Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Cành mai trắng mộng phần Thi phẩm (3)

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Cành mai trắng mộng phần Thi phẩm (3)

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương và tập Cành mai trắng mộng phần Thi phẩm (3)

Cành mai trắng mộng là một tập thơ Vũ Hoàng Chương đã viết năm 1968. Thông qua cảnh vật, con người và những giác ngộ của mình nhà thơ đã thể hiện một cách sâu sắc dấu ấn cá nhân của bản thân. Đó cũng chính là điều tạo nên sự độc đáo trong phong cách của ông. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu các bài thơ có trong tập Cành mai trắng mộng của nhà thơ Vũ Hoàng Chương bạn nhé!

Cúc nguyên tiêu

Thời gian ai ném tung hê

Cho Hoàng-hoa lạc lối về !

Hỏi Mai trỏ giúp đường tu

Vượt bao nhiêu ngả hoa cù đến đây

Giữa đêm xuân mới trăng đầy

Thơ buông nhạc nổi ngờ mây gác Đằng.

Tri âm người cũ đó chăng?

Ngàn xưa phong cốt lăng tằng mấy ai!

Nguyên-tiêu hội mở Cầm-đài

Lẽ đâu một phiến khép riêng!

Hồn trăng hồn nước có thiêng

Góp cùng hoa một cười nghiêng thành sầu!

Mà ai Tư-mã Giang-châu

Tiệc xuân đừng để hoen mầu áo xanh!

Tỳ-bà-trang nguyệt ba canh

Bóng hoa gợn sóng vây quanh bóng người.

Người nữ hoa tiêu

Em đến từ trang sách họ Bồ,

Mang theo mùi đất ẩm xương khô?

Hay là – ôi nét cười siêu thực! –

Em đến từ tranh Picasso?

Em đến từ đâu cũng chẳng sao!

Từ tranh? từ sách? từ chiêm bao?

Từ căn gác hẹp nhà bên nữa!

Từ chuyến phi cơ hải ngoại nào!

Vì anh chờ đã mấy pha phôi,

Hồn nhập bao nhiêu xác tục rồi!

Từng phút, hành trang anh sắp sẵn,

Đăng trình riêng đợi có em thôi.

Mình em biết lái thuyền không gian

Ngồi xuống đi em, dạo bản đàn!

Nhạc nổi “tề tâm”… Vòng điện tử

Vút siêu tần số; Địa cầu tan.

Sức nổ tung trời bỏ lại sau

Hư vô… Hai đứa ngã vào nhau.

Xứ Lưu-đày xóa rồi, em ạ!

Huyền thoại từ đây một Trái Sầu.

Còn thơm dư vị phút lên đường,

Hé cặp môi đào: “Mộng cố hương

Rối loạn trong vòng tinh tú ấy,

Sao anh trời vẫn chẳng hai phương?”

Thuyền vượt Ngân-hà chợt cảm thông:

, anh có phút nào không

Chờ nhau tới khóc?”… Lời chưa dứt

Người nữ hoa tiêu lệ vỡ giòng.

Kẻ Việt người Tần

(Lời thiếu nữ)

Đâu nắng Trùng dương men bốc cao?

Nơi đây thu bủa lưới mưa rào!

Gối chăn lớp lớp tràn băng giá

Từ buổi Sông chia Bến nghẹn ngào.

Đá chẳng hai phen sầu dựng tượng

Giữa mây huyền sử khói ca dao.

Ngày qua, hồn mất dần tin tưởng,

Xác cũng già đi mỗi tế bào…

Anh ơi! Mười một năm rồi đấy;

Anh nghĩ rằng em trẻ mãi sao?

Cái tuổi tròn gương, trăng độ ấy

Đã vơi nhiều lắm, chả còn bao!

Chỉ còn như chiếc liềm đe dọa

Cắt xuống đời xuân một sớm nào.

Em sợ… khuya nay đèn sáng quá!

Trên tường in đậm bóng gầy hao…

Rồi mai rồi mốt tàn binh lửa

Và cũng tàn theo cặp má đào;

Lỗi ước, Mỵ Châu đành lệ ứa,

Không còn can đảm rắc nga-mao!

Bên nớ bên tê

Núi Sông ôm mặt chịu làm bia,

Nhát chém ngang vai ngực đứt lìa.

Nhưng vẫn trái tim truyền hiệu lệnh,

Hai chân còn đứng vững vàng kia!

Óc trong đầu có nhiều sao sáng

Mười nhánh hoa tay nở nhất tề,

Cũng chẳng ly khai nguồn máu được;

Kinh Đô Tình Cảm mới là quê!

Chừ nghe tiếng gọi vang lồng ngực,

Đầu với tay nguyên vẹn trở về.

Đã tỉnh mười hai năm ác mộng?

Đâu còn bên nớ với bên tê…!

Một phiến u hoài

Cắt vào tâm sự thê lương

Mỗi đêm rằm chuốt thành gương sáng ngời.

Mặc ai gió lặng mây lười

Trăng tròn ta gửi cho người tròn trăng.

Bốn năm qua rồi đó chăng?

Nàng soi vẫn thấy đêm vằng vặc xưa.

Mắt xanh in bóng thuyền mơ

Tóc hoa vàng đọng vần thơ gieo vàng.

Trăng mười lăm gửi đều sang

Tuổi mười lăm cũng mê nàng không đi.

Biển Đông con nước dậy thì

Lại tròn thêm một chu kỳ tối nay.

Chim thần, hãy ngậm gương bay!

Và sao Bắc đẩu, chuyền tay về Đoài!

Theo gương hồn bướm lạc loài;

Hoa soi bóng, gợn u hoài đến đâu!

Xem thêm:  Nghĩ về thơ hay việc cải cách thơ

Vọng Phu

Lệ nghẹn đường trôi về biển Đông;

Uổng mơ tin nhạn đón tin hồng.

Nghe chăng? Núi dựng sầu chinh phụ;

Nam Bắc hai phương đá ngóng chồng.

Sáng choang sắt thép ngày ra đi;

Kẻ ngược người xuôi, khinh biệt ly.

Dứt áo, sông Tần hay bến Việt,

Nào ai thao thức nhớ nhung gì!

Ải Bắc vung gươm mộng đẹp thay!

Giang Nam quăng chén vào cơn say…

Rằng: Mai, ngựa ruổi vang rền sấm.

Rằng: Sẽ vòm sao rụng xuống tay.

Nhưng gái-yêu-chồng riêng thiết tha

Được vui xum họp giữa quê nhà.

Hiển vinh nào xứng niềm đau xót

Trỏ bóng mình cho con gọi “cha”?

Ôi mây Hoài-thủy khói Đồng-đăng!

Khói bạc mây vàng một ánh trăng…

Mây khói hai phương trời có biết

Cũng mòn gan đá Vọng-phu chăng?

Vòng đua

Rằng tất cả đều xoay chong chóng.

Còn ai không biết nữa ư?

Một chân lý, một cuồng lưu nóng bỏng

Ngay quanh mình, ngay giữa nếp suy tư.

Khác xa nhịp bước Nàng Thơ vấn vương tiềm thức,

Hay trong mơ khúc múa Tinh Cầu.

Vì chẳng có chi là nao nức

Là rung động thực

Vang xuống các bề sâu…

Chỉ là Máy;

Những đe dọa bên tai, những mệnh lệnh trong đầu

Thúc đẩy mãi… đến bao giờ kiệt sức.

Đêm lịch sử đã thăng bằng hai Đối Lực

Cùng đi hoang và dứt bỏ cỗi nguồn.

Sân khấu chẳng ngừng xoay, mỗi ngả kéo theo luôn

Cả cuộc sống với trăm ngàn sắc diện.

Để tranh quyền Đạo diễn,

Quyền phân phát những đam mê, yêu, ghét, vui, buồn.

Ôi Vòng đua lộ liễu

Với cờ trận tung bay nhãn hiệu

Của hai phường Con Buôn.

Rằng tất cả đều rã rời đau nhức;

Đang chờ nghe mê hoảng tiếng nhân ngư

Tận cuối đường kia, đáy vực,

Còn ai không biết nữa ư?

Còn ai không biết nữa ư?

Rằng tất cả đều căng ra hết mức.

Da mặt trống mênh mang, dùi vung lên vỡ ngực.

Bình minh đâu, thế hệ Không Cười?

chăng, thế hệ Hai Mươi?

Ai dám chắc dấn thân vào Thảm Kịch

Là “hoa tàn lại thêm tươi”?

Rất có thể vòng đua về tới đích

Tượng trưng bằng Chấm Hết của Con Người.

Nhưng chẳng lẽ còn ai không biết

Rằng: trải đau thương, tất cả sẽ không lầm.

Với một lòng tin bất diệt

Sức Ly Tâm nào cũng phải Hồi Tâm…

Trăng đã mọc

Thoáng

Giữa nhịp đời nhức óc

Bài Thơ này cao ngâm.

Trường ca sát thát

Ðoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,

Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trưởng thành.

Ðoàn quân ấy từ phương Ðông xuất phát,

Lũ con nuông bất trị của Trời Xanh!

Chỉ nhắp có hơi men “xung sát”,

Chỉ say sưa bằng những miếng “giao tranh”.

Nhằm hướng Phi châu,

Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,

Biển ngập máu còn mang tên “Hồng hải”.

Cờ phất Âu châu,

Ngựa dẵm tới đâu là xương phơi thịt giãi,

Biển đeo tang còn “Hắc hải” ghi danh.

Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát,

Từ Mông cổ, Tân cương, đến Ba tư, Bách đạt,

Trở về Hoa hạ, Yên kinh;

Lũ “Thiên kiêu” từng bắc chiến tây chinh

Lẽ nào để một phương không xéo nát:

Trời Nam riêng cõi thanh bình!

Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Ðát

Ba chân trời đại lục đứng chênh vênh!

Hay đâu:

Bắc phương vừa quẫy đuôi kình,

Rồng thiêng đã sớm cựa mình Nam phương…

Trần triều hai Thánh đế

Hưng Ðạo một đại vương;

Hội mở Diên hồng

đất nước vang rền khí thế,

Hịch truyền Vạn kiếp

trời mây sáng rực văn chương

Ý gửi từ muôn dân, lệnh trao từ chín bệ,

Thì: nắm đầu giặc như chơi

cướp giáo giặc cũng dễ.

Ðây: cửa sông Hàm tử

bến đò Chương dương;

Nuốt sao Ngưu chẳng phải việc hoang đường.

Nam phương cường? Bắc phương cường?

Máu đào loang sóng Phú lương mấy lần!

Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần,

Giang Hoài bốn tỉnh lại ra quân…

Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa

Tràn xuống Thăng long

như cả một khu rừng bốc lửa

Những “cây sắt”, con nòi Thiết Mộc Chân.

Giống Hồng Lạc giữa hai đường sinh, tử,

Trông lên: sợi tóc buộc ngàn cân.

Chợt đâu đó, xé rèm mây quá khứ,

Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử

Rọi về tia mắt tiền nhân,

Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự,

Cả đến thép vô danh cũng rực ánh gươm thần.

Sát cánh vua cùng dân,

Chung lòng tướng với quân,

Phá cường địch… Cờ ai sáu chữ,

Báo hoàng ân là báo quốc ân.

Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự,

Sông núi nào riêng một họ Trần!

Bình Than lại nổi phong vân,

Một gươm Tiết chế hai lần trao tay…

Xem thêm:  Chú hải quân - Vân Đài

Lời Đại vương truyền nín cỏ cây;

Ba quân hào khí ngất từng mây.

Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:

“Sông Bạch Ðằng tôi có mặt đây!

Hán, Hồ… cũng đến chôn thây,

Trước sau một khúc sông này mà thôi.”

Triều non bạc lên ngôi… giờ lịch sử!

Và xuống ngôi… theo lệnh đại vương truyền.

Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên

Lấy Ðông hải làm bia nhằm bắn tới.

Một ám hiệu! Kình nghê vừa mắc lưới!

Thuyền vương sư liền quật khởi tranh phong

Tay chèo nổi ngược cơn giông

Tiếng hô “Sát Thát” vang sông ngập bờ.

Duyên giang một giải

Lau cũng phất cờ;

Mùa xuân gần cuối

Vẫn sóng bay hoa;

Ngang trời động sấm tháng Ba

Dọc sông chớp giật sáng lòa gươm dao.

Cũng nơi đây Bạch Ðằng giang một khúc

Ngô vương từng chém Hoằng Thao!

Gió mây thôi thúc

Quằn quại ba đào…

Chợt tưởng niệm, máu càng sôi sục,

Tinh thần quyết thắng bốc lên cao.

Thế phản công làm giặc dữ nôn nao

Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch.

Nhưng số phận Hung Nô, người phương Nam đã vạch,

Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông!

Ðáy trường giang là cả một bàn chông,

Nằm đợi sẵn, khi thủy triều xuống thấp,

Ðoàn thuyền giặc lùi qua bị xô nghiêng lật sấp,

Bị xé ra từng mảnh, vỡ tan thây…

Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây:

Quân tiếp ứng của vương sư ào xuất trận.

Và:

Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn

Hiện ra như một vị thần linh;

Chớp mắt trên sông bặt sóng kình!

Thế là đã nơi này bỏ xác

Lũ con nuông của Trời Sa mạc

Khắp Á Âu từng vạn lý trường chinh.

Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Ly minh,

Thân bách chiến bỗng quay về hạt cát;

Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Ðát,

Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên…

Chàm thích tay ai nét ảo huyền,

Ngọn trào pha máu sắc tươi duyên.

Chàm xanh, máu đỏ, nền sông trắng,

Bức vẽ Ðông A vạn cổ truyền…

Ấy ai qua chốn giang biên,

Khói đầy khoang, giấc sầu miên lạnh lùng!

Tiếng kình vang đợt sóng rung,

Có nghe chăng?

Có thẹn cùng người xưa?

Riêng ai: nước cũ mây mờ,

“Thái bình diên yến” câu thơ lệ nhòa.

Tháng Giêng Ðống đa

Sông Ðằng kỷ niệm tháng Ba… mấy lần?

Ðầu mùa xuân, cuối mùa xuân,

Cánh tay Ðế Nguyễn Vương Trần nào ai?

Ai có qua cầu

Lời thiếu nữ )

Hôm nay mình là cô dâu;

Của hồi môn: chiếc gối sầu mang theo.

Các bạn chê điềm gở;

Mình cười nghe trong veo,

Mà lạ chưa, má phấn đỏ lên nhiều!

Tiếng gì như ngọc vỡ?

Hay là hạt sương?

Hay là châu lệ

xe hoa nghiến nát trên đường?

Mấy chị! làm ơn mở hộp gương,

Ta cùng soi chút nhé!

Kìa: bên Đông, bên Tây,

giờ đây bao người vợ trẻ

Xếp gối thành đôi

ngồi đối bóng canh trường…

Duyên chưa đầy năm

một rằng yêu hai rằng yêu,

Đã ngày tiễn đưa nhau

trăm thương ngàn muôn thương,

Để rồi đêm đêm

Mênh mông chiếu giường…

Hồn chinh phụ: khói lò hương

Thả làm mây, trắng biên cương tìm chồng.

Ngược chiều xe hoa

sao nhiều xe thế nhỉ?

Nét chữ hồng

Tươi hơn môi mấy chị;

Mà chẳng xe nào chở không!

Những ai đó? ai còn? ai mất?

Ai? Nào ai xương sắt da đồng!

Lưỡi mình đắng như mật;

Trăng nhà ai ngọt đâu!

Bước vu quy đứt ruột lũ “qua cầu”…

Ngây thơ là những cô dâu

Gối mang “đủ cặp” cho sầu càng cao.

Tưởng niệm

Mộng cá hình chim một vút bay

Đã hay địa cực nối liền ngay.

Không gian nuốt trọn vào tia chớp;

Ánh bút trời xưa đẹp tới nay.

Men nào cho cánh bằng say?

Tuyết rơi lệ khóc lưu đày từng cơn.

Biển băng nào chẳng cô đơn;

Bắc Nam cũng một khối hờn khác chi!

Xem thêm:  Thi sĩ Yến Lan cùng tập thơ Tứ Tuyệt vang danh phần 1

Núi Trường sông Cửu hãy còn ghi

Dấu vết chim nghiêng cánh dị kỳ;

Đất trũng xuống thành sông vạn dặm,

Vọt lên thành giải núi uy nghi.

Cửu Long giang vẫn tình si

Với Trường sơn, tuổi dậy thì sánh duyên.

Đầu non khi nhức tiếng quyên

Lại soi lòng nước, mơ huyền thoại xưa.

Ôi! hồn người đã Máy xa đưa,

Ánh bút đẹp cũng thừa.

Nhả ngọc, sao Khuê thường gọi bạn,

Dài lâu riêng cặp Nước Non thưa!

Nhiều và một

Đỉnh Cô sơn có còn ai độc tọa

Lắng khúc hoành tiêu?

Đẹp tư thế “cắt trời xanh đứng một”

Có còn chăng nhỉ cánh diều?

Ai, nào ai trắng canh dài độc ẩm,

Câu vọng ngôn mình tự nối điêu?

Quán trọ nào chăng lẻ bóng

Gối lên phù kiều?…

Của Đơn Chiếc riêng tôi là người yêu

Nhưng đã mấy ngàn thu nhớ tiếc,

Mang mang hồi ức

Thuở chưa chịu xé đôi hình Thái Cực…

Tôi: thù nhân của Số Nhiều!

Ôi bình minh rừng ban sơ!

Tiếng suối lụa đánh đu trên mùi cỏ

Màu dã hoa cùng nhạc nắng giao thoa.

Tất cả tôi đều cất lời ca

Hòa tan vào thời lưu ngưng đọng bất ngờ

Những hạt men thi vị

Chứa lòng đất vô tâm, lẽ trời phi lý,

Tôi, một mình, nghe Hạnh phúc xưng danh.

Nhưng rồi các anh

Kẻ trước người sau bằng hữu…

Và các em

Đủ cung bậc yêu đương nổi chìm da thịt,

Từng của ải giác quan như lưỡi câu vương vít,

Tới nơi đây dạo bản hòa thân.

Gái cầu Lim Nội duệ?

Hay công chúa Huyền Trân?

Hay nữ hoàng sông Nil? thương nữ sông Tần?

Mười hai ngọn Vu phong mưa chiều mây sớm,

Giấc mộng đơn thuần

Phai ánh tà huân!

Tôi nghe tan tác hồn hoa cỏ,

Chết đứng cả tình hương ý gió,

Hạnh phúc thay tên làm tượng đá trên ngôi

Tự cắt chia ra ngàn vạn chỗ ngồi…

Kìa: mũi nhọn Số Nhiều lạnh hơn thép trắng

Dư vị bình minh đè nặng

Bao trùm cay đắng trọn đời tôi!

Cho nên của Đơn chiếc

Tôi là người yêu,

Và khắp đâu đâu và

Tôi: thù nhân của Số Nhiều.

Hỡi ơi, phải chi từ xưa

Cuộc khiêu vũ đê mê tôi chỉ vòng tay một lần mở rộng

Tập thơ vàng tôi chỉ một bài in

Đường du ngoạn Á Âu mây gió hư huyền

Tôi chỉ một phi trường hạ cánh!

Sao tôi dại khờ nghe nàng danh ca

Lần thứ hai mưa đổ phách Tỳ Bà?

Sao tôi mê muội

Nghĩ rằng

Say

Phải là Say đến cuối?

Biết làm sao? phút giây này

Tôi chỉ còn là một Số Không đều đặn

Lăn mình trên dốc Tháng-ngày-qua;

Độ dốc kia tăng với tuổi già:

Bốn mươi… Bốn chín… Năm ba…

Những Số Nhiều ghê gớm thật!

Chẳng biết tôi cười vang

Hay đang khóc ngất?…

Mẹ hiền ôi!

Năm nào xưa con đầy tuổi tôi

Sao Mẹ chẳng vì con chiếc đũa thần khẽ nhấc

Cho Thời gian ngủ giấc thôi nôi?

Số con chỉ tốt lành

Chỉ yên vui

Khi nó là con số Một!…

Tuổi Thơ… Tuổi Hoa… đời hiểu gì chăng?

Là tuổi Không hai, Không lìa bỏ gốc,

Là thơ Không ngôn ngữ đa đoan,

Là hoa Không biết nở, không tàn,

Như hoa sóng bay quanh mình độc mộc!

Trăng loạn đàn sầu

Con nước con trăng đôi mắt Nhạc

Chiều Phi Uyên các

Đêm gác Bay Uyên…

Trăng nước… ôi thơ tạc nguyền!

Cớ sao lếch thếch gối hàn huyên?

Thơ mang hận núi treo đầy bức

Rượu ngấm hờn sông chở nặng thuyền

Lửa đạn băm nhừ tới bóng

Cầm tâm đành phó mặc

Gió bụi tiếng ca xuyên

Kéo tay thệ thủy liều trôi ngược

May có gương lồng mặt trạng nguyên…

Ôm cành chết rũ đôi hàn tước

Ai hay nghiệp khởi từ duyên!

Cỏ gà chưa nát

Còn ngọc còn sương ngậm hạt

Mời chân sáo đá mỏ vành khuyên

Cây Đa xõa tóc Cửa Quyền

Nổi cuồng phong sợi độc huyền tay ai?

Trên đây chúng tôi đã giới thiệu những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Cành mai trắng mộng. Thi phẩm được đánh giá là một phần thơ hay và độc đáo đã làm nên tên tuổi của nhà thơ này. Bởi thơ ông vừa cổ kính xưa cũ vừa hiện đại đến táo bạo, cũng vừa thanh cao đến phiêu dật. Đừng quên đón đọc nhũng phần tiếp theo của các tập thơ Vũ Hoàng Chương bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …