Bùi Ân Niên là người làng Châu Cầu, tỉnh Hà Nam, Bắc Việt. Ông đỗ cử nhân trường Hà nội và cũng chính là một người nổi tiếng hay chữ. Với tài năng của mình, ông đã sáng tác ra những bài thơ hay để đời. Hãy cùng đọc và cảm nhận nhé!
Thông tin về nhà thơ Bùi Ân Niên
Bùi Ân Niên là người làng Châu Cầu, tỉnh Hà Nam, Bắc Việt. Ở khoa Ất Sửu, Tự Đức 18 (1866) ông vào kinh thi hội, làm xong 4 kỳ được vào hạng chánh trúng cách. Ở khoa thi ấy, đáng lẽ ra ông phải đỗ tiến sĩ nhưng không biết vì sao mà khi thi đình lại đỗ phó bảng. Khi ra làm quan, ông được Vua rất coi trọng.
Năm 1876, ông được cử đi sứ Trugn Quốc.Sau khi Hà nội bị thất thủ, Hoàng Diệu tuẫn tiết ông đã cùng với Nguyễn Chính ra Bắc Việt làm khâm sai để chốn Pháp. Vào cuối đời Tự Đức để tránh những việc lôi thôi ông đã cáp quan về quê.
Đề hoàng cúc
題黃菊
碎盡商金剪作葩,
御袍織就貢天家。
猶來正色名天下,
不怕寒香殿歲花。
瘦影拂階星欲淡,
繁英遶砌月初斜。
遙知上苑懷芳意,
并到幽蘭水一涯。
Đề hoàng cúc
Toái tận thương kim, tiễn tác ba,
Ngự bào chức cựu, cống thiên gia.
Do lai chính sắc, danh thiên hạ,
Bất phạ hàn hương, điến tuế hoa.
Xấu ảnh phất giai, tinh dục đám,
Phồn anh nhiễu thế, nguyệt sơ tà.
Dao tri thượng uyển, hoài phương ý,
Tinh đáo u lan, thuỷ nhất nha (nhai).
Dịch nghĩa
Tan nát vàng ra để làm hoa
May áo ngự bào cống lên vua
Chính sắc của hoa cúc (sắc vàng) từ xưa đến nay đã có tiếng trong thiên hạ
Không sợ mùi hương gặp lạnh, hoa cúc sinh về cuối năm
Bóng hoa soi lên thềm, ánh sáng sao muốn mờ
Lá cúc tốt, mọc quanh thềm che át cả bóng trăng
Xa xa vườn thượng uyển vẫn nhớ mùi hương thơm ấy
Lại nhớ đến cả hoa lan bên nước
Vua Tự Đức đã phê vào 2 câu 3, 4: “Trạng nguyên tể tướng dĩ an bài liễu” (tài trạng nguyên tể tướng đã định sẵn rồi) để nói lên cái tài hoa của ngài.
Đề Hoàng Hạc lâu
題黃鶴樓
江樓一望迥紅塵,
撲面香風若有神。
黃鶴白雲千載下,
綠波碧草一江春。
仙人送客來今夕,
詩老先余到幾辰。
嗚咽可憐鸚鵡塚,
憑誰作賦吊斯人。
Đề Hoàng Hạc lâu
Giang lâu nhất vọng, quýnh hồng trần,
Phác diện hương phong nhược hữu thần.
Hoàng hạc bạch vân, thiên tải hạ,
Lục ba bích thảo, nhất giang xuân.
Tiên nhân tống khách, lai kim tịch,
Thi lão tiên dư, đáo kỷ thần.
Ô yết khả liên anh vũ trủng,
Bằng thuỳ tác phú điếu tư nhân.
Dịch nghĩa
Lên lầu ở trên sông trông ra, xa cách chốn hồng trần
Gió thơm thoảng mát như có thần
Con hoàng hạc bay trên đám mây trắng, nay đã cách hàng ngìn năm
Chỉ có sóng biếc cỏ xanh là cảnh đẹp của sông
Người tiên tiễn khách từng ở chốn này
Các bậc thi nhân đến trước ta từ bao giờ?
Trông ra mã Nễ Hành mà nghẹn ngào thương xót
Nhờ ai làm bài phú viếng cố nhân
Nguyên Nễ Hành ngày trước có làm bài phú Anh vũ nổi tiếng danh sĩ đời Tam Quốc, ý nói tác giả nhìn thấy mộ mà thương xót người tài hoa.
Đề Tào Tháo chi mộ
題曹操之墓
淼淼漳河蔚莽蒼,
樓臺歌吹總荒涼。
三分事業餘黃土,
七十疑墳半夕陽。
野荳飄零才子淚,
岸花蕭颯美人香。
祗今片瓦餘銅雀,
撥墨淋漓寫恨長。
Đề Tào Tháo chi mộ
Miểu miểu Chuơng hà uất mãng thương,
Lâu đài ca suý, tổng hoang lương.
Tam phân sự nghiệp, dư hoàng thổ,
Thất thập nghi phần, bán tịch dương.
Dã đậu phiêu linh, tài tử lệ,
Ngạn hoa tiêu táp mỹ nhân hương.
Chi kim phiến ngoã, dư Đồng Tước,
Bát mặc lâm ly, tả hận trường.
Dịch nghĩa
Thăm thẳm sông Chương hà, cỏ tốt xanh um
Chỗ lâu đài là nơi hát múa của Nguỵ Vũ để đến nay đều là chỗ hoang lương
Sự nghiệp nước tam phân, còn trơ nắm đất vàng
Bảy mươi ngôi mộ của ông, nay buổi chiều chỉ thấy ánh mặt trởi soi
Cây đậu ngoài đồng xơ xác, người tài tử trông thất chảy nước mắt
Mùi thơm hoa trên ngàn phất phơ, sực nhớ đến hương mỹ nhân thời ấy
Đến nay chỉ còn thấy những mảnh ngói vỡ của đền Đồng Tước
Người ta lấy ngói ấy làm nghiên mài mực để tả nỗi hận lòng dài dằng dặc
Vua Tự Đức đã phê vào 2 câu tam, tứ: “Trạng nguyên tể tướng dĩ an bài liễu” (tài trạng nguyên tể tướng đã định sẵn rồi) cho thấy tài hoa của tác giả.
Trên đây là những bài thơ hay nhất của nhà thơ Bùi Ân Nhiên. Các bài thơ này được viết trong bối cảnh đất nước phong kiến nên có thể nó sẽ khá hiểu nhất là đối với những độc giả trẻ. Tuy nhiên hy vọng các bản dịch mà chúng tôi giới thiệu trên đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Theo Thuvientho.com