.

Dejando un rastro de sangre.

Dejando un rastro de lágrimas.

Temblaban en los tejados

farolillos de hojalata.

Mil panderos de cristal,

herían la madrugada.

Verde que te quiero verde,

verde viento, verdes ramas.

Los dos compadres subieron.

El largo viento dejaba

en la boca un raro gusto

de hiel, de menta y de albahaca.

¡Compadre! ¿Dónde está, dime?

¿Dónde está tu niña amarga?

¡Cuántas veces te esperó!

¡Cuántas veces te esperara,

cara fresca, negro pelo,

en esta verde baranda!

Sobre el rostro del aljibe,

se mecía la gitana.

Verde carne, pelo verde,

con ojos de fría plata.

Un carámbano de luna

la sostiene sobre el agua.

La noche se puso íntima

como una pequeña plaza.

Guardias civiles borrachos

en la puerta golpeaban.

Verde que te quiero verde.

Verde viento. Verdes ramas.

El barco sobre la mar.

Y el caballo en la montaña.

Bản Dịch

(Tặng Gloria Giner và Fernando de los Ríos)

Biếc ơi ta yêu biếc

biếc gió và biếc cành

chú ngựa trong núi sâu

con thuyền trên mặt biển

Nàng mơ, thân mờ tối

bên lan can nghiêng mình

gương mặt biếc, tóc biếc

đôi mắt lạnh hơi kim

Biếc ơi ta yêu biếc

dưới mảnh trăng gi-tan

tất cả đều nhìn nàng

mà nàng không thể thấy

Biếc ơi ta yêu biếc

Bầy tinh tú giá băng

rước con cá bóng tối

mở lối cho bình minh

Cây vả giương lá cành

như bàn cào cào gió

Núi như con mèo rừng

dựng hết gai dứa dai

Nhưng ai từ đâu tới?

Nghiêng mình bên lan can

gương mặt biếc, tóc biếc

biển: mộng đắng cay nàng

– Xin bạn đổi cho tôi

ngôi nhà lấy con ngựa

chiếc gương lấy chiến bào

áo choàng lấy dao sắc

Tôi trở về đẫm máu

từ đèo núi Cabra

– Chàng trai ơi tôi muốn

nhận đổi chác cùng anh

Nhưng tôi không là tôi

nhà tôi không của tôi

– Bạn ơi tôi muốn chết

bình yên trên chiếc giường

và chăn ấm gối êm

với nệm lò xo tốt

Thấy chăng vết thương mở

từ ngực đến họng tôi?

– Tôi thấy trăm bông hồng

nở trên làn áo trắng

Miếng len anh nịt lưng

đã ngấm mùi tanh máu

Nhưng tôi không là tôi

nhà tôi không của tôi

– Chí ít hãy cho tôi

trèo lên phía cao vời

cho tôi, cho tôi trèo

lên hàng lan can biếc

lan can của vầng trăng

nơi nước tuôn như thác

Xem thêm:  Bài Thơ Mùa Hè Đầy Mới Mẻ Của Nhà Thơ Thụy Anh

Hai người bạn trèo lên

hướng lan can cao vời

để rơi từng vết máu

để rơi từng vết lệ

Vài chiếc đèn bằng đồng

ru rảy trên sân gác

Ngàn chiếc trống thuỷ tinh

làm bị thương buổi sớm

Biếc ơi ta yêu biếc

biếc gió và biếc cành

Hai người bạn trèo cao

Gió thổi vào miệng họ

để lại vị đắng cay

– Bạn ơi, nàng ở đâu?

con gái anh, cay đắng?

Bao phen nàng đợi chờ

bao phen nàng hi vọng

mặt tươi tắn, tóc đen

bên hàng lan can biếc!

Trên mặt gương hồ nước

nàng gi-tan đung đưa

guơng mặt biếc, tóc biếc

đôi mắt lạnh hơi kim

Một thỏi băng nguyệt cầu

giữ nàng trên mặt nước

Đêm trở nên thân thiết

như một chốn nhỏ nhoi

Bọn dân phòng tuý luý

xô vào cửa nhà người

Biếc ơi ta yêu biếc

biếc gió và biếc cành

chú ngựa trong núi sâu

con thuyền trên mặt biển

Sóng ơi sóng về đâu?

Agua, ¿dónde vas?

Riyendo voy por el río

a las orillas del mar.

Mar, ¿adónde vas?

Río arriba voy buscando

fuente donde descansar.

Chopo, y tú ¿qué harás?

No quiero decirte nada.

Yo…, ¡temblar!

¿Qué deseo, qué no deseo,

por el río y por la mar?

(Cuatro pájaros sin rumbo

en el alto chopo están.)

Bản Dịch

Sóng ơi, sóng về đâu?

Tôi cười và trôi đi

đến tận bờ biển cả

Biển ơi biển về đâu?

Ngược dòng nước tôi tìm

về suối nguồn an nghỉ

Phong ơi làm chi đó?

Tôi chẳng muốn nói gì

chỉ biết run rẩy thôi

Khao khát ơi khao khát

theo sông biển về đâu?

(Bốn con chim không đích

đậu trên ngọn phong cao)

Sonnet lời oán trách ngọt ngào

Tengo miedo a perder la maravilla

de tus ojos de estatua y el acento

que de noche me pone en la mejilla

la solitaria rosa de tu aliento.

Tengo pena de ser en esta orilla

tronco sin ramas; y lo que más siento

es no tener la flor, pulpa o arcilla,

para el gusano de mi sufrimiento.

Si tú eres el tesoro oculto mío,

si eres mi cruz y mi dolor mojado,

si soy el perro de tu señorío,

no me dejes perder lo que he ganado

y decora las aguas de tu río

con hojas de mi otoño enajenado.

Bản Dịch

Anh sợ mất đi điều kỳ diệu

Của mắt em như mắt tượng thần

Hơi thở em bông hồng đơn độc

Trán anh hằng in dấu đêm đêm

Ôi buồn sao trên bến bờ này

Anh chỉ một thân cây không cành lá

Không hoa hay chỉ là chút tủy

Để nuôi niềm đau khổ tựa loài sâu

Nếu em là kho báu của anh, cây thánh giá dịu hiền của anh

Nỗi sầu chìm đắm của anh

Nếu em là con muông dưới chân nữ chúa

Xin hãy giữ cho anh của này công khó

Và nhận đây những phiến lá thu buồn

Tô điểm dòng sông em vàng son

Tảng sáng Alba

Campanas de Córdoba

en la madrugada.

Campanas de amanecer

en Granada.

Os sienten todas las muchachas

que lloran a la tierna

soleá enlutada.

Las muchachas

de Andalucía la alta

y la baja.

Las niñas de España

de pie menudo

y temblorosas faldas,

que han llenado de luces

las encrucijadas.

¡Oh, campanas de Córdoba

en la madrugada.

y oh, campanas de amanecer

en Granada!

Bản Dịch

Những hồi chuông Córdoba

trong mai sớm

Những hồi chuông tảng sáng

Granada

Mọi cô gái đều nghe

các ngươi khóc

điệu Soleá dịu dàng

tang tóc

Những cô gái

miền hạ

và miền thượng

Andalucía

Những cô gái España

gót son

rung rảy váy

làm sáng lên

những ngã tư đường

Ôi! Những hồi chuông Córdoba

trong mai sớm

và các ngươi, những hồi chuông tảng sáng

Granada

Thật đấy Es verdad

¡Ay qué trabajo me cuesta

quererte como te quiero!

Por tu amor me duele el aire,

el corazón

y el sombrero.

¿Quién me compraría a mí

este cintillo que tengo

y esta tristeza de hilo

blanco, para hacer pañuelos?

¡Ay qué trabajo me cuesta

quererte como te quiero!

Bản Dịch

Anh trả giá bao nhiêu phiền muộn

để yêu em như thể anh yêu!

Yêu em, khí trời làm anh đau,

đau tim,

đau cả mũ đội đầu.

Có ai mua cho mình

chiếc dải dài dài tết bằng lụa mỏng,

nỗi buồn bằng chỉ trắng

để dệt thành khăn tay?

Anh trả giá bao nhiêu phiền muộn

để yêu em như thể anh yêu!

Trăng lên La luna asoma

Cuando sale la luna

se pierden las campanas

y aparecen las sendas

impenetrables.

Cuando sale la luna,

el mar cubre la tierra

y el corazón se siente

isla en el infinito.

Nadie come naranjas

bajo la luna llena.

Es preciso comer

fruta verde y helada.

Cuando sale la luna

de cien rostros iguales,

la moneda de plata

solloza en el bolsillo.

Bản Dịch

Khi hiện vầng trăng

hồi chuông mờ xoá

sáng những nẻo đường

không ai tới được

Khi hiện vầng trăng

biển trùm mặt đất

tim ta lìa bờ

lạc trong vô tận

Chẳng ai ăn cam

dưới trăng sáng quá

Thế mà phải ăn

quả xanh lạnh giá

Khi vầng trăng hiện

vầng trăng trăm đầu

những đồng bạc nhỏ

nức nở trong bao

Trăng, trăng

A Conchita García Lorca

La luna vino a la fragua

con su polisón de nardos.

El niño la mira, mira.

El niño la está mirando.

En el aire conmovido

mueve la luna sus brazos

y enseña, lúbrica y pura,

sus senos de duro estaño.

Huye luna, luna, luna.

Si vinieran los gitanos,

harían con tu corazón

collares y anillos blancos.

Niño, déjame que baile.

Cuando vengan los gitanos,

te encontrarán sobre el yunque

con los ojillos cerrados.

Huye luna, luna, luna,

que ya siento sus caballos.

Niño, déjame, no pises

mi blancor almidonado.

El jinete se acercaba

tocando el tambor del llano.

Dentro de la fragua el niño,

tiene los ojos cerrados.

Por el olivar venían,

bronce y sueño, los gitanos.

Las cabezas levantadas

y los ojos entornados.

Cómo canta la zumaya,

¡ay, cómo canta en el árbol!

Por el cielo va la luna

con un niño de la mano.

Dentro de la fragua lloran,

dando gritos, los gitanos.

El aire la vela, vela.

El aire la está velando.

Bản Dịch

Tặng Conchita García Lorca

Trăng bay xuống lò rèn

Váy kết bằng hoa trắng

Chú bé giương mắt tròn

nhìn trăng, nhìn trăng mãi

Khi động làn gió êm

dâm dật và thuần khiết

trăng mở đôi vú ngần

đúc bằng kim loại cứng

– Đi đi trăng, trăng ơi

Bọn gi-tan mà đến

chúng sẽ moi tim cô

làm chiếc vòng nhẫn trắng

– Để tôi nhảy chú ơi

Đám kỵ sĩ tới nơi

sẽ thấy chú nằm dài

trên chiếc đe, nhắm mắt

– Đi đi trăng, trăng ơi

Nghe tiếng ngựa chúng rồi

– Buông ra, kẻo nhàu nát

màu trắng hồ của tôi

Gõ nhịp rung cánh đồng

chàng kỵ sĩ tới gần

Trong lò rèn lặng lẽ

nhắm mắt, chú bé nằm

Từ vườn ô liu đến

bọn gi-tan da đồng

mơ mộng, đầu ngẩng cao

mắt chập chờn thức ngủ

Trên cây con cú rúc

cú rúc chi mà ghê

Trên trời trăng bước đi

tay dắt tay chú bé

Khóc ròng quanh chiếc đe

bọn gi-tan tuyệt vọng

Làn gió êm thức mãi

gió thức suốt đêm dài

Verlaine

La canción,

que nunca diré,

se ha dormido en mis labios.

La canción,

que nunca diré.

Sobre las madreselvas

había una luciérnaga,

y la luna picaba

con un rayo en el agua.

Entonces yo soñé,

la canción,

que nunca diré.

Canción llena de labios

y de cauces lejanos.

Canción llena de horas

perdidas en la sombra.

Canción de estrella viva

sobre un perpetuo día.

Bản Dịch

Bài ca

chẳng bao giờ tôi nói ra

bài ca trên môi tôi lặng ngủ

Bài ca

chẳng bao giờ tôi nói ra

Giữa bụi kim ngân hoa

một con đom đóm sáng

và một ánh trăng vàng

mơn man mặt nước

Lúc đó tôi mơ màng

bài ca

chẳng bao giờ tôi nói ra

Bài ca những làn môi

những bến bờ xa vắng

Bài ca những giờ dài

trong bóng đêm chìm đắm

Bài ca ngôi sao sáng

soi một ngày không cùng

Trên đây, Thuvientho.com đã dành tặng bạn những bài thơ dịch nổi tiếng của Hoàng Hưng. Một lần nữa ông đã khẳng định sự tài năng thiên phú của mình trong lòng độc giả. Mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày gần nhất nhé! Hãy chia sẻ cảm nhận của các bạn về bài viết để chúng tôi ngày một hoàn thiện hơn! Thân Ái!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …