Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Tản Đà và phần Thù tiếp, Hài hí (Tập Khối tình con II 1918)

Nhà thơ Tản Đà và phần Thù tiếp, Hài hí (Tập Khối tình con II 1918)

Nhà thơ Tản Đà và phần Thù tiếp, Hài hí (Tập Khối tình con II 1918)

là một nhà thơ được biết đến với các bài thơ chúng tôi giới thiệu dưới đây là các tác phẩm của tập thơ Khối tình con II. Đa phần các bài này dề cập dến các lễ Tết, viếng, giỗ và góc nhìn của nhà thơ về vấn đề này. Còn phần Hài hí nó cũng mang trong mình sự hài hước và cũng chính là cái ngông nghênh của nhà thơ.

Câu đối mừng cưới

(Vì một người mừng hai bên cháu dì lấy nhau)

Cháu nay mới thành đôi: đôi cây xa cội liền cành, đuốc hoa một ngọn;

Cậu thấy cũng có một: một mối xe tơ kết tóc, chỉ hồng trăm năm.

Câu đối mừng khao

(Vì một người bạn ở làm việc ở sở tầu thuỷ, mừng ông Hộ trưởng mới, còn mẹ)

Trong hộ có đàn anh, sóng gió đỡ đần ba mặt bể;

Làm con thế là hiếu, tuyết sương tươi tỉnh một cành huyên.

Câu đối Tết

(Vì mấy cô đầu ở Hải Phòng)

Ai đẻ mã ra xuân; xuân ấy đi, xuân khác về, năm nay năm ngoái xuân hơn kém?

Nhà lại sắp có khách; khách quen vào, khách lạ đến, năm ngoái năm nay khách vắng đông

Câu đối viếng

(Vì một người bạn ở Hải Phòng viếng bà thân sinh của một người bạn thân. Bà cụ thọ 83 tuổi, mất ngày 15 tháng 11)

Tuổi tám mươi lẻ ba, cụ vội về thôi, bóng hạc xa bay từng khói biếc;

Ngày mười lăm tháng một, ông sao tiếc được, ngọn trào lên xuống tấc lòng sôi.

Văn tế việc giỗ

(Vì một ông tri huyện làm tế giỗ đầu bà thân sinh là vị thứ thất của một ông quan tri châu)

Than ôi!

Nuớc mây khơi cách ngàn trùng, chốn tiên quốc trông lên hồ dễ thấy

Ngày tháng thoi đưa mấy chốc, bức tư vì nghĩ đến lại càng thêm

Nhớ mẹ xưa

Gánh vác bao cành

Cù lao chín chữ

Giữ một tiết kính hoà cho phải đạo; ra dưới ra trên

Dạy các con khôn nhớn đã nên người; có danh có phận

Đức trinh thuận xa bay nơi quận hạt

Đạo ôn từ để lại nếp khuê môn

Những mong tuổi hạc trăm năm, dài nương bóng tử

Nào biết xe tiên một phút, vội lánh cõi trần

Gặp tiết giỗ đầu

Kính dâng tấc dạ

Con cháu họp đông đủ mặt

Rượu nhang vâng tiến lễ thường

Trông núi Vân ngất một mầu xanh, cám xưa đức mẹ

Gạt dòng lệ chia đôi hạt trắng, gọi chút tình con

Than ôi!

Văn tế tống chung

(Vì mấy người con làm tế tống chung ông thân sinh là cụ Lại mục đã . Nguyên cụ Lại trải giúp việc hai châu, theo việc chính được hơn 20 năm, nhờ ân nước được mày-đay ngân đỉnh; sống 63 tuổi, giai, gái, dâu, rể đủ cả. Sau lúc đã hưu chí, về ở tại làng sở tại châu Thanh Sơn là chỗ tùng chinh trước)

Than ôi!

Trăm năm trong cõi trần ai; sinh tử cũng là thường, dẫu tháng bớt ngày thêm cha chẳng quản

Một lễ dưới toà linh cữu; họp tan này đến lúc, nghĩ tình sau ân trước dạ khôn đành

Ba tiếng khóc thương

Hai hàng lệ rủ

Nhớ cha xưa

Hoa hàn nếp cũ

Văn bút tài cao

Đức hậu hiền hoà

Cần năng mẫn cán

Buổi gặp gỡ đất xui nên vận

Tính phong lưu giời cũng chiều người

Hai mươi năm lộc nước ân vua, bội tinh ngân đĩnh

Đôi ba quận tiếng cầm cân án, nước biếc non xanh

Nha thự thơm danh

Gia đình ấm phúc

Nào giầu, nào sang, nào khang, nào thọ, thú nhân sinh sáu chục có hơn thừa

Này giai, này gái, này rể, này dâu, đường tử tính bốn bề xem vẹn đủ

Thanh nhàn giở gót, đường mây xe hạc bước tiên du

Phong cảnh vì ai, cỏ thảm huê sầu nơi khách thổ

Các con nay

Xót niềm ly cách

Nhớ đức cù lao

Nỗi chung thiên đòi đoạn mối tơ vò

Lối cửu địa tiễn đưa chiều khói ngút

Kính thành gọi chút

Xa khuất từ đây

Đỉnh non Vân một mầu, khôn pha lệ đỏ

Dòng sông Bứa nước xanh trăm khúc, thêm quặn lòng son

Thương ôi!

Xem thêm:  Tuyển chọn những câu nói hay khi đang yêu hấp dẫn dành cho các cặp đôi

Bài kính viếng quan Guéroult

Khi tôi ở chơi châu Thanh Sơn, có vì quan, nha, tổng, lý, đồng châu hạt thảo một bài văn gửi về Đại Pháp để kính viếng quan Đại lý Hưng Hoá trước là ông Guéroult đã dự cuộc vinh hạnh mà tử trận ở thành Verdun. Sau nhân ngồi buồn đem sửa lại, đã đăng lên báo trương và in vào tập Khối tình con này, cũng để biểu cái tình người Annam đối với nước bảo hộ)

Giời tây một trận sa trường, tấm trung nghĩa bựt rơi hòn máu đỏ

Thành Trúc ba năm thiện chính, mảnh ân tình treo gác chốn non xanh

Chết vì việc nước, sự thế là vinh

Cảm tự lòng dân, lễ xin có viếng

Quan, nha, tổng, lý, đồng châu hạt châu Thanh Sơn chúng tôi, chợt nghe tin trận đánh ở Verdun, quan Đại lý Hưng Hoá trước là ông Guéroult đã tạ thế

Thương ôi!

Nhớ khi xưa, ngài cai trị hạt chúng tôi

Gió hoà xa bay

Mưa xuân khắp vẩy

Dựng năm trường tổng học, nền giáo dục từ đấy mở mang

Sửa một chợ Đồn Vàng, việc buôn bán ngày thêm tiện lợi

Dân đương mến chính

Ngài đã thăng quan

Cánh hồng kia bay bổng tuyệt vời

Cồn cát nọ còn phơi vết móng

Từ giặc Đức sinh lòng man dã, hổ dữ lang tham

Đất châu Âu gây việc binh đao, xương cao thịt nát

Vì nhẽ phải trong loài người, theo giận chung của thiên hạ; nước Đại Pháp mới giốc tình bào chạch, nổi trận phong ba

Hết bổn phận là dân nước, góp trách nhậm với mẫu bang; quan Guéroult phải bỏ thú hạc cầm, theo đường binh cách

Giời cao bể cách

Ngày đi tháng qua

Những mong, cuộc tranh chiến bên tây phương, nước Đại Pháp chóng thu toàn thắng

Cho được, việc cai trị ở thuộc quốc, ông Guéroult có buổi trùng lai

Mà không ngờ

Đều vui chưa sang

Tin buồn đã đến

Sông sầu núi thảm, giang sơn nhớ lại khách tuần lương

Cỏ héo huê rầu, phong cảnh tiếc thay người thiên chính

Thôi thời thôi!

Chốn hàng trận là nơi tính mạnh

Lúc tử sinh tỏ mặt

Chúng tôi nay trộm nghĩ riêng rằng: ông dẫu chết mà thành Verdun còn

Chắc lòng ông cũng coi hơi rằng: ông hoặc còn mà thành Verdun mất

Một thành Verdun còn; mà 536 ngàn dặm đất nước Lãng sa, thành như đồng, quách như đá

Một tấm thân ông chết; mà hơn 30 vạn quân tướng giặc Phổ lỗ, máu thành bể, xương thành gò

Sống có hơn người

Chết đà đáng giá

Suối vàng yên dạ

Giời xanh chứng công

Ruột gan kia đã giãi với non sông

Hồn phách ấy ắt theo cùng súng đạn

An Sơn Bạch Lĩnh, tính linh chót vót ngàn tầm

Đông Á Tây Âu, vang lừng bốn bể

Rồi tan cơn Âu chiến, nước có lần vui nhạc khải ca

Thời trong thành Verdun, ông chắc cũng dự bia kỷ niệm

Vậy cho nên, quan dân châu Thanh Sơn chúng tôi, vợi lòng thương tiếc, kiếm lễ chúc mừng

Chúc cho

Đại Pháp ngàn thu!

Guéroult vạn kiếp!

Xem thêm:  Bài thơ Thương Kiếp Hồng Nhan – Nhà thơ Phú Sĩ

Cứu cấp sự sợ vợ

Văn dẫn

lấy nhau có tình, tình sinh ái, ái sinh uý. Uý là sợ. Vợ vẫn là một vật đáng sợ, nhưng sợ đó là một nhẽ chính. Còn như vợ giầu mà sợ; vợ thần thế mà sợ; vợ hung hãn mà sợ, thời sợ đó là ba nhẽ biến. Sợ một nhẽ chính, thời là ông chồng; sợ một chính một biến, thời là anh chồng; sợ một chính hai biến, thời xuống thằng chồng; sợ cả đến ba biến, thời nguy. Nguy thời phải cứu cấp. Tớ vốn là một kẻ sợ vợ, nhưng chưa có mà sợ, nhưng có cũng tất sợ; có cũng tất sợ, nhưng chưa biết sợ vào hạng nào. Nay hẵng vì chúng bạn, ai sợ đến 3 biến, thảo một thiên cứu cấp như sau này. Tụng được trăm lượt, tất có độ ách một đôi phần.

Văn rằng:

Thằng cuội ngồi trong cung nguyệt

Chim khôn mắc phải lưới hồng

Là mình với ta

Chẳng duyên thời nợ

Cơ giời tác hợp, sợi tơ mành xe chặt lấy nhau

Bể ái đầy vơi, nén hương nguyện cho tròn một kiếp

Như mỗ nay

Con nhà gia giáo

Cũng mạch thư hương

Mặt vuông chữ điền

Điền vô nhất thốn

Lưng dài vải tốn, mình lính nhi tính quan

Mặt nạc đóm dầy, khôn nhà mà dại chợ

Tuổi mới độ đôi chín ba mươi dĩ lý, đã rượu sớm chè trưa

Học chưa xong tam hoàng ngũ đế chi thư, lại a tròn b méo

Chồng con thế ấy

Ai dễ người ưa

Thế mà

Nệm ủ chăn lồng, nghĩa cũ bấy lâu êm ái

Cơm hầu canh dẫn, lòng riêng riêng cũng kính yêu

Cũng mong cho một bước một hay, được như ai ông cống ông nghè, có danh có giá

Không ngờ lại mỗi ngày mỗi đốn, để đến nỗi con tiều con khỉ, mang tiếng mang tai

Trăm năm lâu dài

Một phen giận dữ

Sự thế thế nào phải thế, bao quản mình lươn

Phận đành chi dám kêu oan, còn nhờ lượng bể

Nam vô phật ngồi trên tam bảo, phổ cứu cho chúng sinh

A gi men lạy đức chúa giời, tôi là kẻ có tội

Đơn khiếu ong, bướm của bách hoa tâu lên đức Thượng đế

Bụi trần vùi rấp, kêu lên xin thấu đến từng xanh

Đèn giời sáng soi, trông xuống rủ thương cho

tôi

Con nhà xanh vỏ

Nặng nghiệp má đào

Dì gió rủ rê

Ông tơ ghét bỏ

Cha sinh mẹ dưỡng, công trình trải mấy tuyết sương

Sớm điểm chiều tô, nghề nghiệp biết bao hương phấn

Những mong được xôn xao bạn yến, một cười ắt hẳn nghìn vàng

Nào ngờ đâu sơ sác thân vờ, trăm mờ không còn một mảnh

Thời nguyên:

Có những kẻ quần hồ áo cánh, phấp phới hôm mai

Lại nhiều ông đầu mũ lưng đai, vo ve ngày tháng

Vườn hồng tỏ nẻo

Lá thắm đưa tin

Chơi cho liễu chán đào chê, ngả nghiêng lơi lả

Rút cục đông bay tây séo, bỗng tếch tình lang

Gió lật giăng lừa, nghĩ những oán thương cho số kiếp

Nhị tàn hương tạ, nói càng hổ thẹn với giang sơn

Khoá buồng xuân muốn để đợi ngày

Trách dì gió vì ai mở lối

Bầu con bẽ nhớn, tụi Sở Khanh đâu đã dẫn mo vào

Trắng đốm vàng pha, phường Bạc Hạnh dám còn đem mặt đến

Bộ xỏ lá trông đà lộn ruột

Sức thơ đào nghĩ lại non gan

Xót thương phận mỏng cánh chuồn, cắn ngọn cỏ quì tâu nơi chứng quả

Muôn đội uy vang tiếng sét, phá từng mây đánh hết giống chơi vòi

Một lá tu đơn

Trăm hoa kí kết

Xem thêm:  Chiều rơi - Thụy Khúc

Lan, Cúc, Đào, Sen, Mai, Trà…

Hịch đuổi kẻ ăn mày

Văn dẫn

Ông Mạnh Tử nói rằng: “Lòng thương xót, người ta ai cũng có”. Một lòng thương xót, thật con người ta ai cũng có, nhưng sự đáng thương xót mà thương xót, thời thương xót là có nhân; sự không đáng thương xót mà thương xót, thời thương xót đó là vô học. Nay như một sự ăn mày, những kẻ bị mù, loà, què, quặt, không thể nuôi nổi miệng, đến phải đi ăn xin, thời đồng kẽm, bát cơm, ở con người tử tế, không lấy gì làm tiếc. Đến như kẻ không mù, không loà, không què, không quặt cũng tham , mong những cách ăn không.

Nhất như những đứa trẻ còn đứng chực dưới xe điện và tụ họp và tụ họp ngoài cửa ô, thật có người nói truyện với tôi rằng: nhiều người ở làng cạnh muốn nuôi chúng nó chăn trâu mà chúng nó không đi, cứ làm nghề xin su, để dễ sự no ấm. Đó là những cảnh tượng chung quanh chốn thị thành. Còn như các chợ búa, các nhà quê, chẳng chỗ nào mà không có. Nếu cứ thế mà được mãi, thời những bọn hèn mạt vô sỉ, hễ đói cơm rách áo, kéo cả vào một nghiệp ăn không, thực là một sự rất xấu trong phong hoá. Cho nên, không đáng thương mà đáng ghét, không nên cho mà nên đuổi. Người đời xưa có ông vung gươm xua nhặng xanh. Nay cũng làm một bài văn hịch, để mắng đuổi lũ ăn mày.

Hịch rằng:

Tuồng chi một lũ

Đứa trẻ đứa già

Con bồng con dắt

Lôi thôi lếch thếch

Kể lể kêu ca

Nghề kiếm ăn Chiến Quốc tự ngày xưa, ai truyền dạy mà đâu dai dẳng mãi?

Bọn con cháu Lạc Hồng chung giống cả, không què đui sao khéo rủ rê nhau?

Hôm hôm mai mai

Bị bị bát bát

Quỉ đưa đường, ma dắt lối, quen ngõ thời vào

Nay được thịt, mai đòi xôi, thấy mùi đánh mãi

Cửa ô, xe điện, rêu rao quạ vỡ chiều hôm

Đám hội, nhà chay, quẩn quít gà què gậm cối

Làm xấu hổ cho cả nước

Khéo bêu nhuốc cho loài người

Bảo mãi mỏi mồm

Trông càng nhớp mắt

Nào là

Người nhà, con vú

Thằng ở, quân hầu

Truyền lũ bay đóng chặt cổng vào, thây cha chúng nó!

Học một lối ăn không người mãi, có con c. ông!

Trên đây là những bài thơ cuối cùng ở trong tập Khối tình con II Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn có thể hiểu thêm được về thiên hướng và phong cách văn chương của nhà thơ. Từ đó cũng sẽ có được sự nhìn nhận và đánh giá khách quan hơn về những gì nhà thơ Tản Đà đã cống hiến trên văn đàn. Đừng bỏ lỡ những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …