Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Tản Đà và phần Thơ, vịnh (Tập Khối tình con I 1916)

Nhà thơ Tản Đà và phần Thơ, vịnh (Tập Khối tình con I 1916)

Nhà thơ Tản Đà và phần Thơ, vịnh (Tập Khối tình con I 1916)

Tập Khối tình con I của nhà thơ Tản Đà sáng tác được đánh giá là một trong những tập thơ hay của ông. Với tập thơ này Tản Đà chia làm một số phần nhỏ như: Thơ vịnh, Các câu hát, Từ khúc, Nhàn đàm hài đàm. Tập thơ này lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1915 và khi ấy đã gây được tiếng vang lớn trong văn đàn. Dưới đây chúng tôi sẽ gợi ý cho bạn các bài thơ trong phần Thơ vịnh của tập thơ này. Cùng đón đọc nhé!

Tựa

Chữ nghĩa Tây, Tàu trót dở dang

Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng

Nửa ngòi bút ngỗng, ba sinh luỵ

Một mối tơ tằm, mấy đoạn vương

Có kẹo, có câu là sách vở

Chẳng lề, chẳng lối cũng văn chương

Còn non, còn nước, còn giăng gió

Còn có thơ, ca bán phố phường

Bạt

Ngồi rỗi, ăn không, nói gẫu chơi

Ai nghe, nghe gẫu một đôi lời

Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo

Mà đến bi giờ có thế thôi

Muốn làm thằng Cuội

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Có bầu, có bạn, can chi tủi,

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.

Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Thăm thằng bồ nhìn

Lơ láo kìa ai đứng cạnh bờ

Trần ai tri kỷ đã ai chưa?

Ba thu mưa gió người chơ mộc

Bốn mặt giang sơn áo phất cờ

Được việc thế thôi, cầy chẳng biết

Khinh đời ra dáng, gọi không thưa

Lâu nay thiên hạ văn minh cả

Bác mấy ngàn năm vẫn thế ư?

Vịnh cánh hoa đào

Giời đẻ, giời nuông, giời phải dạy

Dẫu rằng bé bỏng khéo kiêng khem

Trải bao đêm vắng cùng mưa móc

Vẫn một màu son với chị em

Cười trận gió đông hăng hái thổi

Thương con bướm trắng phất phơ thèm

Xin ai yêu đến đừng ham mó

Hễ mó tay vào, ố nhọ nhem

Hoa sen nở trước nhất ở đầm

Trong đầm gì lại đẹp hơn sen

Một đoá kìa kìa nở trước tiên

Mặt nước, chân giời, thân gái lạ

Đài xanh, cánh trắng, nhị vàng chen

Xôn xao bay rồi đàn con bướm

Đủng đỉnh bơi xa một chiếc thuyền

Đã trót hở hang khôn khép lại

Lại còn e nỗi chị em ghen

Phú đắc: Cái ruột con tầm, em ôi! bối rối mà vò tơ

Cùng nong, cùng lá những mong chờ

Cái ruột con tầm bối rối tơ

Giả nợ cho dâu là sự thế

Thương tình đến bạn cũng buồn như

Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnh

Đòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ

Gớm nỗi không chồng đau đớn lạ!

Đố ai đêm vắng dễ mần ngơ!

Phú đắc: Không chồng ai dễ sống chi lâu

Trăm năm những nguyện bóng giăng già

Duyên nợ chàng ôi! có thế a?

Địa phủ sao anh về mất mãi?

Trần gian em có tội chi mà!

Kìa con én trắng đâu đâu lại

Giục cái thoi vàng chóng chóng qua

Buồn! quấn mành trông, trông chẳng thấy

Chồng ai vô số lối đường xa…

Bóp vú đau tay

Hàng xứ đồn lên lắm truyện hay

Con người như thế hoá non tay

Gớm cho cô bé liều gan tệ!

Chết nỗi làng chơi phải miếng cay!

Hùm đã biết hang sao cứ mó?

Chim chưa vỡ bọng dễ mà bay

Từ đây buộc chỉ thôi chừa nhé

Đừng dám chơi dao lại có ngày

Con gái hái dâu

Anh có yêu em đứng lại mà

Ở đây vắng vẻ quãng đường xa

Thuyền quyên có ý trông theo thấy

Quân tử vô tình bước mãi a?

Rồi nữa rồng mây ra mỗi ngả

Còn đâu hoa nguyệt nữa đôi ta?

Hỡi anh áo trắng cầm ô máy

Có phải nhân tình chớ vội qua

Ghẹo người vu vơ

Đầu ai sao tóc rối lung tung?

Chắc hẳn vì chưng nỗi tưởng chồng

Cậu ấy đi đâu lâu thế nhỉ?

Phòng riêng hay lại vẫn còn không?

Chẳng về sếp nép trong buồng cửi?

Mà đứng bơ vơ ngọn gió đông

Xem thêm:  Nhiều cành - Một cây - Phan Văn Hi

Muốn hỏi truyện chơi, không có truyện

Kìa đàn con sếu nó sang sông

Đùa cô sư

Ai ai đứng khuất bóng giăng mờ

Cô sử, cô sư khéo thẫn thờ

Cửa Phật những mong tròn quả phúc

Cõi trần sao nỡ dứt duyên tơ?

Vãi già tiểu bé đâu đâu cả?

Chùa vắng sân không thế thế ư?

Tớ dẫu chưa tu, đầu dở trọc

Phen này ốm trọc cũng ra sư

Nhớ chị hàng cau

Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau

Khoảng mấy năm giời ở những đâu?

Khăn vải chùm hum lâu vắng mặt

Chiếu buồm che giữ có tươi mầu?

Ai đương độ ấy lăm răm mắt

Tớ đã ngày nay lún phún râu

Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo

Cậy ai mà nhắn một đôi câu?

Xem cô chài đánh cá

Ngày ngày vô sự đứng bờ sông

Ướm hỏi cô chài: cá bán không?

Đủng đỉnh ghe nan dòng Hát thuỷ

Phất phơ tà áo gió đông phong

Thầy đồ bến nọ khèo chân ngó

Bác xã nhà đâu sốt ruột mong

Cô cất lưới lên bồng bỗng tếch

Lấy chi nuôi nấng cái, con, chồng?

Đêm xuông phủ Vĩnh

Đêm xuông vô số cái xuông xuồng

Xuông rượu, xuông tình, bạn cũng xuông!

Một bức màn con coi ngán nỗi

Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng!

Một vừng giăng khuất đi mà đứng

Một lá mành treo quấn lại buông

Ngồi hết đêm xuông, xuông chẳng hết!

Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông

Nhớ bạn

Vừng giăng thơ thẩn khéo trêu ngươi!

Trông thấy giăng mà nhớ lại ai

Nhớ lúc rượu ngon răm bảy chén

Nhớ khi đêm vắng một đôi người

Nhớ sân đứng tế người thiên cổ

Nhớ chỗ nằm xem truyện “Liễu chai”

Muốn nhắn hỏi thăm ai nhắn hộ?

Chùa Tiên, sông Hát những ai chơi?

Gió thu

Trận gió thu phong rụng lá vàng

Lá rơi hàng xóm, lá bay sang

Vàng bay mấy lá năm già nửa

Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!

Trận gió thu phong rụng lá hồng

Lá bay tường bắc, lá sang đông

Hồng bay mấy lá năm hồ hết

Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!

Tây hồ vọng nguyệt

Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi

Đêm thu vằng vặc bóng theo người

Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước

Tri kỷ trông lên đứng tận giời

Những ngán cành đa khôn quấn quít

Mà hay mặt sóng cũng chơi vơi

Ai lên cung quế nhờ thăm hỏi

Soi khắp trần gian có thấy ai

Thăm mả cũ bên đường

Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà

Đường xa, người vắng, bóng chiều tà

Một rẫy lau cao, làn gió chạy

Mấy cây thưa lá, sắc vàng pha

Ngoài xe chơ một đống đất đỏ

Hang hốc đùn lên đám cỏ gà

Người nằm dưới mả, ai ai đó?

Biết có quê đây, hay vùng xa?

Hay là thủa trước kẻ cung đao?

Hám đạn, liều tên, quyết mũi dao

Cửa nhà xa cách, vợ con khuất

Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao

Hay là thủa trước kẻ văn chương?

Chen hội công danh nhỡ lạc đường

Tài cao, phận thấp, chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương

Hay là thủa trước khách hồng nhan?

Sắc sảo khôn ngoan giời đất ghen

Phong trần xui gặp bước lưu lạc

Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn

Hay là thủa trước khách phong lưu?

Vợ, con, đàn hạc đề huề theo

Quan san xa lạ đường lối khó

Ma thiêng, nước độc, phong sương nhiều

Hay là thủa trước bậc tài danh?

Đôi đôi, lứa lứa, cũng linh tinh

Giận duyên, tủi phận, hờn ân ái

Đất khách nhờ chôn một khối tình!

Suối vàng sâu thẳm biết là ai

Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!

Trải bao ngày tháng trơ trơ đó

Mưa dầu, nắng giãi, giăng mờ soi

Ấy thực quê hương con người ta

Dặn bảo trên đường những khách qua:

Có tiếng khóc oe thời có thế

Trăm năm ai lại biết ai mà!

Ve bâng quơ

Ngỏ môi ra cũng thẹn thùng!

Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho đang!

Liều mấy chữ gửi làng khuê tố

Mảnh gương nga soi có thấu lòng

Ai ơi đợi với tôi cùng

Bõ công trang điểm má hồng răng đen!

Xem thêm:  Tuyển tập thơ hay, nổi tiếng nhất của thi sĩ Bùi Giáng (Phần 2)

Chơi Hoà Bình

Vì ai cho tớ cứ lênh đênh!

Nặng lắm! ai ôi! một gánh tình!

Non Tượng giời cho bao tuổi lẻ?

Sông Đà ai vặn một dòng quanh?

Lơ thơ hàng phố mươi nhà đỏ

Phấp phới cô nàng chiếc váy xanh

Mỗi tháng chợ đêm ba buổi họp

Ngọn đèn nha phiến đốt linh tinh

Chơi chùa Hương Tích

Chùa Hương giời điểm lại giời tô

Một bức tranh tình trải mấy thu

Xuân lại xuân đi không dấu vết

Ai về ai nhớ vẫn thơm tho

Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt

Đá hỏm hang đen tối tối mò

Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối

Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho

Chơi trại Hàng Hoa

(Vườn Bách Thảo Hà Nội)

Cách phố Hà Nội gần không xa

Thú đâu hơn thú trại Hàng Hoa

Có dịp đi chơi buồn giải buồn

Trưa lên hóng mát ngồi ngâm nga

Ngồi buồn nhớ lại sự tích

Đô đóng Thăng Long xưa mấy nhà?

Ở đây hoặc có lâu, đài, các?

Hay chỉ ít nhiều cây, cỏ, hoa?

Nhưng hẳn từ ngày quan Tây sang

Mới rào chuồng sắt nuôi bách thú

Thú lạ, chim đẹp, cây cối râm

Đường lối thanh quang, phong cảnh thú

Trong ba tháng hạ lắm người chơi

Lại nhất chiều mát càng đông đủ

Ông tây, bà đầm, Nhật Bản, khách

Phán, ký, làng nho, bồi, bếp, vú

Xe xe, ngựa ngựa, lại người người

Đứng đứng, đi đi, nói nói, cười

Bươm bướm cánh bay mầu áo phớt

Ngọc lan hương thoáng nước huê rơi

Chiều quá khách chơi về đã vãn

Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi

Cây xanh, nước biếc, hồng tung bụi

Ngao ngán tình riêng nhớ nhớ ai!

La ga Hàng Cỏ

Thường thường đôi khi về chơi Hà

Chơi chán trò chơi giở lại nhà

Gần sáng nghe động xe điện chạy

Cao su cũng tít kề La ga

La ga lúc ấy đèn choang sáng

Xôn xao rối lộn tây, tầu, ta

Đủ cả thầy cô lẫn anh chị

Biết bao thằng con cùng ông bà?

Của cũng như người vô số hạng

Kẻ mang người xách, đứa bê tha

Va li, khăn gói, bồ, thúng, đẫy

Bướm vàng, sống lĩnh, vòng, hột, hoa

Vé phát hành khách vé đồ vật

Hạng tư, hạng nhất, hạng nhì, ba

Bốn cửa vé đi, bốn đường chạy

Chen nhau vào lấy, tranh nhau ra

Kẻ ra Hải Phòng, kẻ đi Vinh

Kẻ ngược Lào Kay, kẻ lên Lạng

Chuyến ấy qua xong, chuyến khác về

Sớm sớm, trưa, chiều, đưa, đón rước

Bao nhiêu nhanh chóng bấy nhiêu tiền

Đã tiện cho dân lại lợi nước

Nghĩ xem một sự đường hoả xa

Thực người đời nay sướng hơn trước

Một trứng trăm giai

Sử sách thủa hồng hoang chưa có

Miệng đồn không đó, dám tin nào!

Hai mươi nhăm triệu đồng bào

Nguồn xa, cội cũ biết bao nhiêu là?

Khen ai khéo bầy ra quái gở

Trứng trăm giai sinh nở lạ thường

Cho hay là sự hoang đường

Dòng khôn, khôn nhẽ giống nhường chim muông?

Mỵ Châu, Trọng Thuỷ (Vân thê)

Một đôi kẻ Việt người Tần

Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi máy

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Lòng nhi nữ

Việc quân vương

Duyên nọ tình kia dở dở dang!

Nệm gấm vó câu

Trăm năm giọt lệ

Ngọc trai nước giếng

Nghìn thu khói nhang

Ông Lã Gia

Ngồi buồn xem lại sử Nam nhà

Quan đời vua Triệu ông Lã Gia

Ngôi cao quyền trọng đầu râu bạc

Hai vai gánh vác một sơn hà

Giặc ngoài ngấp nghé, vua Hưng nhỏ

Nước đổ, thành nghiêng, một mụ già

Cù Hậu, sứ thần trong nửa tiệc

Quét sạch hôi tanh, tan nát hoa

Con trưởng vua Minh dựng nối dòng

Hai nghìn vào cõi tính đã xong

Gói cờ tiết Hán để mặt ải

Bao nơi hiểm yếu dàn canh phòng

Năm nghìn lại tiếp quân Tàu sang

Chín chục chết theo cơ nghiệp Triệu

Chưa chắc loạn thần hay trung trinh

Văng vẳng nghìn thu không kẻ hiểu!

Chiêu Hoàng lấy chồng

Quả núi Tiêu San, có nhớ công?

Mà em bán nước để mua chồng!

Ấy ai khôn khéo tài dan díu

Xem thêm:  Bài thơ Nhìn mưa chợt thấy cô liêu – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Những truyện huê tình biết có không?

Một gốc mận già thôi cũng phải

Hai trăm năm lẻ thế là xong

Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo:

Khách cưới nhà ai áo mũ đông?

Đời Hậu Trần

Núi Thiên Cầm giời bắt đôi Hồ

Quan lại Minh sang giữ bản đồ

Muôn rừng, trai bể mắc tai vạ

Người chết không chôn, kẻ sống lo

Nghệ An, Mô Độ ai gây nhóm?

Giản Định, Trùng Quang lại có vua

Mật giặc vỡ tan thành Cổ Lộng

Máu thù lai láng bến Bô Cô

Liều gan cố chết bấy nhiêu phen

Các vị tướng thần ai bậc nhất

Ông Nguyễn Cảnh Dị, bố là Chân

Cùng ông Đặng Dung, bố là Tất

Quân cơ sau trước nối thay nhau

Hai bố hai con một dạ sắt

Khí thiêng đúc lại bốn anh hào

Giời có thương Trần chưa vội mất

Tiếc cho trận đêm cửa Sái Đà

Nhầm để con kềnh lọt lưới ra

Nước nhà giao lại cho quân giặc

Sự nghiệp này thôi đến lão qua

Sông dài, sóng cả, con thuyền ngược

Vua tôi theo trót với sơn hà

Nghìn thu thơm để nước Nam Việt

Mười ba năm nối vận Đông A

Tiết phụ hành

Bà tiết phụ trong họ Tản Đà tiên sinh)

Trăm năm trong cõi người ta

Giai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh

Cuộc nhân thế xoay vần dâu bể

Mối cương thường ai dễ xem khinh

Giời nam sáng vẻ văn minh

Họ Phan một gái hiển sinh trên đời

Núi Sài Sơn là nơi quê quán

Xe hương về họ Nguyễn làm dâu

Dâu con một đạo chân tu

Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai

Chữ cầm sắt sắc tài ưa đẹp

Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà

Nhân sinh đệ nhất thực là!

Nhân gian một bóng giăng già soi chung!

Bốn năm chẵn tơ hồng sớm đứt

Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời

Đầu xanh riêng lẻ mình ai!

Tuổi xanh thoát đã ra ngoài bốn mươi!

Duyên đã ngắn, năm dài vô tận!

Bể phù sinh, chiếc bách sóng dồi!

May thuê vá mướn lần hồi!

Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu!

Áng son phấn tuyệt mù xa cách

Đạo kiên trinh quyết gánh lấy mình

Trăm năm một gối phong trần

Ngàn năm để khách thoa quần một gương!

Sở Khanh

Sỏ lá ai bằng cậu Sở Khanh!

Kiếm ăn lại ở đám lầu xanh

Mảnh tiên tích việt vừa khô mực

Con ngựa truy phong đã phụ tình

Thôi! với thanh lâu người một hội

Chẳng qua hồng phấn nợ ba sinh

Ba mươi lạng bạc đời Gia Tĩnh

Để mãi ngàn thu tiếng Sở Khanh!

Thúc Sinh

Hỏi Thúc Sinh viên bé tội à?

Tuồng chi cả lẽ với giăng hoa!

Gác son ngồi bó giời thua vợ

Sân gạch quì đôi đĩ kiện cha

Tài tử giai nhân nhầm thế nhỉ!

Nhân gian, địa ngục khóc chi mà!

Lâm Chi, Vô Tích bao nhiêu sự?

Nòi giống thư hương thế cũng là!

Thuý Kiều lúc ra tu chùa Hoạn Thư

Sự đời lắm lúc nghĩ buồn tanh!

Oan nợ theo chi mãi với tình!

Nọ những chuông vàng cùng khánh bạc

Này thôi má phấn với đầu xanh!

Liêu Dương mất đứt chàng Kim Trọng

Vô Tích lòi đâu cậu Thúc Sinh

Cái số đoạn trường sao quái lạ

Khéo xoay xoay mãi tít mù xanh

Thuý Kiều hồi thứ 19

Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran

Tướng quân chi tiếc cánh huê tàn!

Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng,

Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan.

Tổng đốc có thương người bạc phận,

Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan.

Chơ chơ nấm đất bờ sông nọ,

Hồn có nghe xa mấy giọng đàn?

Trên đây là các bài thơ trong phần Thơ vịnh của tập Khối tình con I của nhà thơ Tản Đà. Khi xuất bạn đã được Phạm Quỳnh rất ca ngợi và dùng những lời lẽ sâu cây để nhận xét và cũng từ đó Tản Đà trở thành một hiện tượng nổi tiếng trên văn đàn. Đừng quên đón đọc những phần tiếp theo của Tập thơ này để cùng tìm hiểu và cảm nhận thơ của Tản Đà bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …