Tùng Thiện Vương là một trong bốn nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thế kỉ XIX. Ông là một nhà thơ chữ hán trong hoàng tộc nhà Nguyễn. Tuy ông xuất thân từ hoàng tộc nhưng những bài thơ của ông mang nhiều tiến bộ nhất là tinh thần yêu đất nước mãnh liệt
Những bài thơ khẳng định tên tuổi và giá trị của Tùng Thiện Vương. Ông có một kho tàng thơ lớn được nhiều bạn đọc yêu mến và tìm kiếm. Ngay bây giờ chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những bài thơ của ông nhé!
Giang thôn kỳ 2 江村其二
月明如水水如煙,
水艦迎涼任失眠。
往往歌聲煙外過,
橋堆山下露呶船。
Giang thôn kỳ 2
Nguyệt minh như thuỷ, thuỷ như yên,
Thuỷ hạm nghênh lương nhậm thất miên.
Vãng vãng ca thanh yên ngoại quá,
Cao Đôi sơn hạ lộ nao thuyền.
Dịch nghĩa
Trăng sáng như nước, nước như khói
Hóng mát trên be thuyền, mất ngủ, mặc
Nghe rõ tiếng hò từ ngoài lớp khói ngân qua
Dưới chân núi Cầu Hai, sương móc làm thuyền rối loạn hướng đi
Hạ thọ 賀壽 • Năm mươi
半百年華晚,
兼之憂患存。
遺經能熟否,
六十萬餘言。
Hạ thọ
Bán bách niên hoa vãn,
Kiêm chi ưu hoạn tồn.
Di kinh năng thục phủ,
Lục thập vạn dư ngôn.
Hải thượng 海上 • Bờ biển
海路觀瞻改,
傷心倍去年。
壘迴天后廟,
檣簇鬼方船。
上藥荒徐福,
高風慨魯連。
柱窮沙渚畔,
不語淚如泉。
Hải thượng
Hải lộ quan chiêm cải,
Thương tâm bội khứ niên.
Luỹ hồi Thiên hậu miếu,
Tường thốc Quỷ phương thuyền.
Thượng dược hoang Từ Phúc,
Cao phong khái Lỗ Liên.
Trụ cùng sa chử bạn,
Bất ngữ lệ như tuyền.
Dịch nghĩa
Đường biển nhìn xem đổi khác
Đau lòng gấp bội năm qua
Luỹ quanh co bên miếu bà Thiên hậu
Cột buồm nhóm lại, thuyền bọn Quỷ phương
Phương thuốc thần diệu làm mê hoặc Từ Phúc
Phong cách cao thượng thương xót Lỗ Liên
Chống gậy đứng trên bờ bãi cát
Lặng im nước mắt sa như suối
Hán cung từ 漢宮詞 • Bài từ ở cung Hán
數點寒花永巷春,
車聲何處惹香塵。
紅顏莫恨承恩晚,
金屋長門是一人。
Hán cung từ
Sổ điểm hàn hoa vĩnh hạng xuân,
Xa thanh hà xứ nhạ hương trần.
Hồng nhan mạc hận thừa ân vãn,
Kim ốc Trường Môn thị nhất nhân.
Dịch nghĩa
Nhiều chấm hoa mùa đông giữa mùa xuân trong hẻm cấm dài
Tiếng xe (vua) tới nơi nào mà bụi thơm đưa đến
Má hồng chớ oán giận được ân trên muộn
Ở Nhà vàng (hay) ở cung Trường Môn thì cũng một người ấy thôi
Hoan Châu dạ vũ 驩州夜雨
寥落驩州道,
煙波復此邦。
山村一夜雨,
春水漲寒江。
密竹生天籟,
為風淡曉紅。
旅愁不成夢,
把卷獨憑窗。
Hoan Châu dạ vũ
Liêu lạc Hoan Châu đạo,
Yên ba phục thử bang.
Sơn thôn nhất dạ vũ,
Xuân thuỷ trướng hàn giang.
Mật trúc sinh thiên lãi,
Vi phong đạm hiểu hồng.
Lữ sầu bất thành mộng,
Bả quyển độc bằng song.
Hương Cần 香芹 • Hương Cần
酒肆臨江啟,
黃邨逐岸斜。
江陵千樹橘,
只此足生涯。
Hương Cần
Tửu tứ lâm giang khải,
Hoàng thôn trục ngạn tà.
Giang Lăng thiên thụ quất,
Chỉ thử túc sinh nhai.
Dịch nghĩa
Quán rượu bên sông mở
Bờ tre ven xóm lài
Giang Lăng ngàn cội quýt
Chỉ thấy đủ sinh nhai
Khách đình 客亭
樵兄漁弟護來還,
水竹三分屋數間。
他日客亭修故事,
楝花時節憶倉山。
Khách đình
Tiều huynh ngư đệ hộ lai hoàn,
Thuỷ trúc tam phân ốc sổ gian.
Tha nhật khách đình tu cố sự,
Luyện hoa thời tiết ức Thương Sơn.
Dịch nghĩa
Anh đốn củi, em câu cá, giúp đỡ lẫn nhau
Với cây tre nước ba phân, dựng nhà có mấy gian
Một ngày kia có việc sửa lại nhà khách
Đến mùa luyện hoa, lại nhớ Thương Sơn
Kim hộ thán 金洿嘆
荒林咻咻嘯,
朔風裂人夫。
長江流水急,
白日陰西徂。
赤身沒層波,
凍子久乃甦。
排沙揀金屑,
十次八九無。
所得僅毫釐,
妻子相歡呼。
取之納筒中,
恐懼目睢盱。
山高水味毒,
豺虎當路麌。
弊衣不掩脛,
面黃肌肉枯。
但愿足常賦,
焉敢望其餘。
常賦苦難足,
遂忍殘微軀。
拗臂豈非痛,
幸得減半收。
奈何金氣嗇,
新年故不如。
縣符下來索,
卻走富兒居。
Kim hộ thán
Hoang lâm hưu hưu khiếu,
Sóc phong liệt nhân phu.
Trường giang lưu thuỷ cấp,
Bạch nhật âm tây tồ.
Xích thần một tằng ba,
Đông tử cửu nãi tô.
Bài sa giản kim tiết,
Thập thứ bát cửu vô.
Sở đắc cận hào ly,
Thê tử tương hoan hô.
Thủ chi nạp đồng trung,
Khủng cụ mục tuy hu.
Sơn cao thuỷ vị độc,
Sài hổ đương lộ vi.
Tệ y bất yểm hĩnh,
Diện hoàng cơ nhục khô.
Đãn nguyện túc thường phú,
Yên cảm vọng kỳ dư.
Thường phú khổ nan túc,
Toại nhẫn tàn vi khu.
Ảo tý khởi phi thống,
Hạnh đắc giảm bán thu.
Nại hà kim khí sắc,
Tân niên cố bất như.
Huyện phù hạ lai sách,
Khước tẩu phú nhi cư.
Dịch nghĩa
Rừng hoang cú mèo kêu
Gió bấc thổi rách da người
Dòng sông dài nước chảy xiết
Mặt trời ảm đạm đi về đằng tây
Mình trần lặn xuống dưới lớp sóng
Chết cóng hồi lâu mới sống lại
Trải cát ra chọn vàng vụn
Mười lần thì tám chín lần không có gì
Tìm được một tí chút
Vợ con đều reo mừng cho nhau
Nhặt lấy bỏ vào ống
Sợ hãi mắt nhớn nhác nhìn lên
Núi cao vị nước độc
Chó sói và cọp rình rập hai bên đường
Áo rách không che được ống chân
Mặt vàng da thịt khô héo
Chỉ cầu nộp đủ thuế thường lệ
Dám đâu mong có phần thừa
Cay đắng thay thuế thường lệ khó nộp đủ
Đành chịu làm tàn tật tấm thân hèn
Bẻ cánh tay mình há chẳng đau
(Nhưng) may ra được giảm nửa phần thuế
Biết làm sao khi khí vàng ít
Năm nay không bằng năm xưa
Trát huyện đưa xuống đòi (nộp thuế)
Đành lại chạy đến cửa nhà giàu
Kim Lương dạ bạc 金龍夜泊
江邊兒女唱陽花,
綠樹陰中石徑斜。
欲問酒家何處覓,
煙籠寒水月籠沙。
Kim Luông dạ bạc
Giang biên nhi nữ xướng Dương ba,
Lục thụ âm trung thạch kính tà.
Dục vấn tửu gia hà xứ mịch,
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa.
Dịch nghĩa
Bên bờ sông người con gái hát bài Dương ba
Cây xanh bóng tối con đường nhỏ lát đá quanh co
Muốn hỏi quán rượu không tìm ra nơi
Khói lồng nước lạnh trăng lồng bãi cát
Kim tỉnh oán 金井怨
美人照金井,
井底華顏冷。
空房夜不歸,
月轉梧桐影。
Kim tỉnh oán
Mỹ nhân chiếu kim tỉnh,
Tỉnh để hoa nhan lãnh.
Không phòng dạ bất quy,
Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh.
Dịch nghĩa
Người đẹp soi giếng vàng
Đáy giếng lộ ra dung nhan lạnh nhạt
Phòng không đêm không (dám) về (ngủ)
Trăng chuyển bóng ngô đồng
Kỷ mộng 紀夢 • Giải mộng
萬點花圍畫閣紅,
故人猶有讀書功。
夢魂遙自萱階出,
相與論文細雨中。
Kỷ mộng
Vạn điểm hoa vi hoạ các hồng,
Cố nhân do hữu độc thư công.
Mộng hồn diêu tự huyên giai xuất,
Tương dữ luân văn tế vũ trung.
Dịch nghĩa
Vạn đoá hoa vây quanh tô hồng căn gác vẽ
Bạn cũ còn có công đọc sách
Hồn mộng từ xa hiện ra nơi thềm cỏ huyên dẫn tới
Cùng nhau bàn luận văn thơ trong mưa bụi
Lão bệnh 老病 • Bệnh già
老病侵尋閱歲華,
浪憑詩酒送生涯。
敢云白髮緣懮國,
難得青山便挈家。
東浦蒙衝浮鬥艦,
朔方關塞隱悲笳。
幾辰薄代功俱就,
隱臥看人賦出賒。
Lão bệnh
Lão bệnh xâm tầm duyệt tuế hoa,
Lãng bằng thi tửu tống sinh nha (nhai).
Cảm vân bạch phát duyên ưu quốc,
Nan đắc thanh sơn tiện khế gia.
Đông phố mông xung phù đấu hạm,
Sóc phương quan tái ẩn bi già.
Kỷ thần bạc đại công câu tựu,
Ẩn ngoạ khan nhân phú xuất xa.
Dịch nghĩa
Bệnh già xâm nhiễm dần dần từ thuở hoa niên
Nương nhờ thơ rượu mà sinh sống
Đâu dám nói tóc bạc vì lo nghĩ việc nước
Khó tìm được núi xanh tiện mang nhà lên
(Trong) phố đông tàu chiến xông tới rải đầy sông
(Ngoài) ải bắc tiếng kèn sầu thảm nghe đau lòng
Bao lâu nữa việc đánh dẹp mới thành công
Nằm yên ổn xem người làm thơ uỷ lạo binh sĩ trở về
Lão khứ 老去 • Tuổi già tới
老去憎春及,
懮來劇歲闌。
江山紛百戰,
日月走雙汍。
酒豈消愁飲,
書從失意看。
海鷗眞羨汝,
蕭灑水雲寬。
Lão khứ
Lão khứ tăng xuân cập,
Ưu lai kịch tuế lan.
Giang sơn phân bách chiến,
Nhật nguyệt tẩu song hoàn.
Tửu khởi tiêu sầu ẩm,
Thư tòng thất ý khan.
Hải âu chân tiện nhữ,
Tiêu sái thuỷ vân khoan.
Dịch nghĩa
Tuổi già tới ghét mùa xuân đến
Nỗi lo buồn tới làm phiền rối lúc năm sắp tàn
Đất nước rối ren trăm trận đánh
Mặt trời mặt trăng hai viên tròn đi
Rượu há uống để tiêu sầu
Sách xem khi không được như ý
Con chim hải âu (kia) thực tình thèm muốn được như mày
Thong dong tự tại giữa bao la mây nước
Liễu 柳 • Liễu
去歲春殘黃鳥歸
秋容憔悴月明知
東風昨夜吹何處
更惹新愁上曉眉
Liễu
Khứ tuế, xuân tàn, hoàng điểu quy,
Thu dung tiều tụy, nguyệt minh tri,
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ,
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu mi.
Dịch nghĩa
Năm ngoái, mùa xuân đã tàn, chim hoàng oanh bay về
Dung nhan tiều tụy chỉ có ánh trăng sáng kia biết
Đêm qua gió xuân thổi ở xứ nào
Lại rước lấy mối sầu mới dâng lên nét mày thanh.
Long thành trúc chi từ kỳ 1 龍城竹枝詞其一
龍編城外草如煙,
龍編臺上月當天。
芳草春歸亦衰歇,
月明一片自何年。
Long thành trúc chi từ kỳ 1
Long Biên thành ngoại thảo như yên,
Long Biên đài thượng nguyệt đương thiên.
Phương thảo xuân quy diệc suy yết,
Nguyệt minh nhất phiến tự hà niên.
Dịch nghĩa
Ngoài thành Long Biên cỏ như khói
Trên đài Long Biên vành trăng giữa trời
Xuân về cỏ thơ cũng xơ xác
Một mảnh trăng sáng tỏ tự năm nao
Long thành trúc chi từ kỳ 2 龍城竹枝詞其二
明月中有玉樓人,
二八韶年本性秦。
每向花邊久惆悵,
爲憐花落遇方春。
Long thành trúc chi từ kỳ 2
Minh nguyệt trung hữu ngọc lâu nhân,
Nhị bát thiều niên bản tính Tần.
Mỗi hướng hoa biên cửu trù trướng,
Vị liên hoa lạc ngộ phương xuân.
Dịch nghĩa
Dưới trăng sáng có người trong lầu ngọc
Tuổi xuân xanh hai tám vốn họ Tần
Thường đến bên hoa đứng rầu rĩ rất lâu
Vì thương hoa qua mùa xuân mà rụng
Long Thọ cương Đồi Long Thọ
Long Thọ Cương đông tứ sở chi
Tiều ca tiêm yết, dạ chung trì
Vạn tùng thiên lí, thiên sơn nguyệt
Ký thủ u nhân độc lập thì.
Lục thuỷ 淥水 • Nước biếc
淥水青山常在,
孤雲野鷽同飛。
短艇柳邊客釣,
小橋月下僧歸。
Lục thuỷ
Lục thuỷ thanh sơn thường tại,
Cô vân dã hạc đồng phi.
Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,
Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.
Dịch nghĩa
Nước biếc non xanh vẫn còn
Mây đơn hạc nội đồng bay
Trên thuyền con, bên gốc liễu, khách ngồi câu
Trên cầu nhỏ, dưới bóng trăng, sư ra về
Lựu 橊 • Lựu
妒色天公不與香,
珠簾釦砌媚容光。
蓮花亦有淩波格,
只伴漁舟送曉涼。
Lựu
Đố sắc thiên công bất dữ hương,
Châu liêm khấu thế mị dung quang.
Liên hoa diệc hữu lăng ba cách,
Chỉ bạn ngư chu tống hiểu lương
Mỵ Châu từ 媚珠祠 • Đền Mỵ Châu
疏薄煙斜靠柳絲,
露花如淚滴花枝。
可憐碧血藏流水,
羞照奇英海上祠。
Mỵ Châu từ
Sơ bạc yên tà kháo liễu ty
Lộ hoa như lệ trích hoa chi
Khả liên bích huyết tàng lưu thuỷ
Tu chiếu Kỳ Anh hải thượng từ
Dịch nghĩa
Ngoài bức rèm thưa khói hương bay theo tơ liễu
Sương trên hoa khác nào như cành hoa rơi nước mắt
Đáng thương giọt máu biếc còn tích trữ trong dòng nước
Phải thẹn với đền thờ trên bờ biển huyện Kỳ Anh
Nam Định hải dật 南定海溢
海溢緣何事,
邊氓赴陸沉。
銀山傾萬屋,
青磷迸重陰。
已失西鄰好,
終虛北望心。
從今憂國念,
不比昔年深。
Nam Định hải dật
Hải dật duyên hà sự,
Biên manh phó lục trầm.
Ngân sơn khuynh vạn ốc,
Thanh lấn bính trùng âm.
Dĩ thất tây lân hảo,
Chung hư bắc vọng tâm.
Tòng kim ưu quốc niệm,
Bất tỷ tích niên thâm.
Dịch nghĩa
Nước biển dâng tràn duyên do vì sao
Để cho nhân dân ven bờ phải chết chìm trên cạn
Sóng trắng cuộn cao xô nghiêng muôn ngôi nhà
Lửa ma xanh bay tản ra trong lớp khí âm
Đã mất tình hoà hảo với láng giềng phía tây
Rốt cuộc lòng trông mong vào phía bắc cũng không vào đâu cả
Từ nay niềm nghĩ lo việc nước
Chiều sâu không thể sánh ngang với năm xưa
Nam khê 南溪 • Khe nam
亂山深處一溪橫,
十二年前駐馬情。
流水自知人事異,
潺湲不作昔來聲。
Nam khê
Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,
Thập nhị niên tiền trú mã tình.
Lưu thuỷ tự tri nhân sự dị,
Sàn viên bất tác tích lai thanh.
Ngô Vương oán 吳王怨
小施非臨敵,
無端戮寵妃。
君王雖好戰,
不忍府臺窺。
Ngô Vương oán
Tiểu thí phi lâm địch,
Vô đoan lục sủng phi.
Quân vương tuy hiếu chiến,
Bất nhẫn phủ đài khuy.
Nhàn cư 閒居 • Cảnh nhàn
小院數株松竹,
橫塘十丈芝荷。
曉色林中鳥喚,
夕陽江上漁歌。
Nhàn cư
Tiểu viện sổ châu tùng trúc,
Hoành đường thập trượng chi hà.
Hiểu sắc lâm trung điểu hoán,
Tịch dương giang thượng ngư ca.
Dịch nghĩa
Nơi viện nhỏ có mấy cây tùng cây trúc
Dưới hồ rộng mười trượng có mấy cây ấu cây sen
Khi sắc trời ban mai đàn chim kêu trong rừng
Lúc bóng xế buổi chiều ngư phủ hát trên sông
Nhất Trụ tự 一柱寺
蓮花出寒水,
法座無塵埃。
夜深星斗靜,
分音空細來。
Nhất Trụ tự
Liên hoa xuất hàn thuỷ,
Pháp toà vô trần ai.
Dạ thâm tinh đẩu tĩnh,
Phần âm không tế lai.
Nhĩ hà 珥河 • Sông Nhĩ
黃河別派爾南極,
萬頃波濤深莫測。
江流日夜奔東溟,
江上行人亦不即。
Nhĩ hà
Hoàng Hà biệt phái nhĩ nam cực,
Vạn khoảnh ba đào thâm mạc trắc.
Giang lưu nhật dạ bôn đông minh,
Giang thượng hành nhân diệc bất tức.
Phế viên 廢園 • Vườn hoang
廢園數畝枕江濱,
賜弟光輝舊策勳。
秋照無蓮全樹月,
古牆有樹半侵雲。
畫圖未上麒麟閣,
香婁爭彯蛺蝶裙。
愁絕死灰糟寧後,
路人空只顧將軍。
Phế viên
Phế viên sổ mẫu chẩm giang tân,
Tứ đệ quang huy cựu sách huân.
Thu chiếu vô liên toàn thụ nguyệt,
Cổ tường hữu thụ bán xâm vân.
Hoạ đồ vị thướng Kỳ Lân các,
Hương lũ tranh phiêu giáp điệp quần.
Sầu tuyệt tử hôi tao ninh hậu,
Lộ nhân không chỉ cố tương quân.
Phiếm nguyệt 泛月 • Vầng trăng trôi nổi
如此江山蹟已陳,
吟翁何為苦番新。
只應晚景多迷悟,
滿眼風波記不真。
Phiếm nguyệt
Như thử giang sơn tích dĩ trần,
Ngâm ông hà vị khổ phiên tân.
Chỉ ưng vãn cảnh đa mê ngộ,
Mãn nhãn phong ba ký bất chân.
Trên đây, Thuvientho.com dành tặng cho bạn chùm thơ đặc sắc của nhà thơ Tùng Thiện Vương. Những bài thơ của ông luôn để lại dấu ấn đặc sắc trong lòng quý độc giả. Tiếp nối phần Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 1 bằng những bài thơ hấp dẫn với những ý nghĩa sâu xa. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!
Theo Thuvientho.com