Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần cuối

Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần cuối

Nhà thơ Tản Đà và những bài thơ xuất sắc để đời phần cuối

Sự nghiệp sáng tác thơ ca của Tản Đà được đánh giá rất cao. Điều đầu tiên và có thể thấy dễ dàng nhất chính là tài năng của ông được bộc lộ rất sớm và số lượng các sáng tác thơ ca cũng rất đáng ngưỡng mộ. Đó cũng chính là một phần lý do mà ông được các nhà thơ khác đánh giá cao như vậy. Để hiểu thêm về phong cách sáng tác thơ ca này bạn đừng quên theo dõi những bài thơ cuối cùng mà chúng tôi giới thiệu dưới đây bạn nhé!

Thơ gửi cho Monsieur Tôi

(Tức ông Tú Nguyễn Đỗ Mục, biệt hiệu Hi Đình Nguyễn Văn Tôi, viết hài đàm ở báo Trung Bắc tân văn khi ấy)

Nhà báo cho đơn thuốc,

Chữa bệnh trong tâm hồn.

Ngày ngày nên tụng niệm,

Lâu lâu khỏi ngứa mồm.

Hài đàm ôi! Hài đàm ôi!

Ngứa mồm dại đến thằng “Tôi” là cùng.

“Chim trích mà ghẹo bồ nông”

Từ đây biết dại “lạy ông xin chừa”.

Thơ mới

Đờn là đờn

Thơ là thơ

Thơ thời có chữ, đờn có tơ

Nếu không phá cách vứt điệu luật

Khó cho thiên hạ đến bao giờ?

Bá Nha xa

Lý Bạch khuất

Thơ có họ Phan, đờn có họ Quách!

Thơ có chữ

Đờn có tơ

Đờn thời ngơ ngẩn, thơ vẩn vơ

Tài tử văn nhân nhường rứa rứa

Bút huê ngao ngán bận đề thơ

Thơ mừng Tết

Tết năm Đinh Mão sang đầu xuân

Ta có thơ mừng khắp quốc dân

Mừng cho ai nấy có tư cách

Trước biết ái quốc, sau hợp quần

Ta mừng những ai trong quan trường

Người thì chính trực, kẻ thuần lương

Cửa đông như chợ, lòng như nước

Coi thằng khố rách, yêu mà thương

Ta mừng những ai nhà tư bản

Của một lên trăm, trăm gấp vạn

Công an, công ích giúp đồng bang

Trọng nghĩa khinh tài lòng cộng sản

Ta mừng những ai nơi thôn quê

Ông chánh, ông phó, người cày thuê

Gia đình vui vẻ, đinh tài vượng

Suốt năm chẳng tới cửa ông đề

Ta mừng những ai người nơi xa

Người nơi quân ngũ, kẻ thương gia

Quanh năm yên ổn vô tai hoạ

Đòi khi nhớ nước, sau nhớ nhà

Nước nhà năm mới thơ mừng chung:

Vạn sự vạn vật đều hanh thông!

Trời Nam hoa thảo xuân vô tận!

Đất Bắc giang sơn vận bất cùng!

Một giải sông Đà vạn cổ lưu!

Ba Vì núi Tản thiên niên thọ!

An Nam tạp chí vạn thiên thu!

Cùng nước An Nam thiên vạn cổ!

Thơ rượu

Đời người như giấc chiêm bao

Nghĩ xưa đã mấy ai nào trăm năm

Một đoàn lao lực, lao tâm

Quí chi chữ “thọ” mà lăm sống nhiều!

Có tiền chưa dễ mà tiêu

Ham danh lắm kẻ như diều đứt dây

Thương ai cho bận lòng đây

Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ

Cảnh đời gió gió, mưa mưa

Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn

Rượu say, thơ lại khơi nguồn

Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình

Rượu, thơ, mình lại với mình

Khi vui quên cả cái hình phù du

Trăm năm thơ túi, rượu vò

Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?

Thơ tặng “Phụ nữ tân văn”

Ai rằng Nam, Bắc cách đôi nơi

Cũng một non sông, một giống nòi

Hoa gấm cũ càng nguyên phẩm quý

Phấn son tô điểm lại mầu tươi

Mày râu ai hẳn không nhiều kẻ

Khăn yếm ta hay chẳng thiếu người

Bạc đánh còn tiền thua cóc sợ

Đời chưa đáng chán, chị em ơi!

Thơ thẩn

Phòng văn lặng ngắt bóng giăng mờ

Ngồi nghĩ thơ mà luống thẩn thơ

Chỉ thắm ai người tơ tưởng mối

Ruột tằm còn những vấn vương tơ

Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm

Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ

Thơ nghĩ chưa ra già đã tới

Buồn chăng ai hỡi, bạn làng thơ!

Thuyền ai, sông Thuý Ái

Chồng trung cho thiếp mới nên trinh

Nửa vị giang san, nửa vị tình

Mặt phấn môi son lòng nước biếc

Gan vàng dạ ngọc đá bia xanh

Sô gai thiên hạ âu thừa nhỉ

Gió bụi nhân gian chẳng bận mình

Qua lại thuyền ai sông Thuý Ái

Còn chăng sóng gợn với hương thanh

Thương ai

Thương ai điêu đứng phong trần

Thương ai án tuyết song hoành luống công

Công lênh vụng bước tao phùng

Giời xanh đã chán má hồng không yên

Thương ai tủi liễu oan đào

Thương ai đi đứng ra vào hổ ngươi

Trăm năm thẹn nói dơ cười

Hồng nhan mang lấy của giời mà chi!

Thương ai nhằm bẽ tu mi

Thương ai áo khép chân quỳ hôm mai

Vị chi một vẻ cân đai

Mà con người ấy ra người bó tay

Thương ai vò võ canh chầy

Thương ai nấn ná tháng ngày chiếc thân

Gió thu lần lượt mưa xuân

Huê tàn giăng xế vơi phần điểm trang

Thương ai dạ ngọc gan vàng

Thương ai thân bỏ chiến trường như không!

Vô tình chi mấy hoá công

Giang sơn để giận anh hùng nghìn thu

Tiếc của đời

I

Nhác thấy không đành mất

Cho nên tiếc của đời

Chị Hằng ơi chú Cuội

Con cú nọ cành mai

Khốn nạn, người hay ngợm

Thương ôi, sắc với tài

Chẳng qua duyên nợ phượu

Gìn giữ luống công tai!

II

Trông ai mà lại tiếc cho ai

Ai thế, ai ơi, thế cũng hoài

Tưởng lúc gối chăn chung lại chạ

Thời bao son phấn đượm càng phai

Đầu xanh trải đã bao khôn dại

Phận bạc đeo chi lấy sắc tài!

Hỏi cũng e lời, ngơ cũng tội

Trông ai mà lại tiếc cho ai

III

Ấy ai như thế thế mà ưa

Ai bảo khôn ngoan hoá cũng khờ

Chẳng biết mê bùa hay đắm thuốc

Mà tham kết tóc với se tơ

Một nhầm hai dại còn chi nữa

Ngàn khéo trăm khôn thế cũng thừa

Tôi thấy người ta sao nó nói:

Có chồng càng lại dễ hơn chưa

Tiễn năm Đinh Mão (1927)

Thôi năm Đinh Mão đã qua rồi

Xã hội xem chừng vẫn thế thôi

Một cuộc chiến tranh thành cũng hão

Tứ mùa ngày tháng thoáng như trôi

Sinh tồn góp mãi trong vòng đất

Tiến thủ thương ôi cái tuổi giời

Non nước sang xuân hoa cỏ mới

Nước non Đinh Mão ngậm ngùi ai

Tiễn ông Công lên chầu giời

Hăm ba tháng chạp tiễn ông Công

Thường tục từ xưa có phải không?

Chẳng biết hoàn cầu đâu cũng thế

Hay chỉ người Nam lễ tục chung?

Cùng trong đất nước xin theo chúng

Gọi có hương vàng cúng tiễn ông

Ngựa cá ông lên chầu Thượng đế

Trần gian xin nhớ có tôi cùng

Tôi tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn

Đã có từ phen đến đế cung

Hầu Giời một chuyến từ năm ấy

Thấm thoắt nay đà mấy chục đông

Giời có sai tôi một việc nặng

Đến nay tôi vẫn làm chưa xong

Cũng vì cảnh riêng thật bối rối

Ở không yên ổn chạy lung tung

Khê Thượng, Bất Bạt về Hà Nội

Sài Gòn, Vĩnh Yên ra Hải Phòng

Bờ hồ Hoàn Kiếm xuống Nam Định

Sế chợ Đồng Xuân sang Hàng Bông

Phố tỉnh Sơn Tây lại Khê Thượng

Một tết Quảng Yên, nay Hà Đông

Khi làm chủ báo, lúc viết mướn

Hai chục năm dư cảnh khốn cùng

Trần gian thước đất vẫn không có

Bút sắt chẳng hơn gì bút lông

Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc

Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc

Chán cả giang hồ, hết cả ngông

Qua hết đông này năm chục tuổi

Xuân sang đã nửa giấc mơ màng

Văn chương quẩn mãi cùng thân thế

Sự nghiệp mong gì với núi sông

Câu chuyện hầu giời khi tưởng đến

Gan vàng như nấu lại như nung

Nếu không một việc làm xong trọn

Luống để trăm năm mắc thẹn thùng

Chút lòng tri kỷ xin ông giúp

Minh bạch tâu lên đến cửu trùng

Hai chữ “thiên lương” thằng Hiếu nhớ

Dám mong không phụ giời trông mong

Tiếp theo bài “Vịnh bức địa đồ rách”

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi

Ta bồi cho chúng chị em coi

Giận cho con cái đà hư thế

Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài

Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ

Có hồ, có giấy dễ như chơi

Vì chưng hồ giấy ta chưa có

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi

Tình sắc

Tình tình sắc sắc

Muốn buông ra mà lắc rắc mãi chưa ra!

Lại vương thêm tơ tóc mối trần ai

Nợ nhân thế khéo dằng dai là thế thế!

Nhất thiên linh vũ sơn hà lệ

Ngũ dạ bi phong thảo mộc đề

Bởi vì đâu cơn tỉnh lại cơn mê

Giời đất ấy nghĩ mê mà nghĩ chán

Ngọn bút thuỷ bôi đen bao tuế nguyệt

Kiếp phù sinh thêm thẹn với làng chơi

Đố ai lượm đá quăng giời!

Tới chùa Hương, đêm nhớ các bạn ở Vàng Danh, gửi lại

Một chiếc song loan cách mỏ Vàng

Xe hơi khách đã tới chùa Hương

Mơ màng sắt đá năm canh vắng

Quanh quất non sông mấy dặm trường

Tiếng quốc gọi luôn hồn mộng tỉnh

Ruột tằm thêm mãi mối tơ vương

Ai đi Uông Bí nhờ thăm hỏi

Hai chữ Vàng Danh nghĩa cũ càng

Trăm năm trọn đời người

Sáu mươi nhân thế, thế mà thôi

Đinh Sửu năm nay thiếu một rồi

Thế tục thiên thu đường vạn lý

Gia đình xã hội gánh hai vai

Đầu xuân đã thấy thoi đưa én

Cuối chạp rồi xem tuyết điểm mai

Hỡi khách đa tình ai đó tá

Cuộc cờ năm mới tính sao ai?

Xem thêm:  Mười hai tháng sáu - Vũ Hoàng Chương

Trai thời loạn

(Luận văn có thơ)

Hai mươi nhăm triệu con người

Trừ ra khăn yếm còn thời mày râu

Chắp tay rồi lại cúi đầu

Nghĩ nguồn cơn ấy ai sầu chăng ai!

Thế mà cũng kiếp làm trai

Con Hồng cháu Lạc cũng nòi giống ta

Ai về nhắn bạn quần thoa

Chồng con như thế xót xa thế nào?

Thương ai phận gái má đào

Tự trào

Vùng đất Sơn Tây nảy một ông

Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng

Sông Đà núi Tản ai hun đúc?

Bút thánh câu thần sớm vãi vung

Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh

Khuyên khuyên điểm điểm có hay không?

Bởi ông hay quá ông không đỗ

Không đỗ ông càng tốt bộ ngông

Tự vịnh

(đêm giao thừa năm Quý Dậu với năm Giáp Tuất)

Sông Đà núi Tản đúc nên ai

Trần thế xưa nay được mấy người?

Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc

Thanh cao phô trắng một cành mai

Bạc tiền gió thoảng: thơ đầy túi

Danh lợi bèo trôi: rượu nặng vai

Giáp Tuất giời sai tiên nữ xuống

Thiên thu đặc cách cái xuân dài

Về quê nhà cảm tác

Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay

Gió đưa người cũ lại về đây

Ba Vì tây lĩnh nom thêm trẻ

Một giải thu giang nước vẫn đầy

Nam Bắc đã nên người duyệt lịch

Giang hồ đáng chán vị chua cay

Mười ba năm đó bao dâu bể

Góp lại canh trường một cuộc say!

Viếng bạn rượu

Bác đã về thôi, đời đáng chán!

Tôi còn sống mãi, rượu cùng ai?

Viếng thi sĩ Tản Đà

Ôi thôi hỡi bác Tản Đà:

Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời

Xa trông mây nước ngậm ngùi,

Tấm lòng thương nhớ mấy lời viếng thăm.

Nhớ ai vấn vít tơ tầm,

Nước non ai kẻ đồng tâm hẹn hò.

Thơ đầy túi, rượu lưng hồ,

Dẫu cho kiết cũng danh nho nước nhà.

Ôi thôi hỡi bác Tản Đà!

Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời.

Tôi với bác, bác với tôi,

Tuy không quen biết cùng người đồng bang.

Lại thêm cùng mối văn chương,

Chung tình non nước, tơ vương bên lòng.

Bấy lâu tôi những ước mong,

Có phen run rủi tương phùng hai ta.

Ôi thôi hỡi bác Tản Đà!

Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời.

Làm chi vội mấy bác ơi,

Chí cao nghiệp lớn ai người nối theo.

Thuyền nan ai giữ mái chèo?

Con thuyền bản quốc ai liều sóng khơi?

Bức dư đồ rách ai bồi?

Báo An Nam nghỉ ai rồi lại ra?

Ôi thôi hỡi bác Tản Đà!

Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời.

Than ôi! còn đất còn trời,

Còn non còn nước, đâu người nước non?

Đà dù cạn, Tản dù mòn,

Danh thơm thi sĩ vẫn còn truyền lâu.

Hồn thơ phảng phất nơi đâu,

Chút tình có thấu cho nhau chăng là.

Ôi thôi hỡi bác Tản Đà,

Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời…

Vịnh bà Triệu

Mê Linh khuất bóng, gái còn ai?

Bà Triệu nhà ta cũng đáng tài

Vùng vẫy non sông ba thước vú

Xông pha tên đạn một đầu voi

Duyên trần chẳng chút tơ vương mối

Nợ nước riêng mình gánh nặng vai

Thua được cũng cho Ngô biết mặt

Lam Sơn còn có gái tài trai

Vịnh sen hồ Hoàn Kiếm

Hồ Gươm sen mới ra hoa

Cả hương cả sắc ai là không chơi

Sen tàn lá rách tả tơi

Quanh hồ lai vãng, ai người tiếc thương

Nước hồ sen đứng soi gương

Còn đâu là sắc là hương với đời

Tủi thân sen lại giận giời

Cho chi hương sắc cho người trọng khinh

Vô đề

Suối tuôn róc rách ngang đèo

Gió thu bay lá, bóng chiều về tây

Chung quanh những đá cùng cây

Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm

Hỏi thăm những cá cùng chim

Chim bay xa bóng, cá chìm mất tăm!

Bây giờ vắng mặt tri âm

Lấy ai là kẻ đồng tâm với mình?

Nước non vắng khách hữu tình

Non xanh nước biếc cho mình nhớ ai!

Vui xuân

Tin xuân đến ngọn cây đào

Bảo cho hoa biết ra chào Chúa Xuân

Mỗi năm xuân đến một lần

Thiều quang chín chục xoay vần chẳng sai

Ngày xuân còn mãi không thôi

Tuổi xuân ai dễ xanh rồi lại xanh

Đường mây những khách công danh

Mày râu cụ lớn thay hình thanh niên

Thành sầu mấy ả Khâm Thiên

Én oanh dẫn lối con thuyền Tầm Dương

Làng văn mấy bạn văn chương

Bút hoa án tuyết, hơi sương mái đầu

Tiểu thư ai đó tựa lầu

Thơ đào chưa vịnh, mai hầu bảy ba

Trời xanh, trời cũng khi “già”

Xuân xanh, xanh mãi đâu mà, hỡi ai!

Gặp xuân ta hãy làm vui

Kẻo nay xuân đến kẻo mai xuân về

Vui xuân rượu uống thơ đề

Xem thêm:  Bài thơ Du Thiếu Lâm Tự đặc sắc nhất của nhà thơ Thẩm Thuyên Kỳ

Xem tiểu thuyết “Tờ chúc thư” cảm đề

Thật có hay là mắc tiếng oan

Kém năm trăm nữa đủ ba ngàn!

Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn

Mặt sắt còn bia miệng thề gian

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn

Cho nên quân nó dễ làm quan

Đào mà đào được nên đào mãi

Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An?

Xuân cảm

Xuân kia sáu bẩy mươi lần

Của giời tham được độ ngần ấy thôi

Chơi hoang mất nửa đi rồi

Ngẩn ngơ ngồi nghĩ thân đời mà lo

Trông gương luống đã thẹn thò

Một mai tóc bạc vai gù mới dơ

Thương thay! xuân chẳng đợi chờ

Tiếc thay! xưa những hững hờ với xuân

Trăm nghìn gửi lại Đông Quân

Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui

Lượng xuân xin chớ hẹp hòi

Xuân hứng

Giáp Tuất qua rồi, Ất Hợi đây,

Ngày đi như biến, tháng như bay.

Tháng ngày bay biến năm ra khác,

Mà cái xuân tình chẳng đổi thay.

Nhất cao là núi Ba Vì,

Cây cao nhất núi chẳng gì bằng thông.

Trải bao xuân, hạ, thu, đông,

Càng sương phủ trắng cho tùng càng xanh.

Ngày xuân mới, ca oanh, múa én,

Đối non xanh, cất chén rượu đào.

Hương đưa mùi rượu ngọt ngào,

Gió thông trên núi quạt vào hồn thơ.

Mầm thơ vui đắp từ xưa,

Mười lăm năm mới bây giờ ra hoa.

Xuống ngọn bút, mưa sa gió táp,

Vạch câu thơ quỷ thảm, thần kinh.

Chúa Xuân nức nở bên mình:

“Văn chương rất mực tài tình, hỡi ai!”

Trông ra núi lớn sông dài,

Ngó quanh lại chỉ một người là ta.

Nay vẫn bác Tản Đà năm trước,

Thủa xuân xanh thề ước non sông.

Trải bao xuân, hạ, thu, đông,

Càng phơ mái tóc cho lòng càng son.

Ước sao cùng nước cùng non,

Trăm năm một khối tình con cùng già.

Xuân sầu (I)

Mưa xuân Hồng Lạc tươi mầu

Bức tranh mưa gió riêng sầu lòng ai

Năm châu xa lắc đường dài

Nước non biết có ai người đầu binh?

Xuân sầu (II)

Trăm hoa đua nở đẹp hơn cười

Một cái oanh vàng uốn lưỡi chơi

Phong cảnh chiều xuân vui vẻ thế

Xuân sầu chi để bận riêng ai!

Mười lăm năm trước xuân xanh

Tri Tri cất tiếng, Hữu Thanh gọi đàn

Tình nguyện vọng chứa chan non nước

Bạn tri âm man mác giời mây

Nở gan một cuộc cười say

Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không

Phận nam nhi tang bồng là chí

Chữ trượng phu ý khí nhường ai

Non sông thề với hai vai

Quyết đem bút sắt mà mài lòng son

Dư đồ rách, nước non tô lại

Đồng bào xa, trai gái kêu lên

Doanh hoàn là cuộc đua chen

Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam!

Tiếng gọi bạn nửa năm vừa dứt

Sức thua giời, trăm sức mà chi

Tình duyên đến lúc phân ly

Giang sơn bảng lảng, tu mi thẹn thùng

Xếp ngọn bút, đau lòng son sắt

Giã đàn văn, lánh mặt phong sương

Cho hay trần luỵ đa mang

Trăm năm duyên nợ văn chương còn nhiều

Thuyền một lá buông liều sông nước

Lái tám năm xuôi ngược giòng sông

Nực cười trận gió đông phong

Làm cho chú lái không công mất thuyền

Ngồi nghĩ lại mối duyên sao lạ

Dẫu kêu rằng món nợ cũng hay

Trần hoàn trả trả vay vay

Kể chi công nợ, cho rầy thanh tao

Mừng xuân mới, rượu đào khuyên cạn

Vắng tri âm mà bạn non xanh

Gan vàng, tóc bạc, non xanh

Thiên nhiên ai hoạ bức tranh xuân sầu?

Xuân tứ

Xuân xưa Hàng Lọng cờ bay

Thoi đưa ngày tháng đã đầy mười năm

Biết bao ra Bắc vào Nam

Bức dư đồ rách đã cam khó lòng

Văn chương chút nghĩa đèo bòng

Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao?

Ngày xuân thêm tuổi càng cao

Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!

Như vậy đây là phần thơ cuối cùng trong tuyển tập những bài thơ hay của Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu được tại sao trước đây ông bị đả kích rất nhiều nhưng bây giờ lại được nhìn nhận lại ở một góc nhìn khác. Và cũng hiểu được vị trí của ông trên diễn đàn thơ ca. Đừng quên đón đọc các bài thơ trong các tập thơ nổi tiếng khác của ông bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …