Nhà thơ Tản Đà có một cuộc đời nhiều biến cố. Khi phong trào Thơ mới mới phát triển thì các nhà thơ trong phong trào này đã liên tục công kích ông. Tuy nhiên sau này họ đã không còn đả kích nữa mà quay lại nhìn nhận một cách khách quan hơn về những cống hiến của ông. Thậm chí còn xem ông là Thánh của làng thơ. Chính vì vậy để hiểu tại sao lại có nhận định như vậy chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn những bài thơ hay của Tản Đà dưới đây nhé!
Nhắn bảo Phong hoá
Mấy lời nhắn bảo anh Phong hoá
Báo đến như anh thật láo quá
Từ tháng đến năm không ngớt mồm
Sang năm Quý Dậu phải kiếm khoá
Ông Nỉnh ông Ninh có liệu mà
Tái tứ tái tam đừng trách nhá
Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau
Nhờ gió thổi đi mong cảm hoá
Nhắn người trong Thanh
(Bài này làm để cảm tạ ông bạn Nguyễn Tuân trong Thanh gửi hôm “Nem chua và bó đóm diêm” tặng Tản Đà tiên sinh)
Phòng văn thơ thẩn một mình
Đèn khuya nửa ngọn lửa tình cùng ai?
Nước non cách mấy dậm dài
Non xanh nước biếc nhớ người đâu xa
Nhớ ai là kẻ yêu ta
Nắm nem thanh đóm làm quà cho nhau
Nem chua ăn hết đã lâu
Đóm thời một bó trắng phau hãy còn
Tay cầm cái đóm con con
Tưởng người cách nước xa non như gần
Ai về nhắn bác Nguyễn Tuân
Thu Trang, Thanh Hoá nghe gần Nhà Diêm
Là người cho đóm cho nem
Nhắn Từ Đạm
Năm ngoái năm xưa đục mấy vần
Năm nay quan lại đục hai chân
Khen cho đá cũng bền gan thật
Đứng mãi cho quan đục mấy lần!
Nhớ ai
Nhớ ai chuyện thú trò cười
Nhớ ai reo, khóc, cười, tươi, bấy chầy
Sự đời rậm rủi thưa may
Cảnh giang hồ tưởng những ngày càng thêm!
Nhớ ai cửa gác cánh rèm
Nhớ ai gió thổi giăng thèm xa khơi
Tình duyên mới ngán cho đời
Khéo thay vơ vẩn cho người ngẩn ngơ
Nhớ ai chén rượu vần thơ
Nhớ ai gió lạnh giăng mờ năm canh
Thú vui trong hội phong trần
Tình ly biệt lối xa gần bấy nhiêu
Nhớ ai cành khế ngọn đào
Nhớ ai mây sớm mưa chiều đâu xa
Làn cây khuất bóng giăng tà
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người
Nhớ ai góc bể bên giời bơ vơ
Năm năm tháng tháng đợi chờ
Sông sâu nước đục bao giờ cho trong?
Nhớ ai…
Sông Thao lòng nước như son
Lòng son ai cũng như còn nhớ ai
Nhớ ai hôm ở Lao Kay
Lao Kay ai có nhớ người hôm xưa
Nhớ bạn Hà Nội
Nhớ ai như nhớ đông trùng
Nhớ ai Hà Nội cho lòng khôn khuây
Từ ngày giã chén chia tay
Bấm tay ta tính đã đầy năm năm
Rượu ngon cạn chén còn tăm
Bạn hiền cách mặt âm dung như gần
Sơn, Hà đôi ngả cố nhân
Non xanh riêng đối ngày xuân sinh sầu
Ước bao giờ lại thấy nhau
Uống con hạ thảo, ngâm câu chữ “vèo”
Rượu ngon thơ lại mỹ miều
Thú vui thơ rượu còn nhiều hai ta
Ai xuôi ta nhắn về Hà
Mong ai trữ rượu để mà đợi thơ
Xa nhau xin hãy tạm chờ
Gần nhau rồi cũng sớm trưa có lần
Cùng nhau ta lại quây quần
Câu thơ chén rượu trăm phần lại vui
Làng thơ bạn rượu ai ơi!…
Nhớ bạn sông Thương
Ngồi buồn nhớ bạn sông Thương
Nhớ ai ta nhớ nhưng đường thời xa
Ước sao Thương nối sông Đà
Ta buông chiếc lá lên mà rượu thơ
Không đi để những ai chờ
Mà ta thơ rượu bây giờ với ai!
Thơ đầy túi, rượu đầy nai
Đà, Thương đôi ngả cho người sầu thương
Nhớ ai là bạn văn chương
Cho ta bối rối vấn vương tơ lòng
Ngày xuân “dê béo, rượu nồng”
Tiếc hay ai hỡi đôi dòng sông Thương
Những ai là bạn văn chương
Yêu nhau thì hoạ chữ “thương” mấy vần
Họa may Hà Bá xoay vần
Thương giang, Đà thuỷ có lần nối nhau
Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng
Ai xui ta nhớ Hàm Rồng
Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây
Từ ta trở lại Sơn Tây
Con đường Nam Bắc ít ngày vãng lai
Sơn cầu còn đỏ chưa phai?
Non xanh còn đối? sông dài còn sâu?
Còn thuyền đánh cá buông câu?
Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?
Lấy ai viếng cảnh bây giờ?
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau?
Ước sao sông cứ còn sâu
Non xanh còn cứ giữ mầu xanh xanh!
Khung cầu còn cứ như tranh
Hoả xa cứ chạy, bộ hành cứ đi!
Xuân sang cỏ cứ xanh rì!
Thuyền ai chài lưới con chì cứ tung!
Sơn Tinh, Hà Bá hay cùng
Giữ nguyên phong cảnh Hàm Rồng đợi ta
Có ngày xe lửa đi qua
Trong xe lại có Tản Đà đứng trông
Lại vui cùng núi cùng sông
Người xưa cảnh cũ tương phùng còn lâu
Nhắn non, nhắn nước, nhắn cầu!
Nhớ cảnh nước lụt ở Bắc
Nghe tin đồn nước xuống mà lên
Mấy tỉnh hôm sau thấy vỡ liền
Bao bác chúa nhà cam chịu ướt
Mà anh vua bếp được ngồi trên
Cô đào chạy lụt nhem đùi trắng
Thày lí làm đê khiếp mặt đen
Đục nước năm nay cò lại béo
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền
Nhớ ông bạn ở phố Mã Mây, Hà Nội
“An Nam tạp chí” ra đời
Xa thời ai nhớ, gần thời nhớ ai
Mã Mây với phố Hàng Khoai
Quan hà gang thước cho người sầu riêng
Trách cho ông bạn láng giềng
Giận nhau chi đó mà kiềng nhau ra
Ước gì họp mặt đôi ta
Cốc men Quế Lộ, chén trà Liên Tâm
Ngày xuân nhắn bạn tri âm…
Nhớ ông Gia Cát sáu lần ra Kỳ Sơn
Mưỡu:
Ngồi buồn nhớ chuyện người xưa
Nhớ ông Gia Cát bây giờ nơi nao?
Sáu phen Bắc phạt họ Tào
Kỳ Sơn chí khí anh hào nghìn thu
Nói:
Lục xuất Kỳ Sơn Gia Cát Lượng
Tấm trung tinh treo sáng cõi nhân hoàn
Biểu xuất sư hoà lệ chứa chan
Bao xiết nghĩ giang san cùng ấu chúa
Thành bại, hưng vong, nguyên hữu số
Tranh hùng cát cứ khả do nhân
Cuộc trần ai còn có sức kinh luân
Sao đã chịu tam phân hình đỉnh túc
Anh hùng tự cổ nan tri túc
Kể làm chi vinh nhục nghĩa hư vô
Diệt Tào rồi sẽ thôn Ngô
Nhớ ông Lư Thoa
Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa
Dân ước nhân quyền ông xướng ra
Ông sinh thế kỷ thứ mười tám
Hai trăm năm nay đời đã qua
Tiếng ông còn ở trên thế giới
Tượng ông còn đứng bên Lãng-sa
Sau lúc ông chết, tỏ danh giá
Ông còn đương sống, không vinh hoa
Vinh hoa danh giá, ông không tưởng
Thương đời bao quản đời coi ta
Tượng đồng còn đó, ông còn đó
Nghìn thu gió táp cùng mưa sa
Mưa sa gió táp ông không quản
Ông đứng lo đời còn lâu xa
Nhớ ông bao nhiêu kính lại mến
Học trò xin có bài thơ ca
Nhớ trong Nam
Ngày dài ta nhớ đất Nam trung
Mây nước xa trông cách vạn trùng
Cánh nhạn bên giời không chiếc bóng
Vừng giăng mặt biển đã mười đông
Sài Gòn, Chợ Lớn ai qua lại?
Thủ Đức, Xuân Trường khách vắng đông?
Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh
Xa xuôi ai có nhớ nhau cùng?
Nước thu
Lấy tứ ở văn Trang Tử)
Giời thu đến, nước thu đâu đến
Trăm sông con dội hết sông Hà
Láng lai giòng lớn bờ xa
Hai bên trâu ngựa nom đà lẫn nhau
Chú Hà Bá vểnh râu đắc chí
Nghĩ thế gian ai ví bằng ta
Giòng Đông thuận nẻo đi ra
Đến nơi bể Bắc trông mà lạ sao!
Giời in nước thấy đâu đầu cuối
Hà Bá ta hết nỗi tự hùng
Càng xem lượng bể mênh mông
Vái anh Thần Bể thẹn thùng thở than:
“Tôi thấy bác muôn vàn rộng rãi
Nghĩ cho tôi cũng lại là may!
Ví mà tôi chẳng tới đây
Thẹn cùng trưởng giả biết ngày nào thôi!”
Thần bể Bắc: “Hỡi ơi! Hà Bá
Thật như ngươi đạo cả chưa tường
Bể khơi đã biết tìm đường
Thời nay ta nhủ rõ ràng, ngươi nghe:
Khắp thiên hạ nơi bề cả nước
Dễ đâu hơn bể Bắc là đây
Muôn sông về mãi không đầy
Biết bao giờ dũa, mà ngày nào vơi
Xuân cũng thế, thu thời cũng thế
Thuỷ hạn đâu không kể biết chi
Nếu đem lượng bể so bì
Giang hà đã có thấm gì là to!
Mà ta vẫn nghĩ cho là bé
Khoảng đất trời chưa kể vào đâu
Xem như núi cả, rừng sâu
Cái thân hòn cuội, cây lau sá gì!”
Phong dao
Người ta đi ngược đi xuôi
Sao em đội nón ra ngồi gốc cây
Lạnh lùng gió táp mưa bay
Lấy chồng làm lẽ có ngày oan gia
Qua cầu Hàm Rồng hứng bút
Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ
Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh
Hàm Rồng nay lại qua Thanh
Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân
Người đâu sương tuyết phong trần
Non xanh nước biếc bao lần vãng lai
Dư đồ còn đó chưa phai
Còn non, còn nước, còn người nước non
Ruột tằm dù héo chưa mòn
Tơ lòng một mối xin còn vấn vương
Nước non muôn dặm đường trường
Hỡi ai “rau sắng chùa Hương” biết cùng?
Trăm năm nặng gánh tang bồng
Lửa than càng đốt cho lòng càng son
Cảnh còn biếc nước xanh non
Đầu ai trắng tóc, duyên còn thắm tơ
Để ai thương nhớ đợi chờ
Mà ai đi mãi! bao giờ đến nơi?
Răn người không nên hay tin người
Ai ơi đừng có chắc tin ai
Cứ chắc tin ai khéo đoạn đời
Tri kỷ xưa nay nào mấy kẻ
Giết nhau buổi ấy thiếu chi người!
Bẫy hầm biết đến trò khôn dại
Chè rượu còn đâu cuộc thú chơi
Cái lưỡi không xương nhiều lắt léo
Bảo nhau ta bớt một đôi lời
Ru em
Năm nay em đã lên ba
Em đừng quấy khóc, mẹ cha lo phiền
Chị ru em ngủ cho yên
Mai sau em lớn bút nghiên học hành
Mẹ cha công đức sinh thành
Mai sau em học thông minh nhờ giời
Giời cho tai mắt ở đời
Nhớ công cha mẹ, nhớ lời chị ru
Mẹ cha biết mấy công phu
Chị ru em ngủ đêm khuya canh gà
Ấy ngày em mới lên ba
Em còn quấy khóc, mẹ cha lo phiền
Sầu xuân
Chầm chậm ngày xanh bóng nhạt đưa
Xuân sầu hai độ, rối như tơ
Lao xao nhà vắng chim tìm tổ
Ỳ ộp hồ xa ếch đợi mưa
Rượu hứng thèm vui không sẵn bạn
Hoa tàn giục nghĩ chẳng nên thơ
Lạnh lùng bốn bể âm thư vắng
Muốn trách tri âm luống hững hờ
Tát ao
(Câu hát tạp)
Bên kia cái ao
Bên nọ cái ao
Cái ao bên nọ tát vào bên kia
Chưa thấy con riếc
Chẳng thấy con trê
Nhìn trông chỗ tát lê bê những bèo
Tân xuân cảm
Non sông như vẽ cỏ hoa tươi
Xuân mới năm nay đã đến rồi
Chín chục thiều quang giời ngó lại
Bốn nghìn lịch sử nước trôi xuôi
Tài hoa khách cũ thơ còn hứng?
Kinh tế phen này tết có vui?
Trái đất vô tình lăn lộn mãi
Cuộc đời dâu bể biết bao thôi!
Tập Kiều
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Con tằm đến thác hãy còn vương tơ
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Dám xa xôi mặt mà thơ thớt lòng
Cắn răng bẻ một chữ “đồng”
Sâm Thương chẳng vẹn chữ “tòng” tại ai?
Cũng là nhỡ một nhầm hai
Ba sinh âu hẳn duyên giời chi đây
Rằng trăm năm cũng từ đây
Duyên này thời giữ, vật này của chung
………………………………………
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao
Cười rằng tri kỷ trước sau
Mười phần ta cũng tin nhau cả mười
Giếng vàng đã rụng một vài
Mà chàng Kim đó là người ngày xưa
Tập Kiều, viếng Kiều
Lấy thân mà trả nợ đời
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân
Phonh lưu rất mựch hồng quần
Mười lăm năm, bấy nhiêu lần làm gương
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Bán mình vội phải tìm đường cứu cha
Lênh đênh đâu nữa cũng là…
Cái thân liệu nhữnh từ nhà liệu đi
Khi Vô Tích, khi Lâm Truy
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Đùnh đùnh gió dụch mây vần
Hồnh quân với khách hồnh quần đã xoay
Cửa giời rộnh mở đường mây
Hay là khổ tận, đến ngày cam lai
Triều đình riêng một góc giời
Mua vui cũnh được một vài trống canh
Kiếp hồnh nhan có monh manh
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Thương ôi! sắc nước hương giời
Ngàn thu bạc mệnh, một đời tài hoa
Đau đớn thay phận đàn bà
Khéo thay thác xuống làm ma khônh chồnh
Lửa hương chốc để lạnh lùnh
Nào người tiếc lục tham hồnh là ai?
Tế Chiêu Quân
Ô hô Chiêu Quân!
Sắc diễm tuyệt thế
Mệnh bạc vô thiên
Hán cung nhất biệt
Hồ địa thiên niên
Thanh trủng lưu hận
Hoàng tuyền cô miên
Thương tai hồng nhan
Y hồ nãi nhiên
Ô hô Chiêu Quân!
Phương cốt hữu tận
U hám vô kỳ
Minh nguyệt độc cử
Ám vân không thuỳ
Tinh chiêu phỉ loại
Điếu tế y thuỳ
Thương tai hồng nhan
Linh hồn hà y?
Hiếu
Thiên nan cùng sĩ
Sơn Tây tiên sinh
Cách đại dị quốc
Cộng bi đồng tình
Viêm trân phỉ lễ
Vọng bái trung đình
Hồn lễ quy tá
Giá dư dữ hành
Tết tự thuật
Năm xưa tết nhất đã suông suồng!
Tết nhất năm nay lại quá tuồng!
Tiếng pháo nghe nhờ thiên hạ đốt
Cờ vàng dấu đỏ, đế vương suông
Tháng ba không mưa
Tháng ba thiên hạ đợi mưa rào
Đợi mãi mưa mà chẳng thấy nao
Kinh tế khó khăn giời tiếc nước
Văn minh hào nhoáng ếch trông sao
Gió khan đập lá tan mày thuý
Nắng mới hôn hoa sạm má đào
Lo nước, thương đời đêm chẳng ngủ
Vừng đông trông đã ngọn sào cao
Theo voi ăn bã mía
(Chữa thơ thi của sư cụ chùa Đống Liêm Nguyễn Xuân Dục ra đầu bài lấy vần “dơ”)
Ăn mía theo voi tiếng đến giờ
Vì chi biếng bã để trò dơ
Rón chân những chực khi vòi nhả
Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa
Ấy đã theo đuôi thời phải hít
Còn đâu nên tấm nữa mà vơ!
Nghìn năm bia miệng là câu thế
Những khách ăn tàn đã biết chưa?
Thề non nước
Nước non nặng một nhời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Giời tây chiếu bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi nhời thề
Thi Hậu bổ bị trượt kỳ vấn đáp
Mỗi năm Hậu bổ một lần thi
Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi
Cử, tú, ấm sinh, vài chục kẻ
Tây, ta, quốc ngữ, bốn năm kỳ
Đĩa nghiên, lọ mực, bìa bao sách
Thước kẻ, đanh ghim, ngọn bút chì
Lại đến o-ran, là bước khó
Mình ơi, ta bảo: “Có thi thì…”
Thơ đề tuồng Tây Thi
(Vở tuồng Tây Thi khi in thành vở thì bài này sẽ đề đầu)
Nghiêng thành, nghiêng nước, trách chi ai?
Gặp lúc chơi tuồng diễn lại chơi.
Văn có pha trò cho đủ lối,
Mực đem bôi nhọ khéo mua cười.
Ngắn dài sáu lớp mươi câu hát,
Vui khóc năm canh một cuộc đời.
Cũng muốn thôi đi, thôi chửa dứt,
Tài tình luỵ lắm, bạn tình ơi!
Trên đây là những bài thơ hay của nhà thơ Tản Đà mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu được thêm về con người tài hoa này. Cũng như hiểu được những đóng góp của ông trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Để tiếp tục tuyển tập những bài thơ hay của Tản Đà bạn đừng bỏ qua phần cuối của nhóm các bài thơ này nhé! Chúc bạn có được những phút giây thư giãn và chiêm nghiệm sâu sắc các bài thơ mà chúng tôi giới thiệu dưới đây.
Xem thêm:Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần cuối
Theo Thuvientho.com