Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Bút nở hoa đàm phần thứ hai

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Bút nở hoa đàm phần thứ hai

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Bút nở hoa đàm phần thứ hai

Năm 1963 nhà thơ Vũ Hoàng Chương chứng kiến hành động tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Đó cũng chính là cảm xúc mà ông đã viết nên Lửa Từ Bi. Và hành động này đã chấn độc tâm can của nhà thơ. Ông đã đem cả thân mạng và sự sống để tham gia vào cuộc đấu tranh bất bạo động và chiến đấu cho của Việt Nam. Hãy cùng tham khảo các bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Bút nở hoa đàm nhé!

Lửa từ bi

Kính dâng lên BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨC

Lửa! Lửa cháy ngất Toà Sen!

Tám chín phương nhục thể trần tâm

hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.

Hai Vầng Sáng rưng rưng

Đông Tây nhoà lệ ngọc

Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,

Ánh Đạo Vàng phơi phới

đang bừng lên, dâng lên…

Ôi, đích thực hôm nay Trời có Mặt!

Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga.

Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt

Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la.

Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ

Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày

Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây

Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ

PHẬT-PHÁP chẳng rời tay…

Sáu ngả luân hồi đâu đó

Mang mang cùng nín thở

Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.

Không khí vặn mình theo

khóc oà lên nổi gió

NGƯỜI siêu thăng…

giông bão lắng từ đây.

Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây

Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-Đề.

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!

Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!

Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác

Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.

Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?

Ngọc đá cũng thành tro

lụa tre dần mục nát

Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.

Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT

Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.

Xem thêm:  Mùa xuân đi lễ chùa - Nguyễn Thị Thúy Ngoan

Ôi ngọn LỬA huyền vi!

Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác

Từ cõi Vô-Minh

Hướng về Cực-Lạc.

Vần điệu của thi-nhân chỉ còn là rơm rác

và chỉ nguyện được là rơm rác

Thơ cháy lên theo với lời Kinh;

Tụng cho nhân loại hoà bình

Trước sau bền vững tình huynh-đệ này.

Thổn thức nghe lòng Trái Đất

Mong thành Quả Phúc về Cây.

Nam-mô THÍCH CA MẦU NI PHẬT

Đồng loại chúng con

nhau tràn nước mắt

tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.

Người với người

(Thông-điệp của MỘT gửi cho TẤT CẢ)

Chúng ta đều là NGƯỜI

Đều thế đứng cao sang

đều sắc máu đỏ tươi

Đều hãnh-diện trên muôn loài ngự trị,

Nhưng buồn thay… một phút nào kia

nếu không gian chẳng còn dưỡng khí

Cũng đều ngã ra chấm hết .

Sao các bạn, các anh, các chị

Ở nơi đây và tất cả những đâu nơi

Lại quên được – sao mà quên được nhỉ? –

Rằng “thịt da ai cũng là NGƯỜI”?

Nhân loại đã từng rên xiết

Đói rũ xương và khát cháy thiêu môi,

Quằn-quại với nhu cầu khẩn thiết

Qua bao thế kỷ nay rồi.

Tật bệnh, tai ương, điêu tàn, huỷ diệt,

mặn ư? – Máu, lệ, mồ hôi!

Chính các chị, các anh, các bạn

Cũng có lửa khắc sâu lên trán

Từ sơ-sinh hai chữ CON NGƯỜI

Cũng mang nặng bùn nhơ kết khối phàm thai,

Cũng dương mắt bao phen

giữa dòng sao thác loạn

Cũng lê chân qua mờ mịt ,

Cũng da thịt biết đau từng vết rạn

Ở mỗi tế bào phân tán

Khi nắng đốt trên đầu gió quất trên vai.

Nhìn nhau, đây đấy một loài;

Xót chút hình hài với nao!

Nhớ xưa Nhạc, Huệ,

Cùng tranh ngôi cao

Một lời thống thiết

Muôn đời gởi trao:

“Nồi da nấu thịt

Lòng em nỡ nào?”

Một con ngựa đau cả tàu nhịn cỏ,

Loài vật kia chẳng cũng dạy NGƯỜI sao?

Búa nện xương kêu, gậy đập máu gào

Đáng vang rền tim óc bạn,

Và chát chúa hồi thanh trong huyết quản

Dựng gươm đao cắt chính thịt da mình.

Lẽ đâu các bạn làm thinh

Nhìn CON NGƯỜI hiện nguyên hình ĐAU THƯƠNG.

Xem thêm:  Stt buồn về tình yêu ngắn của trai, gái tâm trạng đầy vơi

Các chị các anh còn biết khóc

Mỗi xa người thân, chia ,

Còn biết những canh dài trằn trọc

Nhớ quê nhà chìm trong khói sương,

Còn trang sử ông cha mở đọc

Biết rưng rưng sôi chí quật cường,

Hẳn còn tim còn óc

Còn nhân luân còn linh tính

còn thiên lương;

Sao có thể đeo vết nhơ làm ngọc

Xức mùi tanh làm hương?

Kìa máu, máu!

Vết nhơ ấy lột da đi không tróc

Mùi tanh ấy quyện vào hơi vào tóc

Như mọc lên như sờ thấy trong gương;

Bóng mình chăng? Hay đó Quỷ Vô-Thường?

Không, ngàn lần không;

Chúng ta không phải Quỷ!

Mà hết thẩy các anh các chị

Với tôi cùng một loài NGƯỜI,

Tuổi ý-thức đã hàng trăm thế-kỷ

Dù, nói cho khiêm nhượng, mới HAI-MƯƠI.

Đau khổ đã cắt ngang vào não tuỷ

Nghĩa TỪ-BI xây dựng cứu đời;

Thì tin rằng mai đây và khắp nơi

Bóng HOẠT-PHẬT lung-linh đài TỬ-SĨ;

Muôn ngọn hải-đăng

Tỉnh hồn cơ-khí,

Bằng ánh sáng “vô chung vô thỉ”

Soi đường Khoa-học giữa mù khơi.

Những mầm mống TƯƠNG-TÀN, KỲ-THỊ

Như lá phải rụng rơi.

Nhân-loại hiển chân-thân

cũng tìm ra chân-lý:

Đức HIẾU-SINH vằng vặc ngôi Trời…

Vững lòng tin ở XA-VỜI,

chẳng nhuộm máu NGƯỜI, giơ lên!

Gẫy một cành mai

Lòng son búa sắt

Tay chặt bàn tay

Dâng lên Phật.

Máu hoà mưa bay…

Chén cơm thường nhật

Oan khổ đã đầy

Giờ đây, Mai đây

Một còn một mất

Trời đất cùng hay

Búa năm nhát, nát bàn tay,

Xé tung xương thịt cho bay lời nguyền.

Bàn tay NGUYỆN-VỌNG

Chặt đi còn nguyên

Chẳng BẠO mà ĐỘNG

Một ngăn mười truyền

Tay PHẬT năm ngón

Giam cả Tề-Thiên

Núi lật năm ngọn

Không tha cường-quyền.

Đó đây mài sẵn Long-tuyền

Búa năm nhát, phát lời nguyền cho Mai!

lời nguyền son sắt

lạy PHẬT-NHƯ-LAI

một điểm linh-đài

cứu cho đừng tắt.

Để những ai ai

Có mắt mở mắt

Còn tai lắng tai.

Nhìn thấu xương Mai

Tấm lòng Trời Đất

Nghe vang búa chặt

Nỗi đau cùng loài…

Xem thêm:  Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và những bản thơ dịch tác giả khác (Phần 2)

Biển Đông, ải Bắc, non Đoài,

Vọng về Nam, thét cho dài hồi thanh!

Bàn tay nguyện nối Trường-thành

Nửa chừng xuân, gẫy một cành sá chi.

Lòng Mai hướng cửa TỪ-BI

Khác đâu lòng ấy hoa quỳ hướng dương.

Chín phương mười phương

Giữa cuộc nhiễu nhương

Đã về hợp nhất…

Gió tung cờ phất

Thề lật bạo cường

Khẩu hiệu lên đường:

Không lùi chẳng khuất!

Dưới lằn roi quất

Vung gậy KIM-CƯƠNG

Đối diện Ma-Vương

Một còn một mất.

Oan cừu chứa chất

Mờ mịt Âm Dương

Nghẹn máu quằn xương

Tím gan ứ mật;

Lửa bùng cao ngất

Từ rẫy từ nương

Từng chợ từng trường

Khắp trời khắp đất,

Cháy lên rần-rật

Thành nén tâm hương.

Xin rủ lòng thương

Muôn loài muôn vật,

Giải thoát tai ương;

A-DI-ĐÀ-PHẬT!

Dư ba

Sống giữa chiêm bao vạn mối tình

Trắng tay mình lại vẫn riêng mình

Lưỡi gươm mài nguyệt còn vô dụng

Ngòi bút xuyên mây cũng bất bình

Dâu bể nghe đau lòng trái Đất

Gối chăn đợi ngát tiếng hoa Quỳnh

Nhắn ra muôn dặm về muôn thuở:

Vì cái TÂM nên luỵ cái HÌNH.

Hoa nào ấm mộng?

Từ hoa vương giả đến hoa hèn

Bướm cũng vừa say đã nhạt men

Giận khắp loài thơm lòng chẳng ấm

Còn chăng đâu đó LỬA ĐÀI SEN!

Tiếng khóc giờ đây

Phật có bàn tay dẹp bất-bình

Cả ngàn con mắt chiếu vô-minh

Chỉ đôi tai Phật, sao nghe xiết

Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh!

Trời cao Phật hiện

Trời lưu ly hiện Phật Kim Cương

Mây bạc thân vàng nét tỏ gương

Quạ lửa càng sôi cơn thịnh nộ

Càng in bóng ngọc xuống mười phương.

Đô thành hoa lệ

Trời mất bao giờ có biết đâu!

Người đi sùng bái những ngôi lầu

Văn minh từng phút lên cao mãi,

Nhân phẩm càng chôn mãi xuống sâu.

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ Bút nở hoa đàm mà chúng tôi đã chọn lọc và chia sẻ tới bạn. Thông qua bài viết này bạn sẽ hiểu được con người và phong cách sáng tác của ông. Và đó cũng chính là lý do thầy Làng Mai đã nơi ông là người hái được cảnh hòa từ bi làm bút viết. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ này bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …