Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và phần Bản quốc ngữ Hương Sơn (Sấm ký)

Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và phần Bản quốc ngữ Hương Sơn (Sấm ký)

Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và phần Bản quốc ngữ Hương Sơn (Sấm ký)

Bản Quốc ngữ Hương Sơn của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Nó vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn, Hà Nội. Theo đánh giá của nhiều bạn đọc bản này cũng giống với bản Nam Kỳ phát hành năm 1948. Đây là một bản sấm có kết cấu đặc biệt với nhiều thể loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, song thất lục bát. Hãy cùng tìm hiểu bản quốc ngữ Hương Sơn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bạn nhé!

Bản quốc ngữ Hương Sơn

I

Nước Nam thường có thánh tài

Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng

Kia Nhị thuỷ nọ Đao sơn

Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho

Học cách vật mới dò tới chốn

Chép ghi làm một bản xem chơi

Muôn việc cũng bởi tại trời

Suy thông mới biết sự đời nhường bao

Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy

Truyền hậu thế ai nấy xem cho

Những lời nghiêm ngặt khôn lo

Ai mà biết được trượng phu nên người.

Nay xem chữ một nghĩa mười

Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên

Kể từ Lạc Long Quân dựng nước

Sang Hùng Vương được mười tám đời

Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi

Cờ lau lập trận thay trời trị dân

Mão được mười hai dư xuân

Lê Hoàn kế vị xa gần âu ca

Truyền đã được mười ba rằm lẻ

Đến Ngoạ triều nào kể

Ngôi trời truyền đến Lý nay

Long thành bát diệp đến ngày dực phân

Chiều Hoàng là ả nữ quân

Mê về nhan sắc trào Trần thái tôn

…….

Trăm bảy mươi in dấu thất niên

Đông A chốn ấy còn bền

Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam

Thái ngu được mười bốn năm

Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi

Suy ra mới biết sự trời

Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia

Mười đời ngồi ngự ngai vàng

Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh su

Xưa làm lực sỹ đồ du

Trời cho nên trị làm vua một đời

Sáu mươi năm bất tái hồi

Tống Sơn chốn ấy có đời thạch công

Định mưu phù lập Trang Tôn

Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương

Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn

Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia

Tây Sơn sừng sực kéo ra

Nghiệm xem thế tục gọi là hiệu chi?

II. Lại có ngạn rằng:

Đầu cha chắp lấy đầu con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

III. Có thơ rằng:

Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân

Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi

Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê

Nọ nào ngang dọc trong huê

Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn

Chó mừng chủ, gà cũng cục tác

Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

IV. Ngạn lại có câu rằng:

Gà bỏ con kêu cục tác

Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa

Lợn ăn no ủn ỉn nằm

Mới kể là đời thịnh thế

Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai

Bởi Tần Vương u mê chẳng biết

Rồi phen này dê lại giết dê

Tới khi thực tận binh bì

Âm binh ở giữa ai thì biết sao!

Trời cho ta giơ dao giết quỷ

Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư

Ai từng cứu con thơ sa giếng

Giốc một lòng chinh chiến đua nhau

Muôn dân chịu thuở âu sầu

Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho

Chốn đông nam là nơi khổ ải

Lánh cho xa kẻo phải đao binh

Bắc kinh mới thực đế kinh,

Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Vả mình là đấng anh hào

Đánh làm sao được ước ao đêm ngày

Bò men lên núi Vu Sơn

Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù

Ấy những quân phụ thù thui thủi

Lòng trời xui ai lại biết đâu…

V. Có thơ rằng:

Dần Mão chư dương giai vị cập

Lai chiêu lục thất xuất minh quân

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ

Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.

VI. Có thơ rằng:

Hầu đáo kê lai khởi chiến qua

Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa

Anh hùng mai thảo mã

Tướng suý tận tiêu ma

Phá điền thiên tử xuất

Tràng vỹ tảo sơn hà

Gà kia bên tường khuya sớm gáy

Chẳng yêu ra áy náy bất bình.

VII. Có thơ rằng:

Một đám mây xanh đứng giữa trời

Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi

Thiên hạ mười phần còn có một

Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời

Thầy tăng mở nước trời không bảo.

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau

Chớ có tham của tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân

Đằng giang chốn ấy cũng gần

Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.

VIII. Thơ rằng:

Ba thục riêng một góc trời

Thái Nguyên một giải là nơi trú đình

Bốn bề núi đá mọc xanh

Có đường tiểu mạch nương mình ai hay

Bốn mùa chim núi đá cây

Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào

Khuyên ai là đấng anh hào

Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay

Bốn bụt xuất thế đã chầy

Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.

IX. Thơ rằng:

Ấy là điềm xuất thánh quân

Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường

Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”

Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao

Nắng lâu ắt có mưa rào

Vội chi tát nước xôn xao cày bừa

Nắng rồi thì phải có mưa

Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn

Tuần này thánh xuất khảm phương

Sự thật đã tường chẳng lọ phải say

Tuần này thiên địa chuyển hồi

Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên

Trời sai quỷ sứ dọn đường

Để cho thánh xuất khảm phương sau này

Vội chi đua sức ra tay

Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi

Suy cho thấu biết sự đời

Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

X. Thơ rằng:

1 – Tích nhất đương lang khởi bộ

2 – Ưng tri hoàng thước tại thân biên

3 – Tước bị lạm nhân cung đạn đả

4 – Lạp tự hổ lang huyên

5 – Tuệ tinh xuất long xà

6 – Thần xuất cửu cửu gia

7 – Ngưu mã thiên hạ động

8 – Đinh hạ nãi Đông A

Rồi ra mới biết thánh minh

Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò

Nhị Hà một giải quanh co

Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào

Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao

Có bến mưa rào có thứ cùng chăng

Nói đến độ Thầy Tăng mở nước

Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu

Bấy lâu những cậy phép mầu

Xem thêm:  Những bài thơ hay về kế hoạch hóa gia đình

Bây giờ phép ấy để đâu không hào?

Cũng có kẻ non trèo lội

Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.

XI. Thơ rằng:

1 – Di lặc giáng sinh

2 – Sa phù dĩ chỉ

3 – Lục thất dĩ thành

4 – Kiến long sào kinh

5 – Nhật xuất điện thượng

6 – Thiên hạ thái bình

XII. Thơ rằng:

Giang Nam nổi trận mạt thù

Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời

Phùng trời nay gặp thái lai

Can qua chiến trận để người phong công

Trẻ già được hết sự lòng

Ghi làm một bản nội phòng mở xem

Rước vua về đến Tràng An

Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn

Đời ấy cùng thánh, cùng tiên

Sinh những người hiền giúp nước yên dân.

Này những lúc thánh nhân chưa ra đời

Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu

Lợn nằm cũng thấy lợn lo

Thái bình mới động thập thò liền sang

Ngang cung văn vũ khác thường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thuỷ binh cờ xí vừng hồng

Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn

Đứng hiên ngang nào ai biết trước

Bắc kinh sang có việc gì chăng?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi

Chưa từng thấy nay đời sự lạ

Bỗng khiến người vu vạ cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa

Đã ngu Hoàn Linh đời Hán

Đúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những cậy thánh thần

Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công

Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví

Xưa phục thù ai sửa ngôi cho

Mạc kia cũng muốn nên trò

Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!

Kẻ thì tự xưng Lê nay

Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.

Bốn phương cũng có can qua

Mạc thì chẳng được đã ra lại về

Quân hùng binh dấy giang khê

Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì…

XIII. Thơ rằng:

1 – Hầu đáo kê lai vị chính kỳ

2 – Quốc dân hãm nịch quốc dân di

3 – Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống

4 – Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi

XIV. Thơ rằng:

1 – Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ

2 – Tài tận dân hao thế lực suy

3 – Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến

4 – Kham tiếu không huyền tiệm thất ky

Xem thấy những sương sam tuyết lạnh

Loài bất bình tranh cạnh

Thành ao cá nước tưng bừng

Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.

Sang thu chín huyết vừng hồng

Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần

Trẻ con mang lệnh tướng quân

Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường

Dùng uy bát là đường ngũ bá

Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan

Cỏ cây lá rụng đầy ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao còn biết có nhà Đà giang

Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường

Kiều môn án trước cao bành tựa sau

Thái nguyên cận bắc đường sau

Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ

Cùng nhau gặp mặt bây giờ

Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông

Vui mừng gặp mặt tam công

Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao

Mai kia cùng đấng anh hào

Ba người ngôi cao lộc lành

Vậy nên một áng phong tình

Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng

Bõ khi chém lợn vẽ rồng

Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu

Bõ khi kẻ việt người Hồ

Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Ngày thường trông thấy quyển vàng

Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.

Tinh thái ất giờ đời là thực

Sấm trời xem vô giá muôn phần

Kể từ đời Lạc Long Quân

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian

Một đời có một tôi ngoan

Giúp chưng nhà nước dân an thái bình

Thấy đâu bò đái thất thanh

Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi

Phá điền than đến đàn dê

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuôn buồn

Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

XV. Thơ rằng:

Ghê thay thau lẫn với vàng

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng

Thánh ra tuyết tán mây tan

Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi

Can qua việc nước bời bời

Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân

Lục thất dư ngũ bách xuân

Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.

XVI. Thơ rằng:

Quân hùng binh kéo đầy khe

Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn ai ơi

Quỷ ma chật vật biết trời là đâu?

Thương những kẻ ăn rau, ăn muối.

Gặp nước buông con cái ẩn đâu?

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Đạo trời chẳng trước thì sau chẳng nhầm

Kia những kẻ hai lòng sự chủ

Thấy đâu hơn thì phụ sở ân

Cho nên phải kiếp trầm luân

Ai khôn mới giữ được thân đời này

Nói cho hay khảm cung ong dậy

Chí anh hùng chiếm lấy mới ngoan

Chữ rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới nên anh tài

Hễ nhân kiến là đời đất cũ

Thì phụ nguyên mới trổ binh ra

Bốn phương chẳng động can qua

Quân hùng nổi dậy điều hoà làm tôi

Bấy giờ ruộng mở quy khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn.

Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh

Hoàng phúc kia đã định tay phong

Lồng lộng thế giới rạng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương

Giời sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

Xem ý trời có lòng khải thánh

Giốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai

Trên trời thấy những vì sao lạ

Dùng ở tay phụ tá vương gia

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông Bạch Sỷ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật tượng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Đời này thánh kế vi vương

Thu cả đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác thường

Thác cư một góc kim tinh phương đoài

Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi

Chờ cơ sẻ mới ra đời cứu dân

Binh thư mấy quyển kinh luân

Thiên văn nhân luân càng mầu.

Khắp đâu đâu anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây vẽ rõ vẻ rồng

Thánh nhân cư có thuỷ cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đừng tú man chi cả

Chớ tất tả chạy rông

Học cho biết nhẽ cát hung

Xem thêm:  Top 10 Bài thơ hay viết về người lính đảo

Biết phương hướng đúng, chớ đừng lầm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ nhi ngô tưởng gì đợi mong

Kìa những kẻ vội lòng phú quý

Xem trong mình một tý đều không

Ví dù có gặp Ngư Ông

Lưới chăng đầu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đứng trời trung quân tử

Lòng trung nghĩa hãy chứa cho tinh

Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh

Thái nhâm, thái ất trong mình cho hay

Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng

Học Tử Phòng cùng với Khổng Minh

Võ thông yên thuỷ thần kinh

Được vào chiến trận mới lành biết cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết trao tay miệng tiếng nói không

Ngộ may gặp hội mây rồng

Công danh rực rỡ chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí tài

Lọ là đâu phải ngược xuôi nhọc mình

Vương lương thực có vĩ kinh

Cao tay mới biết ngẫm tình năm nao.

Trên trời có mấy vì sao

Đủ cả hiền tướng anh hào đôi nơi.

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn học lấy hôm mai mới tường.

So mấy lề để tàng kim quỹ

Chờ sau này có chí mới cho.

Trước là biết nẻo tôn phù

Sau là cao trí biết lo mặc lòng

Xem đoài cung thiên thời bất tạo

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau

Chớ có tham tước, tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.

Đôi phen ong dấy rầm rầm

Muông sinh ba góc kéo quân dấy loàn

Man mác một lĩnh Hoành sơn

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là quân phục thù thai thải

Lòng trời xui ai lại biết chi

Phá điền đầu khỉ cuối thu

Tái binh mọi giống thập thò liền sang

Nọ chẳng thương trong nam khôn xiết

Vả lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Sang thu chín huyết hồng tứ giã

Nối đàn dê tranh phá đòi nơi

Đua nhau quần thán đồ lê

Bấy giờ thiên hạ khôn bề tựa nương

Kẻ thì phải thửa hung hoang

Kẻ thì binh lửa chiến tràng chết oan.

Kẻ thì mắc phải hung tàn,

Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình

Muông sinh giông tố cạnh tranh

Điêu thì làm trước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh hành

Ra đâu đánh đấy xuất binh sớm ngày

Bể thành cá phải ẩn cây

Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn ru

Thuỷ chiến bộ chiến mặc dầu đòi cơn.

Cây bay lá cháy đôi ngàn

Một làng còn thấy chim đàn bay ra.

Bốn phương cùng có can qua,

Làm sao còn biết nơi hoà bảo thân

Đoài phương thật có chân nhân

Quần tiên dĩ nghĩa chẳng phân hại người.

Hễ đông nam nhiều phen tàn tặc

Lánh cho xa kẻo mắc đao binh

Bắc kinh mới thật đế kinh,

Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào!

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.

Cấy cày tu dãi thời mùa

Bây giờ cấy ruộng lo chờ mướn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng phiền lương thêm.

Xem tượng trời biết đường đời trị

Ngẫm về sau họ lý xưa nên

Dòng nhà đã thấy dấu truyền

Ngẫm xem thế giới còn in đời đời

Thần quy có nó ở trời

Để làm thần khí sửa nơi trị trường.

XVII

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh,

Sông Bảo giang thiên định ai hay?

Lục thất cho biết ngày rầy

Phụ nguyên ấy thực ở dầy (rày) Tào khê

Có thầy nhân thập đi về

Tả hữu phù trì cây cỏ là quân

Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều đỉnh hộ mai

Bấy giờ mới biết rằng tài an dân

Nọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

XVIII. Những bài sấm ngắn:

Trời sinh thiên tử ở hoả thôn

Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử bảo giang môn

Canh tân tàn phá

Tuất hợi phục sinh

Nhị ngũ dư bình.

Nhân sinh ngọ tuế vi sư

Tị nhân vị tướng

Thìn tuất vị tôn sư

XIX. Thơ rằng:

1 – Thánh nhân hương

2 – Thuỷ chung tàng bảo cái

3 – Thánh nhân chu xứ

4 – Tử bích hoàn nhiễu, long hổ chầu vào

5 – Chỗ thánh nhân sinh ra

6 – Cận bảo giang thuỷ

7 – Thuỷ nhiễu chu toàn

8 – Thánh nhân danh

9 – Mộc hạ liên đinh khẩu

10 – Thánh nhân diện bộ đạo đức

11 – Nghi quảng tầm chương trích cú

12 – Thánh nhân dĩ hữu niên

13 – Thuỳ năng thức đắc yên

14 – Dãn nhân bất chúc nhĩ

15 – Nhập ba thục xuất thái nguyên

16 – Thánh nhân sinh ư bách sỉ tự tối linh

17 – Thử nhật thiên giáng ngũ sắc vân xích quang màn tự

18 – Tự trung dị hương, tam nhật bất tán

19 – Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị

20 – Toại chưởng dưỡng chi

21 – Thánh mẫu diện xú như lam

22 – Niên tam thập lục sinh thánh nhân

23 – Hoài nhâm chi nhật

24 – Tam nhật thực nhất lý ngư

25 – Cư ư giang thượng

26 – Quần ngư tranh dược

27 – Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi

28 – Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ.

29 – Tự nhi sinh thánh nhân yên.

30 – Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện

31 – Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn

32 – Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên

(Dịch:

1 – Nơi sinh ra ông Thánh nhân

2 – Trong làn nước biếc chứa tàn lọng quý

3 – Chỗ trú ngụ của Thánh nhân

4 – Long hổ bốn bên chầu cả vào

5 – Nơi sinh ra Thánh nhân

6 – Gần sông Bảo giang

7 – Xung quanh đều có nước

8 – Tên hiệu của Thánh nhân

9 – Chữ mộc ở dưới chữ đinh là quẻ ly

10 – Ông thánh nhân diện mão rất có đạo đức

11 – Nên tìm rộng từng bài chọn từng câu

12 – Thánh nhân sinh ra đã lâu năm

13 – Ai đã dễ biết được

14 – Vì người ta chẳng biết vậy

15 – Vào Ba Thục, ra Thái Nguyên

16 – Thánh nhân sinh ở chùa Bạch sỉ rất thiêng

17 – Ngày ấy sinh ra ông thánh nhân trời có năm sắc mây

18 – Đỏ sáng khắp cả chùa

19 – Chùa trong có mùi thơm ba ngày không hết

Xem thêm:  Chọn lọc 50+ lời chúc công việc suôn sẻ và tốt đẹp gửi tặng bạn bè và đồng nghiệp

20 – Lúc bấy giờ có ông sư tu cho điềm lạ có thánh nhân.

21 – Sư bản tự nuôi lớn cho đến trưởng thành

22 – Mẹ ông thánh nhân mặt xấu như đổ chàm

23 – Bà mẹ 36 tuổi sinh ông thánh nhân

24 – Tính từ ngày có thai

25 – Trong ba ngày lại ăn một con cá chép

26 – Trú ở bên sông

27 – Lũ cá tranh nhau nhảy vào

28 – Chọn xem con nào bé thì nấu ăn

29 – Sau thường đi kiếm ăn quanh chùa Bạch Sỉ

30 – Rồi sinh ra ông thánh nhân

31 – Lúc nhỏ sinh ở Nam nhị thuỷ huyện

32 – Lúc lớn ở Thái Nguyên núi Viên Sơn)

XX. Thơ vận niên bằng tên các súc vật:

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho hả dạ

Lợn kia làm quá phải xoay đầu

Chuột nọ lăm le mong cắn tổ

Ngựa kia đủng đỉnh chạy về tàu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về chốn cũ bắt vào tầu

Lợn nằm cũng thấy tên thù

Đại binh đã động phục thù nghênh ngang

Thánh chúa đang ở hang vàng

Khi nào chuột bắc cầu sang mới về

XXI

Cửu cửu kiền khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo dương đầu mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập Tràng An

XXII

Thục vị lai tại thực vi lai

Nam môn vị toả, bắc môn khai

Phong suy ngọc điện lai lai vãng

Nghĩ tụ kim thành khứ khứ hồi

Bách tính âu ca thiền vũ dạ

Cửu châu hoa thảo mả (?) liên đôi

Thử hồi nhị ngũ thiên chu tống

Hảo bá sơn đầu tửu nhất bôi.

XXIII

Thiên địa tuần hoàn âm phục dương

Tứ phương binh khởi tứ phương cường

Tây dương cảnh giới tây dương chủ

Nam quốc sơn hà, nam quốc vương

Lý đỉnh tương huyền, hiềm đỉnh trọng

Mạc thành dục chúc, khủng thành trường

Hoành sơn lộc tẩu nhân dân cộng

Thái lĩnh long phi thục cảm đương

XXIV. Có thơ rằng:

1 – Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh

2 – Can qua xứ xứ khởi đao binh

3 – Mã đầu dương cước anh hùng tận

4 – Thân dậu niên lai kiến thái bình

XXV. Thơ rằng:

1 – Bảo giang thiên tử xuất

2 – Bất chiến tự nhiên thành

3 – Lê dân đào bảo noãn

4 – Tứ hải lạc âu ca

5 – Dục thức thánh nhân hương

6 – Quá kiều cư bắc phương

7 – Danh vị Nguyễn gia tử

8 – Kim tịch sinh Ngưu lang

9 – Bắc hữu kim thành tráng

10 – Nam tạc ngọc bích thành

11 – Hoả thôn đa khuyển phệ

12 – Mục giã dục nhân canh

13 – Phú quý hồng trần mộng

14 – Bần cùng bạch phát sinh

15 – Anh hùng vương kiếm kích

16 – Minh cổ đổ thái bình

XXVI. Thơ rằng:

1 – hữu Ngưu tinh

2 – Quá thất thân thuỷ sinh

3 – Địa giới sỉ vị bạch

4 – Thuỷ trầm nhĩ bất kinh

5 – Kỵ mã khu dương tẩu

6 – Phù kê thắng đại minh

7 – Trư thử giai phong khởi

8 – Thìn mão xuất thái bình

9 – Thuỷ trung tàng bảo cái

10 – Hứa cập thánh nhân hương

11 – Mộc hạ trâm trâm khẩu

12 – Danh thế xuất nan lường

13 – Danh vị nguyễn gia tử

14 – Tinh bản tại ngưu lang

15 – Mại dữ liên viên dưỡng

16 – Khởi nguyệt hộ đại giang

17 – Hoặc kiều tam lộng ngạn

18 – Hoặc ngụ kim lăng cương

19 – Thiên dữ thần thực thuỵ

20 – Thuỵ trình ngũ sắc vân

21 – Kim kê khai lực diệp

22 – Hoàng cái xuất quý phương

23 – Nhân nghĩa thuỳ vi địch

24 – Đạo đức thục dữ đương

25 – Tô truyền nhi thập ngũ

26 – Vận khải ngũ duyên trường

27 – Vận đáo dương hầu cách

28 – Chấn đoài cương bất chấn

29 – Quần gian đạo danh tự

30 – Bách tính khổ tai ương

31 – Can qua tranh đấu khởi

32 – Phạm địch thán hung hăng

33 – Ma vương sát đại quỷ

34 – Hoàng thiên chu ma vương

35 – Kiến khôn phú tải khôn lường

36 – Đào viên đỉnh phú quần dương tranh hùng

37 – Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

38 – Nẻo Hoành sơn tam liệt ngũ phân

39 – Ta hồ vô chủ vô quân

40 – Đào viên tan tác ngô dân thủ thành

41 – Đoài phương phúc địa giáng linh

42 – Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân

43 – Phá điền thiên tử giáng trần

44 – Dũng sỹ như hai mưu thần nhược lâm

45 – Trần công nãi thị phúc tâm

46 – Đào Tiềm, xử sỹ giang hồ xuất du

47 – Tướng thần hệ xuất y chu

48 – Chư cơ phục kiến, đường ngu thị thành

49 – Hiệu xứng thiên hạ thái bình

50 – Đông tây vô sự nam thành

51 – Phân phân đông bắc khởi

52 – Nhiễu nhiễu xuất đông kinh

53 – Bảo giang thiên tử xuất

54 – Bất chiến tự nhiên thành

Tên treo ba mối phục thù

55 – Khen thay Khắc Dụng bày trò cho con

Ngọn cờ nhô nhấp đầu non

56 – Thạch thành mèo lại bon bon chạy về.

Dặm trường lai láng máu dê

Con quay ngã trắng ba que cuộc tàn

Trời nam giở lại đế vương

Thần nhân không phải là phường thầy tăng

Đồng giao đã có câu rằng

57 – Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ

Bấy giờ quét sạch thử ly

Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm

Đương khi sấm chớp ầm ầm

Chẳng qua khó số để găm trị bình

Thất phu giám chống thư sinh

Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng

Nực cười những lũ bàng quan

58 – Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe

Thôi thôi mặc lũ thằng hề

Gió mây ta lại đi về gió mây

Theo nhiều tài liệu Bản quốc ngữ Hương Sơn có lẽ do người sau ghi lại các câu sấm truyền tụng trong dân gian. Hoặc cũng có thể xáo trộn các câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà thành. Việc này do biên chép vô ý hoặc cố ý. Khi đọc kỹ bản này có thấy nó viết sau thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn Ánh. Nghĩa là các câu đó đã truyền tụng rất lâu trước khi tác giả cầm bút viết. Và theo đánh giá đây là sản phẩm của đời Nguyễn chứ không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …