Phan Bội Châu không chỉ là một nhà thơ lớn của nước ta mà còn là một nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam kiệt xuất trong khoảng hai mươi lăm năm đầu thế kỷ XX. Ông cũng như nhiều nhà nho yêu nước đương thời, đã dùng thơ văn làm vũ khí chiến đấu. Phan Bội Châu thực sự là một nghệ sĩ có năng lực biểu hiện phong phú, đa dạng với tấm lòng sục sôi nhiệt huyết, được các thế hệ tôn trọng, yêu mến
Thơ trữ tình Phan Bội Châu – một vùng đất nghệ thuật mới mẻ cho những ai tâm huyết, bởi vì đằng sau cánh cửa hùng tráng, ngang tàng của một người “đầu đội trời chân đạp đất” là một người đi tìm tri kỷ không ai khác ngoài sông nước, con đò và vầng trăng cô đơn. Ông để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng thơ đặc sắc
Nào, ngay bây giờ các bạn hãy cùng chúng tôi cảm nhận nét tài hoa của ông trong Tập Thơ Chữ Hán nhé!
I. Đôi Nét Về Nhà Thơ Phan Bội Châu
– Phan Bội Châu 潘佩珠 sinh ngày 26-12-1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cha là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn, mất ngày 29-12-1940 tại Huế, là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp.
– Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Ông vốn tên là Phan Văn San 潘文珊 nhưng vì trùng với tên huý vua Duy Tân là Vĩnh San nên phải đổi thành Phan Bội Châu, hiệu Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam 巢南.
– Ông còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán 是漢, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử.
II. Tập Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng
Phan Bội Châu là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Trong đó có không ít những tác phẩm xuất sắc Phan Bội Châu xứng đáng đứng trong hàng ngũ các nhà văn lớn của dân tộc. Ông có nhiều tác phẩm gây nên tiếng vang lớn trong làng văn học nước nhà. Trong đó có tập Thơ Chữ Hán nổi bật hơn cả. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và cảm nhận tập thơ này chứ?
An Mai quân 安枚君 • An ủi Mai Lão Bạng
漂蓬我輩各他鄉,
辛苦天君分外常。
性命幾迴頻死地,
鬚眉三度入齡堂。
驚人事業天陶鑄,
不世風雲帝主張。
賈使前圖盡夷坦,
英雄豪傑也容常。
An Mai quân
Phiêu bồng ngã bối các tha hương
Tân khổ thiên quân phận ngoại thường
Tính mạng kỷ hồi tần tử địa
Tu mi tam độ nhập linh đường
Kinh nhân sự nghiệp thiên đào chú
Bất thế phong vân đế chủ trương
Giả sử tiền đồ tận di thản
Anh hùng hào kiệt giã dung thường.
Bái thạch vi huynh phú
Nguyệt lạc Thương Giang,
Vận đôi Hoàng Thạch.
Liệm khước trần dung;
Túc thử kiệt khách.
Tung tằng lăng chi ngạc cốt, chi ưng trưởng ngã thập niên;
Ấp lỗi lạc chi kỳ tư, liêu phục nhượng quân bán tịch.
Diệc dĩ:
Thạch chi vi vật, nguy nguy ngật ngật
Thái thượng nhân chi vong tình;
Đại trượng phu chi bất khuất.
Kình thiên tác trụ, tiên vạn cổ chi cương thường;
Trịch địa thành danh, hướng lưỡng gian chi văn bút.
Kiến chỉ cấn chỉ, huynh giả phỉ tha,
Kính chi ái nhi, bái hồ cảm bất.
Thời hoặc:
Tinh lam phỏng; viễn trục đăng.
Nhan sả tiếp; thần hốt ngưng.
Nham yêu tùng nhi tiệm khẩn;
Sơn kiên túng nhi vi lăng.
Trịch thương thanh trung, hưởng minh truyền chi vạn điệp;
Chỉnh y lập xứ, phi túc chướng chi thiên tằng.
Thị hoán kha kha, định điểm đầu dĩ thương hứa;
Phi hiềm lục lục, khỉ chiết yêu nhi bất năng.
Phùng quân bán diện; thính ngã nhất ngôn.
Nhất xang khối lội;
Song nhãn càn khôn.
Tùng chi biên hề hạc tử;
Cốc chi trung hề lan tôn.
Duy quân dã sương vi mao, ngọc vi tuỷ,
Duy ngã dã tuyết vi phách, băng vi hồn.
Ngã nguyệt tố đệ; huynh đương thị côn.
Thỉnh xai bá thi chi cư, ngũ bách niên tiền hà xứ;
Hợp tự trường quân chi xỉ, thập nhị hội vi nguyên.
Tự ngoan tự si; diệc hào diệc tuấn.
Cố miện tương lân; ngang tàng tự tín
Nhược can niên bất khuất tất, khỉ ưng vũ vũ lương lương…
Kiến tân nguyệt tiện hạ giai; tương đối truân truân lận lận.
Ninh hiềm cức bái, bân biên chi bộc bộc kỷ hồi;
Khỉ nhã nan huynh, bích lập chi nhan nhan vạn nhẫn.
Vạn tụ huề quy; bán song bồi toạ.
Đông hải thổ thôn; bồng lai hữu tả.
Thác tân hoa chi ngũ sắc, khả nhân khả nhân,
Uẩn mỹ phác chi liên thành, loại ngã loại ngã.
Toại linh:
Vong hình hài; duyệt u nhã
Lạc hữu hiền huynh; diệc viết bái khả.
Vi thừa nguyệt nhi cứ hổ báo, Xích Bích thuyền đầu:
Thả lâm phong nhi ấp thần tiên, Cốc Thành sơn hạ.
Nại hữu:
Khầm thương vũ, ngạo hồng trần.
Đảng hung tắc bát cửu Vân Mộng;
Kiết lô ư vạn hác tùng quân.
Hỷ Mễ huynh chi vi lão; chiêu thạch tính dĩ vi lân
Tam sinh điền hải chi tư, vị vong tương bá;
Nhất phiến bổ thiên chi lực, hựu thị phùng quân.
Đệ tương:
Túc y quan nhi chỉnh bái;
Kỳ tứ hải dĩ vi xuân
(Bất áp nhân vận)
Du Đại Huệ sơn cảm chiếm
Ngã vị đăng sơn thì,
Chúng sơn dữ ngã tề.
Ngã ký đăng sơn thì,
Ngã thị chúng sơn đê.
Dịch nghĩa
Khi ta trèo lên núi,
Ta thấy các ngọn núi cũng ngang với ta.
Khi ta lên đến đỉnh núi rồi,
Ta thấy các ngọn núi đều thấp hơn ta.
Đề Ấu Triệu bi đình 題幼趙碑亭
Sinh nê bất nhiễm: hoa quân tử;
Bão phác vô ngôn: thạch khả nhân.
Tâm khả huyền ư thiên nhật nguyệt;
Thân tằng giá dữ Việt giang sơn.
Điếu Phan Chu Trinh 弔潘周楨
霜海未填,精衛含石;
鐘期既沒,伯牙斷弦。
Điếu Phan Chu Trinh
Sương hải vị điền, Tinh vệ hàm thạch;
Chung Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền.
Hữu cảm 有感 • Có cảm xúc
三年嶺海作詩囚,
身世家邦戾迸流。
精衛魂孤沙渚斷,
杜鵑血黯蜀山幽。
親朋秋葉風前舞,
書劍青萍水上浮。
自笑丹心還不死,
吳城夜夜望南牛。
Hữu cảm
Tam niên Lĩnh Hải tác thi tù,
Thân thế gia bang lệ bính lưu.
Tinh Vệ hồn cô sa chử đoạn,
Đỗ quyên huyết ảm Thục sơn u.
Thân bằng thu diệp phong tiền vũ,
Thư kiếm thanh bình thủy thượng phù.
Tự tiếu đan tâm hoàn bất tử,
Ngô thành dạ dạ vọng Nam ngưu.
Dịch nghĩa
Ba năm làm thơ tù ở đất Lĩnh Nam
Nghĩ đến thân thế nước nhà thì rơi nước mắt.
Bơ vơ hồn Tinh Vệ gãy gục trên bãi cát
Ảm đạm máu chim quyên u sầu ở non Thục
Thân nhân bạn bè như lá mùa thu bay múa trước gió,
Tấm thân thư kiếm như cánh bèo xanh trôi nổi trên dòng nước.
Tự cười vui vì còn tấm lòng son bất tử,
Đêm đêm từ thành Ngô (Trung Hoa) dõi nhìn về sao Nam ngưu (đất Việt).
Khốc Chân tướng quân
Dị chủng sài lang mãn địa tinh,
Độc tương chích thủ dữ cừu tranh.
Trấp niên thương kiếm sơn hà khí,
Bách chiến phong vân phụ tử binh.
Quốc thế dĩ trầm, quân thượng phấn,
Tướng đầu vị đoạn tặc do kinh.
Anh hùng bản sắc chung năng hiện,
Vạn lí thời văn hổ khiếu thanh.
Ngôn chí tự đề ảnh 言志自題影
神全形全靜如處女,
昨是今是知者其天。
Ngôn chí tự đề ảnh
Thần toàn hình toàn tĩnh như xử nữ,
Tạc thị kim thị tri giả kỳ thiên.
Dịch nghĩa
Thần còn vẹn, hình còn vẹn, lòng trong trắng như người trinh nữ,
Xưa vẫn vậy, nay vẫn vậy, hiểu được ta đã có trời cao.
Thu dạ đối nguyệt 秋夜對月
人自低回月自流,
他鄉月是故鄉秋。
啼鴻聲裏關河杳,
繞鵲枝邊宇宙浮。
北塞雲煙催遠感,
西嶺風雨夢前遊。
憑誰借酒消長夜,
撫劍號長天地幽。
Thu dạ đối nguyệt
Nhân tự đê hồi nguyệt tự lưu,
Tha hương nguyệt thị cố hương thu.
Đề hồng thanh lý quan hà yểu,
Nhiễu thước chi biên vũ trụ phù.
Bắc tái vân yên thôi viễn cảm,
Tây linh phong vũ mộng tiền du.
Bằng thuỳ tá tửu tiêu trường dạ,
Phủ kiếm hào trường thiên địa u.
Tuyệt mệnh thi kỳ 1 絕命詩其一
Nhất lạc nhân hoàn lục thập niên,
Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên.
Bình sinh kỳ khí vi hà tử?
Nguyệt tại ba tâm vân tại thiên.
Tuyệt mệnh thi kỳ 2 絕命詩其二
Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn,
Na kham tử luỵ hậu lai nhân.
Hảo tòng hổ khẩu hoàn dư nguyện,
Khẳng nhượng Di, Tề nhất cá nhân.
Tuyệt mệnh thi kỳ 3 絕命詩其三
Thống khốc giang san dữ quốc dân,
Ngu trung vô kế cực trầm luân.
Thử tâm vị liễu thân tiên liễu,
Tu hướng tuyền đài diện cố nhân.
Xuất dương lưu biệt 出洋留別
生為男子要希奇,
肯許乾坤自轉移。
於百年中須有我,
起千載後更無誰。
江山死矣生圖汭,
賢聖遼然誦亦癡。
願逐長風東海去,
千重白浪一齊飛。
Xuất dương lưu biệt
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch nghĩa
Đã sinh làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ,
Há lại để trời đất tự chuyển vần lấy sao!
Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ,
Chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?
Non sông đã chết, sống chỉ nhục,
Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!
Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng bạn trọn bộ tập Thơ Chữ Hán đặc của của nhà thơ Phan Bội Châu. Ông là một trong những người có công với đất nước ta cũng như sở hữu một kho tàng thơ vĩ đại được truyền tụng nhiều thế hệ. Hãy theo dõi Thuvientho.com để cập nhật những bài thơ hay hơn nữa nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!
Theo Thuvientho.com