Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 4

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 4

Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 4

Nhắc đến gương mặt nổi bật nhất của Pháp thì ta không quên nghĩ đến nhà thơ La Fontaine. Ông là một nhà thơ đa tài, ngoài sáng tác thơ, ông còn là một nhà tiểu thuyết vĩ đại được giới trẻ yêu thích mặc dù bị cấm bởi những ngôn từ đầy phóng túng. Ông có nhiều thi phẩm nổi tiếng, chúng đã trở thành điển hình cho các tính cách của nhà thơ. Nối tiếp phần 3 chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận những thi phẩm nổi bật nhất của thi sĩ này nhé!

Sư tử và muỗi mắt

Va-t’en, chétif Insecte, excrément de la terre

C’est en ces mots que le Lion

Parlait un jour au Moucheron.

L’autre lui déclara la guerre.

Penses-tu, lui dit-il, que ton titre de Roi

Me fasse peur ni me soucie?

Un Bœuf est plus puissant que toi,

Je le mène à ma fantaisie.

À peine il achevait ces mots

Que lui-même il sonna la charge,

Fut le Trompette et le Héros.

Dans l’abord il se met au large,

Puis prend son temps, fond sur le cou

Du Lion, qu’il rend presque fou.

Le Quadrupède écume, et son œil étincelle;

Il rugit, on se cache, on tremble à l’environ;

Et cette alarme universelle

Est l’ouvrage d’un Moucheron.

Un avorton de Mouche en cent lieux le harcelle,

Tantôt pique l’échine, et tantôt le museau,

Tantôt entre au fond du naseau.

La rage alors se trouve à son faîte montée.

L’invisible ennemi triomphe, et rit de voir

Qu’il n’est griffe ni dent en la bête irritée

Qui de la mettre en sang ne fasse son devoir.

Le malheureux Lion se déchire lui-même,

Fait résonner sa queue à l’entour de ses flancs,

Bat l’air qui n’en peut mais, et sa fureur extrême

Le fatigue, l’abat; le voilà sur les dents.

L’Insecte du combat se retire avec gloire:

Comme il sonna la charge, il sonne la victoire,

Va partout l’annoncer, et rencontre en chemin

L’embuscade d’une Araignée:

Il y rencontre aussi sa fin.

Quelle chose par là nous peut être enseignée?

J’en vois deux, dont l’une est qu’entre nos ennemis

Les plus à craindre sont souvent les plus petits;

L’autre, qu’aux grands périls tel a pu se soustraire,

Qui périt pour la moindre affaire.

Dịch

Sư tử một hôm chửi Muỗi mắt:

– Cút đi! Đồ bọ oắt thối tha!

Tức thì Muỗi mắt nhà ta

Cùng Sư tuyên chiến: “A! A! Thằng này!

Mày chớ tưởng mày là vua chúa

Thì tao đây khiếp sợ, nể vì!

Bò to gấp mấy mày kia

Mà tao cũng cứ dắt đi tùy lòng!”

Nói vừa dứt, Muỗi xông ra trận

Rúc còi lên quyết tấn công liền

Vừa lính chiến, vừa lính kèn

Thọat tiên Muỗi phóng cao lên lấy đà

Rồi dựa thế, Muỗi sà xuống gáy

Đốt cho Sư giẫy nẩy phát điên

Mép sùi, mắt quắc, gầm lên

Cả miền trốn chạy, cả miền sợ run

Cơn khủng khiếp bao trùm thế giới

Chính kỳ công của Muỗi tí hon

Gan liền con Muỗi oắt con

Nhè Sư đánh dập đánh dồn trăm nơi

Khi đốt gáy, khi chơi đúng mõm

Nhè mũi Sư chui lỏn tận cùng

Khiến cho Sư tử phát khùng

Cơn điên đã nổi đến cung tam bành

Kẻ địch thủ vô hình thắng thế

Được thể càng đắc ý cười to

Cười nanh, cười vuốt Sư rồ

Vật mình bật máu nên trò gì đâu!

Sư tử khốn cào đầu, cấu đít

Đuôi vù vù quất tít quanh hông

Đập không khí quẫy lung tung

Càng vùng càng vẫy càng không nước gì!

Cơn lục tặc cực kỳ hung dữ

Càng khiến cho Sư tử nhừ xương

Sư ta mệt lử, nằm đườn

Muỗi ta bãi chiến, vinh quang ra về

Kèn xung kích trước nghe vang dội

Khúc khải hoàn giờ lại dội vang

Loan tin chiến thắng bốn phương

Nửa đường lưới nhện lại vương vào tròng

Thế là đời Muỗi cũng tong

Chuyện này ngụ ý gì không?

Theo tôi, bài học ngụ trong hai điều:

Một là bé hạt tiêu địch thủ

Thường vẫn là đáng sợ hơn to

Hai là không chết biển hồ

Lại hay chết đuối lơ ngơ ao tù

Lừa chở bọt biển và lừa chở muối

Un Anier, son Sceptre à la main,

Menait, en Empereur Romain,

Deux Coursiers à longues oreilles.

L’un, d’éponges chargé, marchait comme un Courrier;

Et l’autre, se faisant prier,

Portait, comme on dit, les bouteilles:

Sa charge était de sel. Nos gaillards pèlerins,

Par monts, par vaux, et par chemins,

Au gué d’une rivière à la fin arrivèrent,

Et fort empêchés se trouvèrent.

L’Anier, qui tous les jours traversait ce gué-là,

Sur l’Ane à l’éponge monta,

Chassant devant lui l’autre bête,

Qui voulant en faire à sa tête,

Dans un trou se précipita,

Revint sur l’eau, puis échappa;

Car au bout de quelques nagées,

Tout son sel se fondit si bien

Que le Baudet ne sentit rien

Sur ses épaules soulagées.

Camarade Epongier prit exemple sur lui,

Comme un Mouton qui va dessus la foi d’autrui.

Voilà mon Ane à l’eau ; jusqu’au col il se plonge,

Lui, le Conducteur et l’Eponge.

Tous trois burent d’autant: l’Anier et le Grison

Firent à l’éponge raison.

Celle-ci devint si pesante,

Et de tant d’eau s’emplit d’abord,

Que l’Ane succombant ne put gagner le bord.

L’Anier l’embrassait, dans l’attente

D’une prompte et certaine mort.

Quelqu’un vint au secours: qui ce fut, il n’importe;

C’est assez qu’on ait vu par là qu’il ne faut point

Agir chacun de même sorte.

J’en voulais venir à ce point.

Xem thêm:  Giận - Song Lam

Dịch

Tay cầm trượng “coi lừa” một gã

Nhìn tựa vua La Mã oai hùng

Dài tai, hai thú đi cùng

Con mang bọt biển ung dung nhẹ nhàng

Con chở muối lần đàng dè dặt

Như chở ve, thấy thật nặng nề

Bộ ba du khách luôn kề

Băng ngàn, vượt núi, lối đi mọi ngày

Lúc thấm mệt thì đây quãng lội

Gã coi lừa lại hối tiến lên

Bắt lừa tải muối xung tiên

Chẳng may sa hố muối liền tan luôn

Lừa bọt biển học khôn mà

Cũng bước theo xuống đại hố này

Nước vô bọt biển uống đầy

Khiến lừa và cả ông thầy bị nguy

Không lên được, nước thì đến cổ

Chết đến nơi cả chủ lẫn lừa

Quáng mù bắt chước ngu chưa!

Con cừu gương cũ bây giờ phải soi

Sư tử và chuột

Il faut, autant qu’on peut, obliger tout le monde:

On a souvent besoin d’un plus petit que soi.

De cette vérité deux Fables feront foi,

Tant la chose en preuves abonde.

Entre les pattes d’un Lion

Un Rat sortit de terre assez à l’étourdie.

Le Roi des animaux, en cette occasion,

Montra ce qu’il était, et lui donna la vie.

Ce bienfait ne fut pas perdu.

Quelqu’un aurait-il jamais cru

Qu’un Lion d’un Rat eût affaire?

Cependant il advint qu’au sortir des forêts

Ce Lion fut pris dans des rets,

Dont ses rugissements ne le purent défaire.

Sire Rat accourut, et fit tant par ses dents

Qu’une maille rongée emporta tout l’ouvrage.

Patience et longueur de temps

Font plus que force ni que rage.

Dịch

Với mọi người vui lòng giúp đỡ

Nhiều khi cần kẻ nhỏ hơn ta

Ngụ ngôn đôi chuyện nêu qua

Còn bao sự việc thật là đáng tin

Chúa sơn lâm có Sư tử nọ

Chuột lơ ngơ vừa ló ra ngoài

Nhảy vào chân chúa, chao ôi!

Bao dong lượng cả, may đời Chuột con

Ơn trời bể Chuột còn ghi nhớ

Có ai ngờ chúa lỡ sa cơ

Lọt trong tấm lưới bất ngờ

Chúa gầm, chúa rống chỉ chờ chết thôi

Chuột chạy vội đến nơi nguy hiểm

Dùng hàm răng gậm nhấm lưới dày

Một mắt đứt kéo cả dây

Thời giờ không tiếc lại dày kiên tâm

Khỏe gân, cuồng nhiệt sao bằng

Bồ câu và kiến

L’autre exemple est tiré d’animaux plus petits.

Le long d’un clair ruisseau buvait une Colombe,

Quand sur l’eau se penchant une Fourmi y tombe.

Et dans cet océan l’on eût vu la Fourmi

S’efforcer, mais en vain, de regagner la rive.

La Colombe aussitôt usa de charité:

Un brin d’herbe dans l’eau par elle étant jeté,

Ce fut un promontoire où la Fourmi arrive.

Elle se sauve; et là-dessus

Passe un certain Croquant qui marchait les pieds nus.

Ce Croquant, par hasard, avait une arbalète.

Dès qu’il voit l’Oiseau de Vénus

Il le croit en son pot, et déjà lui fait fête.

Tandis qu’à le tuer mon Villageois s’apprête,

La Fourmi le pique au talon.

Le Vilain retourne la tête:

La Colombe l’entend, part, et tire de long.

Le soupé du Croquant avec elle s’envole:

Point de Pigeon pour une obole.

Dịch

Dòng suối trong, Bồ câu giải khát

Kiến rơi vào, làn nước cuốn đi

Kiến bơi, Kiến quậy ích gì?

biển cả dễ chi vào bờ?

Bồ câu liền tỏ ra phúc đức

Cọng cỏ khô chim bứt thả theo

Cỏ như doi đất, Kiến leo

Từ trong tai biến hiểm nghèo vượt ra

Vừa lúc ấy chợt qua nơi đó

Một anh chàng bần khổ, chân không

Tình cờ tay lại xách cung

Thấy chim chắc mẩm miếng ngon vào nồi

Anh nhà quê nhắm rồi, sắp bắn

Kiến đốt ngay gót hắn một mồi

Hắn quay đầu lại tức thời

Bồ câu nghe động, một thôi bay vèo

Cùng chim tiệc cũng bay theo

Chẳng còn lấy tí tị teo quệt mồm

Thỏ và lũ ếch

Un Lièvre en son gîte songeait

(Car que faire en un gîte, à moins que l’on ne songe?);

Dans un profond ennui ce Lièvre se plongeait:

Cet animal est triste, et la crainte le ronge.

“Les gens de naturel peureux

Sont, disait-il, bien malheureux.

Ils ne sauraient manger morceau qui leur profite;

Jamais un plaisir pur; toujours assauts divers.

Voilà comme je vis: cette crainte maudite

M’empêche de dormir, sinon les yeux ouverts.

Corrigez-vous, dira quelque sage cervelle.

Et la peur se corrige-t-elle?

Je crois même qu’en bonne foi

Les hommes ont peur comme moi.”

Ainsi raisonnait notre Lièvre,

Et cependant faisait le guet.

Il était douteux, inquiet:

Un souffle, une ombre, un rien, tout lui donnait la fièvre.

Le mélancolique animal,

En rêvant à cette matière,

Entend un léger bruit: ce lui fut un signal

Pour s’enfuir devers sa tanière.

Il s’en alla passer sur le bord d’un étang.

Grenouilles aussitôt de sauter dans les ondes;

Grenouilles de rentrer en leurs grottes profondes.

“Oh! dit-il, j’en fais faire autant

Qu’on m’en fait faire! Ma présence

Effraie aussi les gens! je mets l’alarme au camp!

Et d’où me vient cette vaillance?

Comment? Des animaux qui tremblent devant moi!

Je suis donc un foudre de guerre!

Il n’est, je le vois bien, si poltron sur la terre

Qui ne puisse trouver un plus poltron que soi.”

Xem thêm:  Tháng ba này - Hồng Lĩnh

Dịch

Con thỏ rừng nằm nơi núp ẩn

Nó suy tư chìm đắm u buồn

Sợ lo giảm sút tinh thần

Những người nhút nhát thập phần đáng thương

Ăn uống cũng phập phồng để ý

Khắp tứ bề e bị tấn công

Thú vui toàn vẹn tất không

Cái đời tôi sống vô cùng khổ thân

Sự sợ hãi gây nên mất ngủ

Suốt ngày đêm đồng tử láo liên

Người khôn họ bảo tôi rằng

Tánh kia hãy sửa, anh đừng giữ chi

Tánh nhút nhát bỏ đi đuợc hả?

Tôi nghĩ người cũng sợ như tôi

Thỏ ta suy luận

Canh chừng mọi thứ nhỏ nhoi bên mình

Bỗng nghe tiếng ở gần động nhẹ

chạy lẹ về hang

Bôn qua ao nhỏ bên làng

Lũ ếch thấy động vội vàng rút lui

Con xuống nước, con chui vào lỗ

Thỏ rừng ta tự nhủ: “Lạ thay!

Người làm tôi chạy như bay

Tôi làm kẻ khác chạy dài thấy chưa?

Tôi xuất hiện làm lo kẻ khác

Cả trại này nhớn nhác vì tôi

Tại sao tôi lại có oai?

Sao con vật khác gặp tôi rụng rời?

Vậy hung tướng là tôi đích thực

Mọi người đều nhút nhát như nhau

Dù mình nhút nhát đến đâu

Kẻ nhát hơn nữa đàng sau thiếu gì”

Gà trống và hồ ly

Sur la branche d’un arbre était en sentinelle

Un vieux Coq adroit et matois.

Frère, dit un Renard adoucissant sa voix,

Nous ne sommes plus en querelle:

Paix générale cette fois.

Je viens te l’annoncer; descends que je t’embrasse;

Ne me retarde point, de grâce:

Je dois faire aujourd’hui vingt postes sans manquer.

Les tiens et toi pouvez vaquer,

Sans nulle crainte à vos affaires:

Nous vous y servirons en frères.

Faites-en les feux dès ce soir,

Et cependant, viens recevoir

Le baiser d’amour fraternelle.

Ami, reprit le Coq, je ne pouvais jamais

Apprendre une plus douce et meilleure nouvelle

Que celle

De cette paix;

Et ce m’est une double joie

De la tenir de toi. Je vois deux Lévriers,

Qui, je m’assure, sont courriers

Que pour ce sujet on envoie.

Ils vont vite, et seront dans un moment à nous.

Je descends: nous pourrons nous entre-baiser tous.

Adieu, dit le Renard, ma traite est longue à faire,

Nous nous réjouirons du succès de l’affaire

Une autre fois. Le Galand aussitôt

Tire ses grègues, gagne au haut,

Mal content de son stratagème;

Et notre vieux Coq en soi-même

Se mit à rire de sa peur

Car c’est double plaisir de tromper le trompeur.

Dịch

Trên cành cây con gà trống đậu

Đã lại láu việc đời

Hồ ly đến ngọt mấy lời:

Đôi ta hết giận, tới thời hòa an

Nay trong khắp thế gian thân ái

Tình anh em tôi lại thưa anh

Xuống đây hôn cái tỏ tình

Trăm nơi còn phải chạy nhanh mới cùng

Rầy mặc sức vẫy vùng đi lại

Tôi với anh hết hại lẫn nhau

Từ đây anh chớ lo âu

Khi nào có việc muốn cầu đến em

Gọi một tiếng ngày đêm cũng lại

Xuống đây hôn gọi ngãi đồng-bào

Gà rằng: – Mầng rỡ xiết bao!

Tin này biết lấy cách nào tỏ vui?

Lời anh nói thì tôi thêm trọng

Kìa ngó xa thấy bóng chó săn

Hai anh đương chạy tới gần

Ý chừng cũng một tin thân ái này

Đợi tôi đó xuống ngay lập tức

Để bốn ta cùng được hôn nhau…

Hồ ly nghe chửa dứt câu

Vội vàng một mạch cắm đầu chạy nhanh

Thôi anh nghỉ để dành khi khác

Kẻo em còn chạy các nơi xa

Nói rồi cẳng bốn chân ba

Nghĩ mưu không đắt, Hồ ta giận mình

Gà thấy hắn thất kinh đắc ý:

Lừa thằng gian thích chí dường bao!

Xem thêm:  Lời thề cỏ may ( Phạm Công Trứ ) – Nuối tiếc tình cảm năm xưa

Quạ bắt chước đại bàng

L’Oiseau de Jupiter enlevant un Mouton,

Un Corbeau, témoin de l’affaire,

Et plus faible de reins, mais non pas moins glouton,

En voulut sur l’heure autant faire.

Il tourne à l’entour du troupeau,

Marque entre cent Moutons le plus gras, le plus beau,

Un vrai Mouton de sacrifice

On l’avait réservé pour la bouche des Dieux.

Gaillard Corbeau disait, en le couvant des yeux

Je ne sais qui fut ta nourrice;

Mais ton corps me paraît en merveilleux état

Tu me serviras de pâture

Sur l’animal bêlant à ces mots il s’abat.

La moutonnière créature

Pesait plus qu’un fromag; outre que sa toison

Etait d’une épaisseur extrême,

Et mêlée à peu près de la même façon

Que la barbe de Polyphème.

Elle empêtra si bien les serres du Corbeau,

Que le pauvre Animal ne put faire retraite.

Le Berger vient, le prend, l’encage bien et beau

Le donne à ses enfants pour servir d’amusette.

Il faut se mesurer; la conséquence est nette

Mal prend aux volereaux de faire les voleurs.

L’exemple est un dangereux leurre

Tous les mangeurs de gens ne sont pas grands seigneurs;

Où la Guêpe a passé, le Moucheron demeure.

Dịch

Thấy đại bàng quắp con cừu sống

Quạ yếu hèn nhưng cũng háu ăn

Lập tức chàng muốn đi săn

Lượn vòng nhiều lượt quanh đàn trăm con

Thấy một chú béo tròn nhất hội

Thêm dáng hình xiết nỗi đẹp xinh

Hẳn đây là vật hiến sinh

Quạ ngắm nó, nói một mình như sau:

“Ai cho mày bú, tao không biết

Nhưng tấm thân mày thật

Vậy là trúng mánh thực rồi

Quạ này mà đã ăn thời ra ăn”

Dứt lời nhằm mồi săn sà xuống

Toàn thân cừu lông cuộn rất sai

Cừu nặng hơn miếng phô mai

Cho nên vuốt quạ cào hoài không xong

Móng lại mắc vào lông nữa chứ

Tiến hay lui chết dở cả rồi

Người chăn cừu đến tận nơi

Biến chàng quạ thành đồ chơi nhi đồng

Bằng cách bắt lấy bỏ lồng

Hậu quả rõ, liệu chừng lượng sức

Rạch túi sao khoét được tường người

Mẹo lừa nguy hiểm lắm thôi

Ăn người không phải là nòi đại phu

Vò vẽ ra thoát nơi mô

Y rằng ruồi nhặng dính vô đó liền

Con công và nữ thần

Le Paon se plaignait à Junon:

« Déesse, disait-il, ce n’est pas sans raison

Que je me plains, que je murmure ;

Le chant dont vous m’avez fait don

Déplaît à toute la Nature:

Au lieu qu’un Rossignol, chétive créature,

Forme des sons aussi doux qu’éclatants,

Est lui seul l’honneur du Printemps. »

Junon répondit en colère:

« Oiseau jaloux, et qui devrais te taire,

Est-ce à toi d’envier la voix du Rossignol?

Toi que l’on voit porter à l’entour de ton col

Un arc-en-ciel nué de cent sortes de soies ;

Qui te panades, qui déploies

Une si riche queue, et qui semble à nos yeux

La Boutique d’un Lapidaire.

Est-il quelque Oiseau sous les Cieux

Plus que toi capable de plaire?

Tout Animal n’a pas toutes propriétés.

Nous vous avons donné diverses qualités:

Les uns ont la grandeur et la force en partage ;

Le Faucon est léger, l’Aigle plein de courage,

Le Corbeau sert pour le présage,

La Corneille avertit des malheurs à venir:

Tous sont contents de leur ramage.

Cesse donc de te plaindre, ou bien pour te punir

Dịch

Công kia than với Nữ thần:

Lòng con thấy khổ muôn phần, Người ơi!

Giọng ca con hát mỗi lời

Thiên nhiên khiếp sợ, mọi người cười chê.

Sơn ca cất tiếng, ;

Du dương, thánh thót, đê mê tuyệt trần,

Vinh dự nhất của mùa Xuân,

Đất trời bừng dậy, nhân quần khen hay

Nữ thần nổi giận, phán ngay:

Tham lam, đố kỵ! Loại này khó tha.

Phải mi muốn giọng Sơn ca?

Vậy mi hãy trả lại ta chiếc vòng,

Bộ đuôi bảy sắc cầu vồng

Như ngàn đôi mắt mênh mông đất trời

dáng dấp tuyệt vời

Sắc màu ngọc quí ngời ngời ánh sao

Mi hãy nhìn trước, trông sau

Xem đời ai có màu như mi?

Đại bàng dũng cảm ai bì,

Chim cắt vun vút ai thì nhanh hơn,

Quạ kia chỉ báo tin buồn,

Chích choè , luôn luôn tin mừng.

Mỗi loài đều thấy ung dung

Phẩm chất có được tưng bừng lời ca.

Làm cho thế mạnh thăng hoa

Muôn loài hoà hợp mới là niềm vui.

Đừng đố kỵ nữa, người ơi!

Trên đây, Thuvientho.com đã dành tặng đến quý độc giả những tuyệt phẩm vang danh nhất của nhà thơ La Fontaine. Qua đó, chúng tôi tin rằng đã giúp được các bạn nhận ra được những cũng như phong cách sáng tác thơ tuyệt vời của nhà thơ Pháp này! Mời các bạn đón xem phần 5 vào một ngày không xa nhé! Thân Ái!

Xem Thêm:Nhà thơ La Fontaine và trọn bộ trang thơ ấn tượng nhất phần 3

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …