Nhà thơ Tản Đà được đánh giá rất cao về năng khiếu văn chương. Cụ thể suốt cuộc đời 50 năm của mình ông đã sáng tác ra nhiều bài thơ. Và nhiều bài thơ của ông đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa. Thêm đó bằng tài năng của mình, ông đã được suy tôn là chủ soái của Hội Tao Đàn và là người có vai trò quan trọng. Tản Đà cũng chính là viên gạch nối giữa hai thế kỷ và mở đầu cho phong trào Thơ mới phát triển. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn các bài thơ thuộc các tập: Đài gương, Còn chơi
Đề bài “Bà mẹ ghẻ có nghĩa” – Tập Đài gương
Hai con, con đẻ với con chồng
Tình nghĩa đem cân một tấc lòng
Nghĩa nặng cho nên tình phải nhẹ
Suối vàng ai có biết cho không?
Đề bài “Bà Thái Nhâm nhà Chu” – Tập Đài gương
Thay đổi Thương, Chu một cuộc đời
Công cao sức cả biết bao người
Ai hay cơ nghiệp tám trăm đó
Gây dựng từ trong một bọc thai
Đề bài “Mẹ hiền của họ Mang nước Nguỵ” – Tập Đài gương
Tám con khác mẹ, mẹ thời chung
Lòng mẹ con ơi, có biết không?
Vinh hiển một nhà ơn đức mẹ
Làm gương mẹ ghẻ với con chồng
Đề bài “Mẹ Vương Lăng” – Tập Đài gương
Da mồi tóc bạc mẹ như ai
Như mẹ nghìn thu có mấy người?
Hầu tước năm đời con đến cháu
Thanh gươm bao ná giọt tình rơi
Đề sau bài “Nàng Tề Khương vợ Vu Văn” – Tập Đài gương
Ly biệt xưa nay nỗi vợ chồng
Ai hay nhi nữ trí anh hùng?
Quan hà mươi chén thay hàng lệ
Khăn túi trăm năm chạm chữ tùng
Vàng đá nát gan người ngọc tuyết
Tang bồng đưa gánh kẻ tây đông
Yêu chồng nên mới khinh ly biệt
Những bạn thoa quần có biết không?
Thơ đề tựa “Đài gương truyện” – Tập Đài gương
(Tên truyện trước là “Đàn bà Tầu”)
Phàm dân trong một nước
Một nửa là đàn bà
Kể từ con gái bé
Cho đến bà cụ già
Đều là người của nước
Mà lo việc trong nhà
Nhà nào đàn bà hay
Thịnh vượng và vui hoà
Nhà nào đàn bà hư
Lụn bại và xấu xa!
Đây là truyện nước Tầu
Dịch ra chữ nước ta
Trên từ vợ vua quan
Dưới đến nhà dân gia
Mẹ hiền dậy con cái
Con hiếu với mẹ cha
Vợ càng hay lắm vẻ
Đạo tam tòng hoà ba
Ngoài ba đạo chính ấy
Nhiều truyện còn thiết tha
Tư tính sao cao minh
Thật tự trời sinh ra
Hãy xem cách ăn ở
Vằng vặc như gương nga
Lại những lời ăn nói
Như gấm càng thêu hoa
Ấy các vị thánh hiền
Cùng trong làng quần thoa
Đất nước dẫu Nam, Bắc
Đạo lý không quan hà
Phòng văn lúc nhàn rỗi
Lời quê diễn nôm ra
Mong nhờ cơn gió thanh
Hương thơm đưa gần xa
Cái đòn cáng cùng người phu xe – Tập Còn chơi
Đời thế anh ơi, thế cũng khoe
Hết trò phu cáng lại phu xe
Văn minh chừng mấy ki-lô-mét
Tiến bộ như anh nghĩ chán phè
Còn chơi – Tập Còn chơi
Điệu Lộng hoàn dùng ba vần: chơi, đời, thôi)
Ai đã hay đâu tớ chán đời
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi
Chơi cho thật chán, cho đời chán
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi
Nói thế, can gì tớ đã thôi
Đời đương có tớ, tớ còn chơi
Người ta chơi đã già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời
Nửa đời chính độ tớ đương chơi
Chơi muốn sao cho thật sướng đời
Đời người ai có chơi như tớ
Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi
Chơi văn sướng đến tớ là thôi
Một mảnh giăng non chiếu cõi đời
Văn vận nước nhà đương buổi mới
Như giăng mới mọc tớ còn chơi
Làng văn chi thiếu khách đua chơi
Dan díu ai như tớ với đời
Tớ đã với đời dan díu mãi
Muốn thôi, đời cũng chửa cho thôi
Đời đương dan díu chửa cho thôi
Tớ dám xa xôi để phụ đời
Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ
Nhớ đời nên tớ vội ra chơi
Tớ hãy chơi cho quá nửa đời
Đời chưa quá nửa, tớ chưa thôi
Tớ thôi, tớ nghĩ buồn cho tớ
Buồn cả cho đời vắng bạn chơi
Nào những ai đâu bạn của đời?
Sao mà bỏ vắng ít ra chơi?
Chờ ai chờ mãi, ai đâu tá?
Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi?
Nếu tớ như ai cũng ngán đời
Đời thêm vắng bạn lấy ai chơi?
Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán
Nên ngán thời xưa tớ đã thôi
Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời
Nghĩ đi nghĩ lại, lại ra chơi
Mê chơi cho tớ thành dan díu
Đời dẫu cho thôi, tớ chửa thôi
Nghĩ tớ bao nhiêu, lại nghĩ đời
Nghĩ đời như tớ dám nào thôi
Còn đời, còn tớ, còn chơi mãi
Chơi mãi cho đời có bạn chơi
Tớ muốn chơi cho thật mãn đời
Đời chưa thật mãn, tớ chưa thôi
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng?
Dù chóng hay lâu, tớ hãy chơi
Trăm năm, tớ độ thế mà thôi
Ức triệu nghìn năm chửa hết đời
Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ, tớ còn chơi
Trăm năm còn độ bẩy mươi thôi
Ngoài cuộc trăm năm tớ dặn đời:
Ức triệu nghìn năm đời nhớ tớ
Tớ thôi, tớ cũng hãy còn chơi
Bút đã thôi rồi lại chửa thôi
Viết thêm câu nữa hỏi đời chơi
Lộng hoàn này điệu từ đâu trước?
Hoạ được hay không? tớ đố đời!
Con cuốc cùng con chão chuộc – Tập Còn chơi
(trước Hữu Thanh)
Bờ ao trên bụi có con cuốc
Ở dưới lại có con chão chuộc
Hai con cùng ở, cùng hay kêu
Một con kêu thảm, con kêu nhuốc
Chuộc kêu đắc ý gặp tuần mưa
Cuốc kêu đau lòng thương xuân qua
Cùng một bờ ao, một bụi rậm
Phong cảnh không khác, tình khác xa
Gót sen lay động khách là ai – Tập Còn chơi
Phòng văn khép cánh ngót năm giời
Núi tuyết rừng băng những mải chơi
Giấc điệp đương nồng em chửa tỉnh
Gót sen lay động khách là ai?
Trăm năm trần thế duyên hay nợ
Bao cuộc tang thương sắc với tài
Tình cảm bồi hồi khi mở mắt
Con tằm chưa thác, chị em ơi!
Bài này để đáp lại một bài viết của Nguyễn Văn Vĩnh trên báo Trung Bắc tân văn ngày 24-5-1921, ký bút danh là Đ.T.L (Đào Thị Loan). Bài của NVV có tên “Bóng hồng chưa thấy, biết ngày nào ra?” có ý đùa mà khích TĐ sao cứ ở ẩn mãi ở Bất Bạt trong khi mọi người đều biết và chờ TĐ ra làm chủ bút Hữu Thanh góp mặt với đời
Hầu trời – Tập Còn chơi
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.
Chư tiên ngôi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc.”
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
– “Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khi văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết.”
– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.”
Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
– “Bẩm quả có lên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Trời rằng: “Không phải là Trời đày.
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuông thuật cùng đời hay.”
– “Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi càng cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con làm việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo.”
Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thong chớ ngại chi sương tuyết!”
Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trong xuống trần gian xa dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai.
Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai.
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!
Khách giang hồ – Tập Còn chơi
(trước Hữu Thanh)
Khuất khúc non sông lắm dịp cầu
Những là gió Á với mưa Âu
Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt?
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu!
Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới
Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu
Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu!
Khai bút (năm Canh Thân 1920) – Tập Còn chơi
Năm nay tuổi đã ba mươi hai
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai
Khắp bốn phương giời không thước đất
Địa cầu những muốn ghé bên vai
Khai bút (năm Tân Dậu 1921) – Tập Còn chơi
Năm nay tuổi đã ba mươi ba
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta
Lo nước, lo nhà, lo thế giới
Còn thêm lo nợ, gỡ chưa ra!
Nghe cá – Tập Còn chơi
Chiều mát ngồi xem đứa thả câu
Nghe như lũ cá nó bàn nhau:
Tham ăn nếu đã vào trong ngạnh
Thời mất tung tăng chốn nước sâu
Nhớ mộng – Tập Còn chơi
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu dễ ngán đời
Những lúc canh gà ba cốc rượu
Nào khi cánh điệp bốn phương giời?
Tìm đâu cho thấy người trong mộng
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai!
Quê nhà chơi mát cảm hứng – Tập Còn chơi
(trước Hữu Thanh)
Con đường vô hạn, khách đông tây
Ta nhớ ai mà đứng mãi đây?
Nước rợn sông Đà con cá nhẩy
Mây trùm non Tản cái diều bay
Nặng như quả đất mà xoay được
Cao đến ông giời khó với thay!
Giời, đất, cá, chim đều tự đắc
Ở đời ai dễ chẳng vung tay!
Tống biệt 26 – Tập Còn chơi
(Lưu, Nguyễn xin về, hai tiên nữ tống biệt)
Hai tiên nữ nói: Hai chàng nay đã nhớ đến quê hương mà muốn về, chúng tôi nghĩ giữ lại làm sao cho tiện! Vậy xin kính đưa ra tới cửa động này mà có nhời thưa rằng:
Hai chàng,
Bởi tiền thế nhiều phần phúc đức,
Nên ngày nay kết bạn tiên cung.
Nhưng nợ trần vướng vít gỡ chưa xong,
Xui cõi tục mơ mòng còn tưởng nhớ!
Nay đến lúc kẻ đi người ở,
Thôi từ nay vĩnh cách tràng ly.
Ngãi trăm năm còn một khúc ca thi,
Dâng quân tải để làm nghi tống biệt.
Ngâm: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Trên đây là các bài thơ thuộc tập Đài gương, Còn chơi của nhà thơ Tản Đà. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như hiểu được tại sao đây lại là một nhà thơ được đánh giá cao như vậy. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay nhất bạn nhé!
Theo Thuvientho.com