Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 6

Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 6

Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần 6

Nhà thơ Tản Đà có một cuộc đời nhiều biến cố. Khi phong trào Thơ mới mới phát triển thì các nhà thơ trong phong trào này đã liên tục công kích ông. Tuy nhiên sau này họ đã không còn đả kích nữa mà quay lại nhìn nhận một cách khách quan hơn về những cống hiến của ông. Thậm chí còn xem ông là Thánh của làng thơ. Chính vì vậy để hiểu tại sao lại có nhận định như vậy chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn những bài thơ hay của Tản Đà dưới đây nhé!

Nhắn bảo Phong hoá

Mấy lời nhắn bảo anh Phong hoá

Báo đến như anh thật láo quá

Từ tháng đến năm không ngớt mồm

Sang năm Quý Dậu phải kiếm khoá

Ông Nỉnh ông Ninh có liệu mà

Tái tứ tái tam đừng trách nhá

Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau

Nhờ gió thổi đi mong cảm hoá

Nhắn người trong Thanh

(Bài này làm để cảm tạ ông bạn Nguyễn Tuân trong Thanh gửi hôm “Nem chua và bó đóm diêm” tặng Tản Đà tiên sinh)

Phòng văn thơ thẩn một mình

Đèn khuya nửa ngọn lửa tình cùng ai?

Nước non cách mấy dậm dài

Non xanh nước biếc nhớ người đâu xa

Nhớ ai là kẻ yêu ta

Nắm nem thanh đóm làm quà cho nhau

Nem chua ăn hết đã lâu

Đóm thời một bó trắng phau hãy còn

Tay cầm cái đóm con con

Tưởng người cách nước xa non như gần

Ai về nhắn bác Nguyễn Tuân

Thu Trang, Thanh Hoá nghe gần Nhà Diêm

Là người cho đóm cho nem

Nhắn Từ Đạm

Năm ngoái năm xưa đục mấy vần

Năm nay quan lại đục hai chân

Khen cho đá cũng bền gan thật

Đứng mãi cho quan đục mấy lần!

Nhớ ai

Nhớ ai chuyện thú trò cười

Nhớ ai reo, khóc, cười, tươi, bấy chầy

Sự đời rậm rủi thưa may

Cảnh giang hồ tưởng những ngày càng thêm!

Nhớ ai cửa gác cánh rèm

Nhớ ai gió thổi giăng thèm xa khơi

Tình duyên mới ngán cho đời

Khéo thay vơ vẩn cho người ngẩn ngơ

Nhớ ai chén rượu vần thơ

Nhớ ai gió lạnh giăng mờ năm canh

Thú vui trong hội phong trần

Tình ly biệt lối xa gần bấy nhiêu

Nhớ ai cành khế ngọn đào

Nhớ ai mây sớm mưa chiều đâu xa

Làn cây khuất bóng giăng tà

Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi

Nhớ ai đất khách quê người

Nhớ ai góc bể bên giời bơ vơ

Năm năm tháng tháng đợi chờ

Sông sâu nước đục bao giờ cho trong?

Nhớ ai…

Sông Thao lòng nước như son

Lòng son ai cũng như còn nhớ ai

Nhớ ai hôm ở Lao Kay

Lao Kay ai có nhớ người hôm xưa

Nhớ bạn Hà Nội

Nhớ ai như nhớ đông trùng

Nhớ ai Hà Nội cho lòng khôn khuây

Từ ngày giã chén chia tay

Bấm tay ta tính đã đầy năm năm

Rượu ngon cạn chén còn tăm

Bạn hiền cách mặt âm dung như gần

Sơn, Hà đôi ngả cố nhân

Non xanh riêng đối ngày xuân sinh sầu

Ước bao giờ lại thấy nhau

Uống con hạ thảo, ngâm câu chữ “vèo”

Rượu ngon thơ lại mỹ miều

Thú vui thơ rượu còn nhiều hai ta

Ai xuôi ta nhắn về Hà

Mong ai trữ rượu để mà đợi thơ

Xa nhau xin hãy tạm chờ

Gần nhau rồi cũng sớm trưa có lần

Cùng nhau ta lại quây quần

Câu thơ chén rượu trăm phần lại vui

Làng thơ bạn rượu ai ơi!…

Nhớ bạn sông Thương

Ngồi buồn nhớ bạn sông Thương

Nhớ ai ta nhớ nhưng đường thời xa

Ước sao Thương nối sông Đà

Ta buông chiếc lá lên mà rượu thơ

Không đi để những ai chờ

Mà ta thơ rượu bây giờ với ai!

Thơ đầy túi, rượu đầy nai

Đà, Thương đôi ngả cho người sầu thương

Nhớ ai là bạn văn chương

Cho ta bối rối vấn vương tơ lòng

Ngày xuân “dê béo, rượu nồng”

Tiếc hay ai hỡi đôi dòng sông Thương

Những ai là bạn văn chương

Yêu nhau thì hoạ chữ “thương” mấy vần

Họa may Hà Bá xoay vần

Thương giang, Đà thuỷ có lần nối nhau

Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng

Ai xui ta nhớ Hàm Rồng

Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây

Từ ta trở lại Sơn Tây

Con đường Nam Bắc ít ngày vãng lai

Sơn cầu còn đỏ chưa phai?

Non xanh còn đối? sông dài còn sâu?

Còn thuyền đánh cá buông câu?

Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?

Lấy ai viếng cảnh bây giờ?

Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau?

Ước sao sông cứ còn sâu

Non xanh còn cứ giữ mầu xanh xanh!

Khung cầu còn cứ như tranh

Hoả xa cứ chạy, bộ hành cứ đi!

Xuân sang cỏ cứ xanh rì!

Thuyền ai chài lưới con chì cứ tung!

Sơn Tinh, Hà Bá hay cùng

Giữ nguyên phong cảnh Hàm Rồng đợi ta

Có ngày xe lửa đi qua

Trong xe lại có Tản Đà đứng trông

Lại vui cùng núi cùng sông

Người xưa cảnh cũ tương phùng còn lâu

Nhắn non, nhắn nước, nhắn cầu!

Xem thêm:  Bài thơ Cửa Phật linh thiêng – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Nhớ cảnh nước lụt ở Bắc

Nghe tin đồn nước xuống mà lên

Mấy tỉnh hôm sau thấy vỡ liền

Bao bác chúa nhà cam chịu ướt

Mà anh vua bếp được ngồi trên

Cô đào chạy lụt nhem đùi trắng

Thày lí làm đê khiếp mặt đen

Đục nước năm nay cò lại béo

Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền

Nhớ ông bạn ở phố Mã Mây, Hà Nội

“An Nam tạp chí” ra đời

Xa thời ai nhớ, gần thời nhớ ai

Mã Mây với phố Hàng Khoai

Quan hà gang thước cho người sầu riêng

Trách cho ông bạn láng giềng

Giận nhau chi đó mà kiềng nhau ra

Ước gì họp mặt đôi ta

Cốc men Quế Lộ, chén trà Liên Tâm

Ngày xuân nhắn bạn tri âm…

Nhớ ông Gia Cát sáu lần ra Kỳ Sơn

Mưỡu:

Ngồi buồn nhớ chuyện người xưa

Nhớ ông Gia Cát bây giờ nơi nao?

Sáu phen Bắc phạt họ Tào

Kỳ Sơn chí khí anh hào nghìn thu

Nói:

Lục xuất Kỳ Sơn Gia Cát Lượng

Tấm trung tinh treo sáng cõi nhân hoàn

Biểu xuất sư hoà lệ chứa chan

Bao xiết nghĩ giang san cùng ấu chúa

Thành bại, hưng vong, nguyên hữu số

Tranh hùng cát cứ khả do nhân

Cuộc trần ai còn có sức kinh luân

Sao đã chịu tam phân hình đỉnh túc

Anh hùng tự cổ nan tri túc

Kể làm chi vinh nhục nghĩa hư vô

Diệt Tào rồi sẽ thôn Ngô

Nhớ ông Lư Thoa

Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa

Dân ước nhân quyền ông xướng ra

Ông sinh thế kỷ thứ mười tám

Hai trăm năm nay đời đã qua

Tiếng ông còn ở trên thế giới

Tượng ông còn đứng bên Lãng-sa

Sau lúc ông chết, tỏ danh giá

Ông còn đương sống, không vinh hoa

Vinh hoa danh giá, ông không tưởng

Thương đời bao quản đời coi ta

Tượng đồng còn đó, ông còn đó

Nghìn thu gió táp cùng mưa sa

Mưa sa gió táp ông không quản

Ông đứng lo đời còn lâu xa

Nhớ ông bao nhiêu kính lại mến

Học trò xin có bài thơ ca

Nhớ trong Nam

Ngày dài ta nhớ đất Nam trung

Mây nước xa trông cách vạn trùng

Cánh nhạn bên giời không chiếc bóng

Vừng giăng mặt biển đã mười đông

Sài Gòn, Chợ Lớn ai qua lại?

Thủ Đức, Xuân Trường khách vắng đông?

Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh

Xa xuôi ai có nhớ nhau cùng?

Nước thu

Lấy tứ ở văn Trang Tử)

Giời thu đến, nước thu đâu đến

Trăm sông con dội hết sông Hà

Láng lai giòng lớn bờ xa

Hai bên trâu ngựa nom đà lẫn nhau

Chú Hà Bá vểnh râu đắc chí

Nghĩ thế gian ai ví bằng ta

Giòng Đông thuận nẻo đi ra

Đến nơi bể Bắc trông mà lạ sao!

Giời in nước thấy đâu đầu cuối

Hà Bá ta hết nỗi tự hùng

Càng xem lượng bể mênh mông

Vái anh Thần Bể thẹn thùng thở than:

“Tôi thấy bác muôn vàn rộng rãi

Nghĩ cho tôi cũng lại là may!

Ví mà tôi chẳng tới đây

Thẹn cùng trưởng giả biết ngày nào thôi!”

Thần bể Bắc: “Hỡi ơi! Hà Bá

Thật như ngươi đạo cả chưa tường

Bể khơi đã biết tìm đường

Thời nay ta nhủ rõ ràng, ngươi nghe:

Khắp thiên hạ nơi bề cả nước

Dễ đâu hơn bể Bắc là đây

Muôn sông về mãi không đầy

Biết bao giờ dũa, mà ngày nào vơi

Xuân cũng thế, thu thời cũng thế

Thuỷ hạn đâu không kể biết chi

Nếu đem lượng bể so bì

Giang hà đã có thấm gì là to!

Mà ta vẫn nghĩ cho là bé

Khoảng đất trời chưa kể vào đâu

Xem như núi cả, rừng sâu

Cái thân hòn cuội, cây lau sá gì!”

Xem thêm:  1001 bài thơ Tháng 4 với chủ đề hoa cỏ và tình yêu

Phong dao

Người ta đi ngược đi xuôi

Sao em đội nón ra ngồi gốc cây

Lạnh lùng gió táp mưa bay

Lấy chồng làm lẽ có ngày oan gia

Qua cầu Hàm Rồng hứng bút

Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ

Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh

Hàm Rồng nay lại qua Thanh

Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân

Người đâu sương tuyết phong trần

Non xanh nước biếc bao lần vãng lai

Dư đồ còn đó chưa phai

Còn non, còn nước, còn người nước non

Ruột tằm dù héo chưa mòn

Tơ lòng một mối xin còn vấn vương

Nước non muôn dặm đường trường

Hỡi ai “rau sắng chùa Hương” biết cùng?

Trăm năm nặng gánh tang bồng

Lửa than càng đốt cho lòng càng son

Cảnh còn biếc nước xanh non

Đầu ai trắng tóc, duyên còn thắm tơ

Để ai thương nhớ đợi chờ

Mà ai đi mãi! bao giờ đến nơi?

Răn người không nên hay tin người

Ai ơi đừng có chắc tin ai

Cứ chắc tin ai khéo đoạn đời

Tri kỷ xưa nay nào mấy kẻ

Giết nhau buổi ấy thiếu chi người!

Bẫy hầm biết đến trò khôn dại

Chè rượu còn đâu cuộc thú chơi

Cái lưỡi không xương nhiều lắt léo

Bảo nhau ta bớt một đôi lời

Ru em

Năm nay em đã lên ba

Em đừng quấy khóc, mẹ cha lo phiền

Chị ru em ngủ cho yên

Mai sau em lớn bút nghiên học hành

Mẹ cha công đức sinh thành

Mai sau em học thông minh nhờ giời

Giời cho tai mắt ở đời

Nhớ công cha mẹ, nhớ lời chị ru

Mẹ cha biết mấy công phu

Chị ru em ngủ đêm khuya canh gà

Ấy ngày em mới lên ba

Em còn quấy khóc, mẹ cha lo phiền

Sầu xuân

Chầm chậm ngày xanh bóng nhạt đưa

Xuân sầu hai độ, rối như tơ

Lao xao nhà vắng chim tìm tổ

Ỳ ộp hồ xa ếch đợi mưa

Rượu hứng thèm vui không sẵn bạn

Hoa tàn giục nghĩ chẳng nên thơ

Lạnh lùng bốn bể âm thư vắng

Muốn trách tri âm luống hững hờ

Tát ao

(Câu hát tạp)

Bên kia cái ao

Bên nọ cái ao

Cái ao bên nọ tát vào bên kia

Chưa thấy con riếc

Chẳng thấy con trê

Nhìn trông chỗ tát lê bê những bèo

Tân xuân cảm

Non sông như vẽ cỏ hoa tươi

Xuân mới năm nay đã đến rồi

Chín chục thiều quang giời ngó lại

Bốn nghìn lịch sử nước trôi xuôi

Tài hoa khách cũ thơ còn hứng?

Kinh tế phen này tết có vui?

Trái đất vô tình lăn lộn mãi

Cuộc đời dâu bể biết bao thôi!

Tập Kiều

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Con tằm đến thác hãy còn vương tơ

Thiếp từ ngộ biến đến giờ

Dám xa xôi mặt mà thơ thớt lòng

Cắn răng bẻ một chữ “đồng”

Sâm Thương chẳng vẹn chữ “tòng” tại ai?

Cũng là nhỡ một nhầm hai

Ba sinh âu hẳn duyên giời chi đây

Rằng trăm năm cũng từ đây

Duyên này thời giữ, vật này của chung

………………………………………

Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao

Cười rằng tri kỷ trước sau

Mười phần ta cũng tin nhau cả mười

Giếng vàng đã rụng một vài

Mà chàng Kim đó là người ngày xưa

Tập Kiều, viếng Kiều

Lấy thân mà trả nợ đời

Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân

Phonh lưu rất mựch hồng quần

Mười lăm năm, bấy nhiêu lần làm gương

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Bán mình vội phải tìm đường cứu cha

Lênh đênh đâu nữa cũng là…

Cái thân liệu nhữnh từ nhà liệu đi

Khi Vô Tích, khi Lâm Truy

Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần

Đùnh đùnh gió dụch mây vần

Hồnh quân với khách hồnh quần đã xoay

Cửa giời rộnh mở đường mây

Hay là khổ tận, đến ngày cam lai

Triều đình riêng một góc giời

Mua vui cũnh được một vài trống canh

Kiếp hồnh nhan có monh manh

Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi

Thương ôi! sắc nước hương giời

Ngàn thu bạc mệnh, một đời tài hoa

Đau đớn thay phận đàn bà

Khéo thay thác xuống làm ma khônh chồnh

Lửa hương chốc để lạnh lùnh

Nào người tiếc lục tham hồnh là ai?

Xem thêm:  Thơ cho ngày lễ tình nhân - Nguyễn Ngoạt

Tế Chiêu Quân

Ô hô Chiêu Quân!

Sắc diễm tuyệt thế

Mệnh bạc vô thiên

Hán cung nhất biệt

Hồ địa thiên niên

Thanh trủng lưu hận

Hoàng tuyền cô miên

Thương tai hồng nhan

Y hồ nãi nhiên

Ô hô Chiêu Quân!

Phương cốt hữu tận

U hám vô kỳ

Minh nguyệt độc cử

Ám vân không thuỳ

Tinh chiêu phỉ loại

Điếu tế y thuỳ

Thương tai hồng nhan

Linh hồn hà y?

Hiếu

Thiên nan cùng sĩ

Sơn Tây tiên sinh

Cách đại dị quốc

Cộng bi đồng tình

Viêm trân phỉ lễ

Vọng bái trung đình

Hồn lễ quy tá

Giá dư dữ hành

Tết tự thuật

Năm xưa tết nhất đã suông suồng!

Tết nhất năm nay lại quá tuồng!

Tiếng pháo nghe nhờ thiên hạ đốt

Cờ vàng dấu đỏ, đế vương suông

Tháng ba không mưa

Tháng ba thiên hạ đợi mưa rào

Đợi mãi mưa mà chẳng thấy nao

Kinh tế khó khăn giời tiếc nước

Văn minh hào nhoáng ếch trông sao

Gió khan đập lá tan mày thuý

Nắng mới hôn hoa sạm má đào

Lo nước, thương đời đêm chẳng ngủ

Vừng đông trông đã ngọn sào cao

Theo voi ăn bã mía

(Chữa thơ thi của sư cụ chùa Đống Liêm Nguyễn Xuân Dục ra đầu bài lấy vần “dơ”)

Ăn mía theo voi tiếng đến giờ

Vì chi biếng bã để trò dơ

Rón chân những chực khi vòi nhả

Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa

Ấy đã theo đuôi thời phải hít

Còn đâu nên tấm nữa mà vơ!

Nghìn năm bia miệng là câu thế

Những khách ăn tàn đã biết chưa?

Thề non nước

Nước non nặng một nhời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non

Nhớ nhời nguyện nước thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không

Non cao những ngóng cùng trông

Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương

Giời tây chiếu bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha

Non cao tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non!

Dẫu rằng sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa?

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi!

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước không nguôi nhời thề

Thi Hậu bổ bị trượt kỳ vấn đáp

Mỗi năm Hậu bổ một lần thi

Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi

Cử, tú, ấm sinh, vài chục kẻ

Tây, ta, quốc ngữ, bốn năm kỳ

Đĩa nghiên, lọ mực, bìa bao sách

Thước kẻ, đanh ghim, ngọn bút chì

Lại đến o-ran, là bước khó

Mình ơi, ta bảo: “Có thi thì…”

Thơ đề tuồng Tây Thi

(Vở tuồng Tây Thi khi in thành vở thì bài này sẽ đề đầu)

Nghiêng thành, nghiêng nước, trách chi ai?

Gặp lúc chơi tuồng diễn lại chơi.

Văn có pha trò cho đủ lối,

Mực đem bôi nhọ khéo mua cười.

Ngắn dài sáu lớp mươi câu hát,

Vui khóc năm canh một cuộc đời.

Cũng muốn thôi đi, thôi chửa dứt,

Tài tình luỵ lắm, bạn tình ơi!

Trên đây là những bài thơ hay của nhà thơ Tản Đà mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu được thêm về con người tài hoa này. Cũng như hiểu được những đóng góp của ông trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Để tiếp tục tuyển tập những bài thơ hay của Tản Đà bạn đừng bỏ qua phần cuối của nhóm các bài thơ này nhé! Chúc bạn có được những phút giây thư giãn và chiêm nghiệm sâu sắc các bài thơ mà chúng tôi giới thiệu dưới đây.

Xem thêm:Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần cuối

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …