Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Tản Đà và phần Đề, Từ, Đưa thư (Tập Khối tình con II 1918)

Nhà thơ Tản Đà và phần Đề, Từ, Đưa thư (Tập Khối tình con II 1918)

Nhà thơ Tản Đà và phần Đề, Từ, Đưa thư (Tập Khối tình con II 1918)

Ở phần Đề, Từ của tập thơ Khối tình con II của ta cũng cảm nhận được các triết lý và cách nhìn đời của nhà thơ. Đó chính là những sự kiện trong cuộc sống đời thường nhưng được nhìn nhận đưới góc nhìn của một thi sĩ. Tuy nhiên về cơ bản các bài thơ trong các phần này cũng sẽ mang khuynh hướng tình cảm và chất lãng mạn. Đây cũng chính là một trong những phong cách sáng tác thơ của Tản Đà. Cùng tìm hiểu và cảm nhận bạn nhé!

Quạt xương trắng phất lượt hồng

Duyên em dù nối chỉ hồng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương

Tranh uyên ương dưới giăng

Tình duyên nay mới từ đây

Mà hồn kiếp trước đây này phải chăng?

Hỏi thăm những gió cùng giăng

Tranh người con gái tựa ghế ngồi ngủ

văn chương khó lạ lùng!

Ngọn đèn xanh biếc suốt

Sao cô ngủ mãi bao giờ dậy?

Để một mình ai nghĩ chẳng xong

Trông hạc bay

Trông khắp trần gian hết thú chơi

Thèm trông con hạc nó lên giời

Hạc kia bay bổng tuyệt vời

Hỏi thăm cung Nguyệt cho người chọ không?

Cưỡi ngựa đi thăm bạn

Xanh xanh cỏ mọc chân giời

Xăm xăm trên ngựa nọ người đâu ta

Tri âm ai đó?

Xem thêm:  Bài thơ Tình thu – Nhà thơ Dương Tuấn

Dặm đường còn xa

Trên ao sen chơi hoa

Hỏi hoa, hoa chẳng nói

Trông hoa, hoa lại cười

Hoa nô cũng giống chơi bời

Yêu hoa, hoa có yêu người hay không?

Nước xanh càng tỏ thức hồng

Trên bờ sông chơi giăng

Người cũng chưa già

Giăng cũng chưa già

Sông thu một khúc mặn mà cả hai

Trần ai, giăng hỡi, yêu ai?

Đốt lò sưởi xem sách

Tuyết sương lạnh ngắt !

Đốt lò hương, hỏi chuyện người

Bài ca thi của hai tiên nữ tiễn hai chàng Lưu, Nguyễn ra cửa động Thiên Thai về trần

(Điệu Hoa phong lạc)

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi!

Đá mòn rêu nhạt

Nước chẩy hoa trôi

Cái hạc bay lên vút tận giời

Giời đất từ đây xa cách mãi

Cửa động đầu non đường lối cũ

Ngàn năm bóng giăng chơi

nàng Mỵ Ê lúc gieo mình xuống sông Châu Giang bài 1

(Điệu Vân thê)

Châu Giang một dải sông dài

Thuyền ai than thở một người vương phi

Đồ Bà thành phá huỷ

Ngoạ Phật tháp thiên di

Thành tan tháp đổ

Chàng tử biệt

Thiếp sinh ly

Sinh ký đau lòng kẻ tử quy

Sóng bạc nghìn trùng

Âm dương cách trở

Chiên hồng một tấm

Phu thê xướng tuỳ

Lời tác giả: Trong sử ta, đời Lý, vua Thái Tôn vào đánh Chiêm Thành, chém vua Chiêm là Sa Đẩu. Vợ vua Chiêm là nàng Mỵ Ê bị bắt xuống thuyền rồng đem về. Đến sông Châu giang Nhân, vua Thái Tôn truyền đòi ra hầu rượu, nàng ấy lấy một tấm chiên hồng quấn mình gieo xuống sông, nay có đền thờ tại .

Tâm sự nàng Mỵ Ê lúc gieo mình xuống sông Châu Giang bài 2

(Điệu Hoa phong lạc)

Ơi mây! ơi nước! ơi giời!

Đũa ngọc mâm vàng giọt luỵ rơi

Xem thêm:  Bài thơ Sông quê mùa nước nổi – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Nước sông trong đục

Luỵ thiếp đầy vơi

Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời

Giời ơi! nước hỡi! mây hời!

Nước chẩy, mây bay, giời ở lại

Để thiếp theo chồng mấy dặm khơ

Văn dẫn

(Điệu đưa thư này, trong sự hát nhà trò, đọc theo lối gửi thư)

Thương ai, nhớ ai

Người ta lúc mới sinh mà tình cũng sinh, rồi hình thể mỗi ngày mỗi nhớn.

Tri giác hẹp mà thuần thời tình ít; tri giác rộng mà tạp thời tình nhiều.

Tình ít cho nên có ran ríu thời thương, có biệt ly thời nhớ; không thương người không biết, không nhớ người vu vơ.

Thế gian thế cả, sao mình thời không?

Nào biết ai thương mình, mà mình cứ thương.

Nào biết ai nhớ mình mà mình cứ nhớ,

Ai nhớ mình không hay, chắc cũng không ai mong mình nhớ.

Ai thương mình không biết, chắc cũng không ai mong mình thương.

Cũng chẳng qua đáng thương thời thương, nên nhớ thời nhớ.

Cũng chẳng qua sẵn bụng thương thời thương, thừa bụng nhớ thời nhớ.

Cũng chẳng qua cái giống , nằm không ngồi rồi mà sinh ra nhớ hão thương vay.

Ran díu mà thương, cũng có lúc thương người tứ hải,

Biệt ly mà nhớ, cũng nhiều khi nhớ kẻ bất tri tình.

Nhân ngồi rồi viết chơi mấy bức thư, cũng để trút vợi bớt những nguồn thương bể nhớ.

Thư đưa người tình nhân có quen biết

Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi

Viết bức thư này gửi đến ai

Non nước thề nguyền xưa đã lỗi!

Ân tình nay có bốn su thôi

Ngàn sương bạc bay qua tiếng nhạn

Ngọn đèn xanh khêu cạn đĩa dầu

Mình ai chiếc bóng đêm thâu

Nỗi riêng, riêng một mối sầu vì ai

Tâm sự ấy nói dài sao xiết

Giấy mực đâu vẽ hết du mà!

Dở dang là chữ tài hoa

Chắp tay vái lạy giăng già chứng cho

Kể từ độ giang hồ lạc phách

Xem thêm:  Chính thơ và chế thơ hài hước: Chuyện tình Trương Chi

Hội tương phùng đất khách đôi ta

Biết nhau khi mới mười ba

Tuần giăng chưa mãn, nụ hoa chưa cười

Cùng một thủa ăn chơi nhàn biếng

Trải mấy thu hơi tiếng vừa quen

Canh khuya hai bóng một đèn

Gió mai sương sớm, đơn mền có nhau

Dạ bảo dạ vàng thau gắn bó

Năm lại năm mưa gió đê mê

Một tường lá rủ hoa che

Bắc nam mấy độ đi về dưới giăng

Duyên hồ thắm bỗng nhưng lại nhạt

Mối tơ vương đứt nát tan tành

Tấm riêng riêng những thẹn mình

Giữa đường buông đứt gánh tình như không

Gập tờ giấy niêm phong hạt lệ

Nhờ cánh tem bay đệ cung mây

Ái ân thôi có ngần này

Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh

Thư đưa người tình nhân không quen biết

Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi

Viết bức thư này gửi đến ai

Non nước xa khơi tình bỡ ngỡ

Ai tri âm đó? nhận mà coi

Làn mây biếc long lanh đáy nước

Ánh tà dương ngả gác non đoài

Tranh kia ai vẽ cho giời?

Ngoài sơn thuỷ lại một người đứng trơ

Hồn kiếp trước ngẩn ngơ chưa tỉnh

Mối tình riêng vơ vẩn càng thêm

Tuyệt mù tăm cá hơi chim

Nào người nhớ hỏi thăm tìm là đâu

Kể từ độ lọt đầu se tóc

Cũng cùng mang tiếng khóc mà ra

Cội sầu ta lại với ta

Lọ quen biết mới gọi là tương tri

Cơn gió thảm có khi cùng khóc

Bóng giăng thanh lắm lúc cùng chơi

Gượng vui cũng một nét cười

Nguyệt hoa cùng trải nước đời như nhau

Bể trần hải chẳng sâu mà sóng

Cầu hành tinh đã rộng thêm tròn

Tài tình một gánh con con

Đông, tây, nam, bắc, ai còn gặp ai

Nỗi bèo nước đã thôi thời thế

Tình cỏ sương chưa dễ mà khuây

Phòng văn giở lại gót giầy

Chén rót cho đầy lại vơi

Tấc son giãi mấy nhời huê bút

Tờ giấy bay theo ngọn gió đông

Lòng kia hỡi có in lòng?

Nước non khơi cách nghìn trùng chưa xa

Trên đây là các bài thơ nằm trong phần Đề và Từ của tập Khối tình con II Tản Đà. Qua các bài thơ này ta có thể thấy được và khuynh hướng văn chương của ông. Đó chính là một năng lực sáng tác vô hạn. Hơn nữa thơ Tản Đà cũng được đánh giá cao về sự sâu sắc của mình. Đừng quên đón đọc những bài thơ tiếp theo của Tản Đà để cùng cảm nhận và hiểu hơn về phong cách thơ của ông bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …