Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 1

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 1

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 1

La Fontaine (1621-1695) là một nhà thơ ngụ ngôn và nhà thơ cổ điển nổi tiếng của Pháp, những bài thơ của ông được biết đến rất rộng rãi vào thế kỷ XVII. Ông là nhà thơ Pháp duy nhất hiểu và làm chủ những kết cấu tinh vi trong của ngôn ngữ Pháp. Ông sở hữu một kho tàng thơ đầy ấn tượng được nhiều độc giả săn đón. Hãy cùng chúng tôi đi khám phá những trang thơ của ông nhé!

Ve và kiến La cigale et la fourmi

La cigale, ayant chanté

Tout l’été,

Se trouva fort dépourvue

Quand la bise fut venue:

Pas un seul petit morceau

De mouche ou de vermisseau.

Elle alla crier famine

Chez la fourmi sa voisine,

La priant de lui prêter

Quelque grain pour subsister

Jusqu’à la saison nouvelle.

“Je vous paierai, lui dit-elle,

Avant l’août, foi d’animal,

Intérêt et principal.”

La Fourmi n’est pas prêteuse:

C’est là son moindre défaut.

“Que faisiez-vous au temps chaud?

Dit-elle à cette emprunteuse.

Nuit et jour à tout venant

Je chantais, ne vous déplaise.

Vous chantiez? j’en suis fort aise:

Eh bien! dansez maintenant.”

Dịch

Ve sầu kêu ve ve

Suốt mùa hè

Đến kỳ gió bấc thổi

Nguồn cơn thật bối rối

Một miếng cũng chẳng còn

Ruồi bọ không một con

Vác miệng chịu khúm núm

Sang chị Kiến hàng xóm

Xin cùng chị cho vay

Dăm ba hạt qua ngày

Từ nay sang tháng hạ

Em lại xin đem trả

Trước thu, thề đất trời!

Xin đủ cả vốn lời

Tính Kiến ghét vay cậy

Thói ấy chẳng hề chi

Nắng ráo chú làm gì?

Kiến hỏi Ve như vậy

Ve rằng: Luôn đêm ngày

Tôi hát, thiệt gì bác!

Kiến rằng: Xưa chú hát

Nay thử múa coi đây

Quạ và cáo

Maître Corbeau, sur un arbre perché,

Tenait en son bec un fromage.

Maître Renard, par l’odeur alléché,

Lui tint à peu près ce langage:

“Hé! bonjour, Monsieur du Corbeau,

Que vous êtes joli! que vous me semblez beau!

Sans mentir, si votre ramage

Se rapporte à votre plumage,

Vous êtes le phénix des hôtes de ces bois.”

A ces mots le Corbeau ne se sent pas de joie;

Et pour montrer sa belle voix,

Il ouvre un large bec, laisse tomber sa proie.

Le Renard s’en saisit, et dit: “Mon bon Monsieur,

Apprenez que tout flatteur

Vit aux dépens de celui qui l’écoute:

Cette leçon vaut bien un fromage, sans doute.”

Le Corbeau, honteux et confus,

Jura, mais un peu tard, qu’on ne l’y prendrait plus.

Dịch

Thầy Quạ đậu trên cây

Mỏ ngậm miếng pho-mát

Thầy Cáo thấy thơm ngát

Bèn lại tán thế này:

“Kính chào tôn ông Quạ

Khôi ngô và phong nhã

Tôi trông đẹp nhất ngài!

Lại dám đâu nói sai

Nếu giọng ngài bẻ bai

Như lông ngài hào nhoáng

Thì ngài quả xứng đáng

Là chúa Phượng lâm sơn”

Quạ nghe nói sướng rơn

Muốn tỏ mình tốt giọng

Mở toang cái mỏ rộng

Để rơi quách miếng mồi

Cáo cuỗm phắt, ngỏ lời:

“Thưa tôn ông quý hoá

Xin điều này ghi dạ

Phàm kẻ nịnh hót xằng

Chỉ sống bám vào thằng

Cả nghe lời tán tỉnh

Bài học này tôi tính

Đổi pho-mát còn hời”

Quạ xấu hổ điếng người

Quyết thề – nhưng muộn quá

Từ nay không hớ nữa

Nhái muốn to bằng bò

Une Grenouille vit un Boeuf

Qui lui sembla de belle taille.

Elle, qui n’était pas grosse en tout comme un oeuf,

Envieuse, s’étend, et s’enfle et se travaille,

Pour égaler l’animal en grosseur,

Disant: “Regardez bien, ma soeur;

Est-ce assez? dites-moi: n’y suis-je point encore?

Nenni – M’y voici donc? – Point du tout. M’y voilà?

Vous n’en approchez point. “La chétive pécore

S’enfla si bien qu’elle creva.

Le monde est plein de gens qui ne sont pas plus sages.

Tout bourgeois veut bâtir comme les grands seigneurs,

Tout prince a des ambassadeurs,

Tout marquis veut avoir des pages.

Dịch

Con nhái nom thấy con bò

Hình dung đẹp đẽ mình to béo tròn

Nhái bằng quả trứng tí hon

Lại toan cố sức bằng con bò vàng

Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương

Kêu: đến xem tường cho ta

Đã bằng chưa, chị trông, nà!

Bạn rằng còn kém – Nhái đà phồng thêm

Hỏi rằng: Được chửa, chị em?

Đáp rằng: Chưa được, phồng thêm ít nhiều!

Chị ơi còn kém bao nhiêu?

Bạn rằng: – Còn phải phồng nhiều, kém xa!

Tức mình chị nhái oắt ta

Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền

Ở đời lắm kẻ thật điên

Sức hèn lại muốn tranh tiên với người

thay những lối đua đòi

Vinh gì cuộc rượu trận cười mà ganh

Để cho cơ nghiệp tan tành

Hai con la

Deux Mulets cheminaient; l’un d’avoine chargé;

L’autre portant l’argent de la gabelle.

Celui-ci, glorieux d’une charge si belle,

N’eût voulu pour beaucoup en être soulagé.

Il marchait d’un pas relevé,

Et faisait sonner sa sonnette;

Quand, l’ennemi se présentant,

Comme il en voulait à l’argent,

Sur le Mulet du fisc une troupe se jette,

Le saisit au frein, et l’arrête.

Le mulet, en se défendant,

Se sent percé de coups, il gémit, il soupire:

Est-ce donc là, dit-il, ce qu’on m’avait promis?

Ce Mulet qui me suit du danger se retire;

Et moi j’y tombe, et je péris.

Ami, lui dit son camarade,

Il n’est pas toujours bon d’avoir un haut emploi:

Si tu n’avais servi qu’un Meunier, comme moi,

Tu ne serais pas si malade.

Dịch

Hai con la nọ

Cùng đi một đàng

Con chở tiền thuế muối

Con tải lúa mạch xoàng

Con chở bạc nghênh ngang khoe mẽ

Không muốn ai chút nào

Dương dương cất vó rõ cao

Tiếng reo sổn soảng oai sao nhạc vàng

Bỗng gặp cướp chặn đàng đoạt của

Xúm vào la chở thuế, ra tay

Giật hàm thiếc, tóm cổ ngay

La càng chống cự càng dầy nhát dâm

Hắn rên rỉ, than thân lận đận:

“Loại bổng này dành phận ta chăng?

Bạn kia thoát nạn dễ dàng

Ta thì ngã gục chết oan thế này!”

La kia nói: “Mới hay sự thế

Trọng trách đương hồ dễ tốt đâu!

Anh, tôi mà cảnh như nhau

Giúp ông làm bột vạ đâu đến mình!”

Xem thêm:  Top 10 Bài thơ hay viết về sự nhớ nhung xa cách trong tình yêu

Chó và chó nhà

Un Loup n’avait que les os et la peau,

Tant les chiens faisaient bonne garde.

Ce Loup rencontre un Dogue aussi puissant que beau,

Gras, poli, qui s’était fourvoyé par mégarde.

L’attaquer, le mettre en quartiers,

Sire Loup l’eût fait volontiers;

Mais il fallait livrer bataille,

Et le Mâtin était de taille

A se défendre hardiment.

Le Loup donc l’aborde humblement,

Entre en propos, et lui fait compliment

Sur son embonpoint, qu’il admire.

“Il ne tiendra qu’à vous beau sire,

D’être aussi gras que moi, lui repartit le Chien.

Quittez les bois, vous ferez bien:

Vos pareils y sont misérables,

Cancres, haires, et pauvres diables,

Dont la condition est de mourir de faim.

Car quoi? rien d’assuré: point de franche lippée:

Tout à la pointe de l’épée.

Suivez-moi: vous aurez un bien meilleur destin.”

Le Loup reprit: “Que me faudra-t-il faire?

Presque rien, dit le Chien, donner la chasse aux gens

Portants bâtons, et mendiants;

Flatter ceux du logis, à son Maître complaire:

Moyennant quoi votre salaire

Sera force reliefs de toutes les façons:

Os de poulets, os de pigeons,

Sans parler de mainte caresse.”

Le Loup déjà se forge une félicité

Qui le fait pleurer de tendresse.

Chemin faisant, il vit le col du Chien pelé.

“Qu’est-ce là? lui dit-il. – Rien. – Quoi? rien? – Peu de chose.

Mais encor? – Le collier dont je suis attaché

De ce que vous voyez est peut-être la cause.

Attaché? dit le Loup: vous ne courez donc pas

Où vous voulez? – Pas toujours ; mais qu’importe?

Il importe si bien, que de tous vos repas

Je ne veux en aucune sorte,

Et ne voudrais pas même à ce prix un trésor.”

Cela dit, maître Loup s’enfuit, et court encor.

Dịch

Chó rừng kia xương ngoài da bọc

Bởi chó nhà săn sóc trông nom

Bữa kia gặp một chó xồm

Tròn quay béo mượt, phải hôm chạy quàng

Chó rừng cũng tính choang một mẻ

Vồ anh kia mà xé thịt ra

Ngặt rằng chó lớn thực thà

Ví bằng đấu sức ai đà dám đoan

Rằng chó rừng quyết toan được trận

Sơn cẩu ta đành phận khiêm cung

Lại gần rủ rỉ nói cùng

Khen anh chó nọ mượt lông đẫy mình

Chó rằng: – Ví tiên sinh muốn vậy

Có khó chi việc ấy mà thèm

Ngài nên từ chốn sơn nham

Là nơi kham khổ ở làm chi đây

Gầy lõ thịt một dây cùng kiết

Các ông đây thảm thiết đói dài

Được bữa hôm, khó bữa mai

Tháng ngày chăm chắm miệng nhai vẫn thèm

Cứ theo ta thử xem một chuyến

Chó rừng bèn gạ chuyện một khi:

Muốn được vậy phải làm gì?

Đáp rằng: – khó chi đâu mà

Đồ rách rưới đi qua cửa ngõ

Thì sủa ran đuổi nó đi xa

Ngày ngày nịnh hót chủ nhà

Vẫy đuôi mừng rỡ ai mà chẳng thương

Chỉ có vậy bữa thường cơm cháo

Thịt cùng gà xương xẩu thiếu chi

Lại còn chủ mến vuốt ve

Chó rừng ưng vậy theo đi nửa đường

Chợt nom thấy một khoang cổ chó

Hỏi khoang gì, thì nó chối không

Hỏi đi hỏi lại kỳ cùng

Cho ra cái vết trụi lông là gì

Chó một mực lì lì chẳng nói

Cái vặt này, ngài hỏi làm chi?

Tái tam hỏi lại hỏi đi

Thì ra vết xích còn ghi rành rành

Chết nỗi! Thế ra anh phải buộc!

Muốn chạy rong không được hay sao?

Chó rằng: – Buộc mãi đâu nào

Họa là mới xích chẳng bao lâu mà

Dẫu chẳng mấy cũng là phải xích

Cái tự do gì thích cho tầy!

Thôi thôi, mặc bữa no say

Ngàn vàng hồ dễ sánh thảnh thơi!

Chó rừng chạy riết một thôi…

Bò, dê, cừu lập hội với sư tử

La génisse, la chèvre et leur soeur la brebis,

Avec un fier lion, seigneur du voisinage,

Firent société, dit-on, au temps jadis,

Et mirent en commun le gain et le dommage.

Dans les lacs de la chèvre un cerf se trouva pris.

Vers ses associés aussitôt elle envoie.

Eux venus, le lion par ses ongles compta,

Et dit: “Nous sommes quatre à partager la proie”.

Puis, en autant de parts le cerf il dépeça;

Prit pour lui la première en qualité de sire:

“Elle doit être à moi, dit-il, et la raison,

C’est que je m’appelle lion:

A cela l’on n’a rien à dire.

La seconde, par droit, me doit échoir encor:

Ce droit, vous le savez, c’est le droit du plus fort.

Comme le plus vaillant, je prétends la troisième.

Si quelqu’une de vous touche à la quatrième,

Je l’étranglerai tout d’abord

Dịch

Bò, Dê với ả Cừu, ba mụ

Cùng đại vương Sư Tử oai hùng

Chúa sơn lâm ở trong rừng

Cùng nhau lập hội, tính chung lãi lời

Dê đánh bẫy được nai một chú

Vội vã mời đông đủ hội viên

Tựu tề đủ mặt bốn bên

Soạc chân, Sư Tử đếm trên vuốt ngài

Rằng: “Bốn ta chia mồi làm bốn”

Sả nai ra, Sư chọn phần đầu

“Đây phần chúa tể là tao

Danh xưng Sư Tử, quyền cao lưu truyền”

Cái lý ấy hội viên chịu cứng

Phần thứ hai lại cũng: “Về tao!

Quyền này không biết hay sao?

Là quyền kẻ mạnh, đứa nào dám tranh?”

Phần ba Sư lại giành lấy mất

Bởi “Tao đây đệ nhất anh hùng!

Phần tư bay cũng đừng hòng

Đứa nào đụng đến thì ông thịt liền?”

Xem thêm:  Chùm thơ hay viết về núi Bà Đen (Tây Ninh)

Cái bị

Jupiter dit un jour: “Que tout ce qui respire

S’en vienne comparaître aux pieds de ma grandeur:

Si dans son composé quelqu’un trouve à redire,

Il peut le déclarer sans peur;

Je mettrai remède à la chose.

Venez, Singe; parlez le premier, et pour cause.

Voyez ces animaux, faites comparaison

De leurs beautés avec les vôtres.

Etes-vous satisfait? – Moi? dit-il, pourquoi non?

N’ai-je pas quatre pieds aussi bien que les autres?

Mon portrait jusqu’ici ne m’a rien reproché;

Mais pour mon frère l’Ours, on ne l’a qu’ébauché:

Jamais, s’il me veut croire, il ne se fera peindre.”

L’Ours venant là-dessus, on crut qu’il s’allait plaindre.

Tant s’en faut: de sa forme il se loua très fort

Glosa sur l’Eléphant, dit qu’on pourrait encor

Ajouter à sa queue, ôter à ses oreilles;

Que c’était une masse informe et sans beauté.

L’Eléphant étant écouté,

Tout sage qu’il était, dit des choses pareilles.

Il jugea qu’à son appétit

Dame Baleine était trop grosse.

Dame Fourmi trouva le Ciron trop petit,

Se croyant, pour elle, un colosse.

Jupin les renvoya s’étant censurés tous,

Du reste, contents d’eux ; mais parmi les plus fous

Notre espèce excella ; car tout ce que nous sommes,

Lynx envers nos pareils, et Taupes envers nous,

Nous nous pardonnons tout, et rien aux autres hommes:

On se voit d’un autre oeil qu’on ne voit son prochain.

Le Fabricateur souverain

Nous créa Besaciers tous de même manière,

Tant ceux du temps passé que du temps d’aujourd’hui:

Il fit pour nos défauts la poche de derrière,

Et celle de devant pour les défauts d’autrui.

Dịch

Thiên vương một buổi phán truyền:

“Muôn loài sinh vật sống trên hoàn cầu

Dưới bệ ngọc hãy đến chầu

Hình hài có lệch cứ tâu Trẫm tường

Đừng , nói đàng hoàng

Lệch đâu Trẫm sẽ lo toan sửa liền

Khỉ kia, vì lẽ hiển nhiên

Cho vào tâu báo trước tiên sự tình

Trông vạn vật sánh với mình

So bề xấu đẹp tường trình. Thoả chăng?”

Khỉ ta quỳ gối tâu rằng:

“Muôn tâu thánh đế, ngẫm thằng Khỉ tôi

Có chi mà chẳng thoả đời

Cũng bốn chân, há kém loài khác sao!

Chân dung ngắm chẳng thẹn nào

Kìa xem chú Gấu, ối chao, dị hình!

Theo tôi chú chẳng ưng tình

Để tay hoạ sĩ vẽ mình cho đang!”

Gấu ra, tưởng Gấu phàn nàn

Té ra Gấu cũng nỏm nang khoe mình

Lại chê Voi mới xấu hình

Tai nên xén bớt, đuôi đành nối thêm

Thực là một đống thịt lèn

Có chi là đẹp, là nền, là xinh?

Voi dù có tiếng thông minh

Cũng lời lẽ giống hai anh vừa rồi

Tâu rằng: “Cứ ý riêng tôi

Cá Voi bà nọ, ối trời! quá to”

Kiến Kềnh tự đắc khổng lồ

Coi khinh Bọ Mạt là đồ tí teo

Tự phán xong, tan buổi chầu

Ra về, các giống xem chiều hả hê

Người so với các vật kia

Chủ quan ngu dại có khi gấp mười

Mắt tinh xoi mói xấu người

Xấu mình, mắt hoá mù rồi thấy đâu!

Tật mình xí xoá kể đâu

Tật người bới móc ra đầu ra đuôi

Nhìn mình bằng một con ngươi

Giương con mắt khác thấy người kém ta

Hoá Công cũng khéo chua ngoa

Sinh người đeo bị, chẳng qua một nòi

Xưa nay, âu cũng thế thôi

Bị may hai túi rạch ròi khác nhau

Lỗi mình ta nhét túi sau

Lỗi người túi trước, lầm đâu được mà!

và lũ chim nhỏ

Une Hirondelle en ses voyages

Avait beaucoup appris.

Quiconque a beaucoup vu

Peut avoir beaucoup retenu.

Celle-ci prévoyait jusqu’aux moindres orages,

Et devant qu’ils fussent éclos,

Les annonçait aux Matelots.

Il arriva qu’au temps que le chanvre se sème,

Elle vit un manant en couvrir maints sillons.

“Ceci ne me plaît pas, dit-elle aux Oisillons:

Je vous plains ; car pour moi, dans ce péril extrême,

Je saurai m’éloigner, ou vivre en quelque coin.

Voyez-vous cette main qui par les airs chemine?

Un jour viendra, qui n’est pas loin,

Que ce qu’elle répand sera votre ruine.

De là naîtront engins à vous envelopper,

Et lacets pour vous attraper,

Enfin mainte et mainte machine

Qui causera dans la saison

Votre mort ou votre prison:

Gare la cage ou le chaudron!

C’est pourquoi, leur dit l’Hirondelle,

Mangez ce grain; et croyez-moi.”

Les Oiseaux se moquèrent d’elle:

Ils trouvaient aux champs trop de quoi.

Quand la chènevière fut verte,

L’Hirondelle leur dit: “Arrachez brin à brin

Ce qu’a produit ce maudit grain,

Ou soyez sûrs de votre perte.

Prophète de malheur, babillarde, dit-on,

Le bel emploi que tu nous donnes!

Il nous faudrait mille personnes

Pour éplucher tout ce canton.”

La chanvre étant tout à fait crue,

L’Hirondelle ajouta: “Ceci ne va pas bien;

Mauvaise graine est tôt venue.

Mais puisque jusqu’ici l’on ne m’a crue en rien,

Dès que vous verrez que la terre

Sera couverte, et qu’à leurs blés

Les gens n’étant plus occupés

Feront aux oisillons la guerre;

Quand reginglettes et réseaux

Attraperont petits Oiseaux,

Ne volez plus de place en place,

Demeurez au logis, ou changez de climat:

Imitez le Canard, la Grue, et la Bécasse.

Mais vous n’êtes pas en état

De passer, comme nous, les déserts et les ondes,

Ni d’aller chercher d’autres mondes;

C’est pourquoi vous n’avez qu’un parti qui soit sûr:

C’est de vous renfermer aux trous de quelque mur.”

Les Oisillons, las de l’entendre,

Se mirent à jaser aussi confusément

Que faisaient les Troyens quand la pauvre Cassandre

Ouvrait la bouche seulement.

Il en prit aux uns comme aux autres:

Maint oisillon se vit esclave retenu.

Nous n’écoutons d’instincts que ceux qui sont les nôtres,

Et ne croyons le mal que quand il est venu.

Xem thêm:  Duyên thơ - Thy Mai

Dịch

Con én nọ đi nhiều, lịch lãm

Đã thấy nhiều, nên hắn nhớ nhiều

Tiên tri nắng sớm, gió chiều

Những người thủy thủ nghe theo, đề phòng

Một hôm nọ, trên đồng Én thấy

Ông gieo cấy hạt gai

Én ta tỏ vẻ bất hài

Gọi đàn chim nhỏ mách bài liệu thân

“Tụi én tao không cần phải sợ

Tao có tài dời chỗ, đi xa

Hạt gai lão ấy tung ra

Không lâu nó mọc như là cỏ may

Nhổ về để xe dây, kết lưới

Thân chúng mày sao khỏi lo âu

Thấy không lồng sắt, nồi sâu

Là nơi đợi sẵn tóm thâu chúng mày

Tin tao đi! Phải ngay lập tức

Tìm hạt gai ăn hết ngay đi”

Đàn chim nhỏ vẫn hồ nghi

Đồng kia nào có thiếu gì thức ăn

Sau gai nọ mọc xanh kín đất

Én lại rằng: “Bay bứt nó đi

Không thì chết hết còn gì!”

Đàn chim chế nhạo: “Tiên tri thực kỳ!

Nếu muốn nhổ hết đi gai ấy

Phải ngàn tên họa mới nên công”

Rồi gai lớn chóng khác thường

Én than: “Thôi hỏng bởi không nghe lời

Ít tháng nữa khắp nơi mì nẩy

Bọn nông gia không mấy bận làm

Là khi bay sẽ bất an

Đừng nên bay lượn từng đàn khơi khơi

Vì lúc đó khắp nơi lưới bẫy

Bắt tụi mày, chớ dại lại gần

Bay khôn rời khỏi ruộng đồng

Như bọn vịt bể, bồ nông rẽ ngàn

Hoặc bay hãy ở yên trong tổ”

Mọi lời khuyên gạt bỏ không nghe

Đua nhau ca hót chích chòe

Nhiều chim mắc phải lưới vè nông gia

Theo bản năng vốn ta sẵn có

Ta chỉ tin những chỗ thân tình

Hại rồi, hối chỉ khổ tâm

Chuột tỉnh và chuột đồng

Autrefois le Rat de ville

Invita le Rat des champs,

D’une façon fort civile,

A des reliefs d’Ortolans.

Sur un Tapis de Turquie

Le couvert se trouva mis.

Je laisse à penser la vie

Que firent ces deux amis.

Le régal fut fort honnête,

Rien ne manquait au festin;

Mais quelqu’un troubla la fête

Pendant qu’ils étaient en train.

A la porte de la salle

Ils entendirent du bruit:

Le Rat de ville détale;

Son camarade le suit.

Le bruit cesse, on se retire:

Rats en campagne aussitôt;

Et le citadin de dire:

Achevons tout notre rôt.

C’est assez, dit le rustique;

Demain vous viendrez chez moi:

Ce n’est pas que je me pique

De tous vos festins de Roi;

Mais rien ne vient m’interrompre:

Je mange tout à loisir.

Adieu donc; fi du plaisir

Que la crainte peut corrompre.

Dịch

anh Chuột tỉnh

Mời chú bạn Chuột đồng

Một cách rất lịch thiệp

Dự tiệc thừa nem công

Trên khăn bàn thổ cẩm

Bát đĩa bày xênh xang

Tiệc tùng đôi bạn ấy

Phè phỡn lọ phải bàn

Chè chén tươm ra phết

Cao lương chẳng thiếu gì

Xịch có ai phá đám

Đôi bạn đang tì tì

Ngoài cửa buồng lạch cạch

Nghe tiếng động hoảng hồn

Chuột tỉnh mau chân tếch

Chuột bạn theo sau chuồn

Hết động khỏi

Chuột lóc nhóc ra ngay

Anh kẻ chợ mời bạn:

“Chén nốt món thịt quay”

Chú nhà quê: “Xin đủ!

Mai bác đến chơi nhà

Tôi chẳng dám bày vẽ

Thết bạn tiệc hoàng gia

Nhưng không bị cụt hứng

Tôi ăn uống thảnh thơi

Chào bác, cứ nơm nớp

Còn cóc gì thú vui!”

Sói và cừu non

La raison du plus fort est toujours la meilleure:

Nous l’allons montrer tout à l’heure.

Un Agneau se désaltérait

Dans le courant d’une onde pure.

Un Loup survient à jeun qui cherchait aventure,

Et que la faim en ces lieux attirait.

Qui te rend si hardi de troubler mon breuvage?

Dit cet animal plein de rage:

Tu seras châtié de ta témérité.

Sire, répond l’Agneau, que votre Majesté

Ne se mette pas en colère ;

Mais plutôt qu’elle considère

Que je me vas désaltérant

Dans le courant,

Plus de vingt pas au-dessous d’Elle,

Et que par conséquent, en aucune façon,

Je ne puis troubler sa boisson.

Tu la troubles, reprit cette bête cruelle,

Et je sais que de moi tu médis l’an passé.

Comment l’aurais-je fait si je n’étais pas né?

Reprit l’Agneau, je tette encor ma mère.

Si ce n’est toi, c’est donc ton frère.

Je n’en ai point. – C’est donc quelqu’un des tiens:

Car vous ne m’épargnez guère,

Vous, vos bergers, et vos chiens.

On me l’a dit: il faut que je me venge.

Là-dessus, au fond des forêts

Le Loup l’emporte, et puis le mange,

Sans autre forme de procès

Dịch

Lý kẻ mạnh bao giờ cũng nhất

Xin chứng minh lập tức châm ngôn

Một hôm có chú cừu non

Ung dung uống nước trên dòng suối trong

Nơi lão sói đói thường mò đến

Lúc này đây xuất hiện bất thần:

“Tên kia sao dám táo gan

Nước của ta, mày tới làm đục lên?

Tiếng sói thét giữa cơn điên

Táo gan ta phải trị liền mới xong”

Cừu thưa: “Xin Đức Ông chớ giận

Mà xét cho thực trạng như vầy

Nơi con đang giải khát đây

Nằm dưới nơi uống của Ngài rất xa

Vậy không thể nói là làm đục”

“Chính mày vầy bẩn nước đây mà

Ta còn biết được năm qua

Miệng mày từng nói xấu ta rồi còn”

“Nói chi khi má con chưa đẻ

Nay con còn bú mẹ hàng ngày?”

“Chẳng mày thì thằng anh mày”

“Nhưng con đâu có” “Lũ bay rành rành:

Mày này, mấy thằng chăn, lũ chó

Chẳng tha ta, ta rõ hết rồi

Chuyến này phải báo thù thôi”

Sói già vừa nói dứt lời

Đã lao lên quật tơi bời cừu con

Cắn chết tha lên non ăn thịt

Mà chẳng cần xét xử gì hơn

La Fontaine là một trong những nhà văn và thi nhân độc đáo của thế kỷ XVII. Ông mượn những đề tài cổ điển, nhưng đã viết lại bằng một cách khác rất đặc sắc ít ai bì kịp. Những trang thơ của ông đã được Thuvientho.com dành tặng trong bài viết này, mời các bạn đón xem phần 2 vào một ngày không xa! Thân Ái!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …