Nhà thơ Phùng Quán nổi tiếng với nhiều bài thơ nói về người lính vệ quốc dân. Ông có khá nhiều bài thơ vang danh được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến. Với một ngòi bút tài hoa đầy ngọt ngào mà tác phẩm của ông không lẫn với ai được
Ông luôn miệt mài tìm tòi và sáng tác những bài thơ mang trên mình những giá trị cao cả. Sự cống hiến hết mình của ông đã được khẳng định bằng những giải thưởng vô cùng danh giá về văn học nghệ thuật. Ông đóng góp một phần không nhỏ cho nền thi ca Việt Nam
Chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận những bài thơ của Phùng Quán ngay bây giờ nhé!
Huyệt
Tết không vào nhà tôi
Tết đi qua trước ngõ
Tim tôi tan nát rồi
Không còn lành được nữa!
Thi sĩ tôi cô đơn
Giữa đời tôi lạc lõng
Giữa chông gai cuộc sống
Trần trụi không hành trang…
Bạc đầu vẫn trẻ con
Dại khờ cho đến chết
Giữa nghiệt ngã trần gian
Trái tim thơ thấm mệt…
Tôi sẽ đào nấm huyệt
Cạnh mồ cha mẹ tôi
Tôi sẽ lăn xuống đó
Thế là xong một đời!
Đàn mối của quê hương
Sẽ thay phu đào huyệt
Bao nghiệt ngã trần gian
Chỉ dăm ngày vùi hết!
Căn hộ mới đáy huyệt
Rượu đất tôi uống tràn
Cụng ly cùng dòi bọ
Mừng trắng nợ trần gian!
Kinh cầu nguyện buổi sáng
Tôi sẽ đi với em
Cho đến mút chót con đường
Cho đến lúc nằm dài dưới đáy huyệt!
Có thể em chết trước tôi
Cũng có thể tôi chết trước em
Nhưng không sao cả em ơi
Ngày lấy em tôi đã có lời nguyền
Nếu tôi bỏ em lại bơ vơ dọc đường
Tôi sẽ bị trời chu đất diệt!
Em là cây Thập tự của đời tôi
Tôi phải mang vác cho đến ngày chung cuộc!
Tôi sẽ đi với em
Cho đến mút chót con đường
Cho đến lúc nằm dài dưới đáy huyệt!…
Lá khổ sâm
Ly rượu đời Thượng đế ban cho tôi
Quá bủn xỉn
Tôi chỉ mới nhấp môi đã cạn
Khi chén rượu đời đã cạn
Mà túi rỗng không
Phải đứng lên và bước ra khỏi quán
Nghĩa là
Phải nhắm thái dương mình nổ súng
Hay xiết dây thòng lọng quanh cổ mình
Và trổ lên cuộc đời những câu thơ tuyệt mệnh
Như những vết chàm xanh…
Các anh tôi đó
Mai-a và Ét-xê-nhin!
Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống
Tôi chưa yêu cho hết nợ tình yêu
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu sống…
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian…
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm…
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
– Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
– Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
– Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
– Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Mời rượu
Mời bác Ba Vì xích lại đây
Ta cùng tuý luý ngắm sóng say
Tôi đùa bác đấy đừng tưởng thật
Bác xích lại gần tôi cũng gay
Bác là Ba Vì tôi Phùng Quán
Bác đông khách tôi càng lắm bạn
Toàn bợm rượu coi trời bằng chai
Họ nhầm lung tung bác với tôi…
Bác đẹp ngang tàng tóc còn xanh
Gái Đông Đô sướt mướt thư tình
Gửi nhầm địa chỉ tôi chết dở
Bà vợ tôi sẽ nổi cơn ghen
Thôi, bác cứ ngồi yên ở đó
Còn tôi cứ tĩnh toạ ở đây
Tôi thì làm thơ bác làm núi
Nhớ nhau tưới rượu xuống Hồ Tây.
Nghe tiếng cuốc kêu
Chắc có điều chi bi thương lắm
Không bày giãi được nên phải kêu
Đêm mất ngủ, nghe cuốc kêu đứt ruột
Lòng những bàng hoàng muốn kêu theo.
Sám hối
Quỳ rạp trán trước đền Diệp lục
Tôi tạ tội cùng cỏ cây
Tôi đã mắc phải nhiều trọng tội:
Khổ đau cuộc đời mà tôi phải nếm trải
Tôi chưa đủ gan nếm trải đến tận cùng
Tôi chưa đủ tình thương
Để thương tất cả những gì cần được thương…
Tôi xin được trừng phạt!
Hãy đội lên đầu tôi một vành – gai – nước – mắt
Đóng đinh câu rút tôi lên thập – tự – tình – yêu
Hỡi bạn hữu thân sơ!
Trước khi mỉm cười với tôi
Hãy quất lên lưng trần tôi ngọn roi thương khó
Một trăm năm sau
Tôi sẽ rời thập tự
Với tấm lòng và mắt trẻ sơ sinh.
Say
Tăm tăm tình bạn
Chếnh choáng tình đời
Líu lưỡi tình người
Nôn nao thân phận!…
Chiếu rách ta ngồi
Lắc lư thuyền sóng
Cái giường long mộng
Một giòng sông trăng…
Ta cũng Lý Bạch!
Vồ trăng đáy sông
Mạn thuyền vừa cúi
Râu tóc bỗng lừng
Mắm tôm, chanh, ớt…
Trăng ta vồ được
Một mảnh ni lông!
Ta hơn Lý Bạch
Ta vồ được trăng!
Trăng ta đem gói
Nào dồi nào lòng…
Bên ta mỹ nữ
Mặt hoa che đàn
Ta Bạch-Cư-Dị!
Khách bến Tầm Dương..
Tư mã Nghi Tàm
Lệ đầm áo rách
Câu thơ bị biếm
Mềm môi ngâm tràn
Giai nhân! Giai nhân!
Mặt hoa ửng đỏ
Vì cảm thơ ta
Hay vì men lửa
Nghiêng đàn tỳ bà
Trăng rọi mặt hoa…
Ta nhìn xuống mâm
Lòng dồi như vét…
Vừng trăng nhoe nhoét
Một đống tỳ bà!
Ta nhìn giai nhân
Té mụ nạ giòng
Ta quen biết cũ
Nghiêng đàn tỳ bà
Té ra bát đũa
Tay gắp miệng và…
Ha ha, ha ha!
Cười đâu ta khóc…
Ta cười Lý Bạch
Cười giòng sông trăng
Cười Bạch Cư Dị
Cười bến Tầm Dương
Ta cười giai nhân
Mặt hoa che đàn…
Ta cười thân ta
Thiên sinh ngã tài…
Mà ta vô ích
Vô ích! vô ích!
Ta cười rượu xoàng
Uống hoài vẫn tỉnh!…
Tạ
Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm…
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm
Quỳ rạp trán xuống đất làng
Con tạ…
Con tạ đất làng quê
Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất
Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt
Không lá cây nào không mặn chát gian lao!
Con tạ ơn cha
Đã yêu đằm thắm mẹ con
Con tạ ơn mẹ
Đã sinh con đúng lúc
Con tạ trời
Tạ đất
Đã mưa thuận gió hoà đêm mẹ lên giường sinh
Con tạ bà mụ vườn
Tạ lưỡi liềm cùn cắt rốn
Đã đỡ con ra đời
Vẹn toàn, sung sức…
Con tạ
Manh chiếu rách con nằm
Con tạ
Bát cơm nghèo mẹ con ăn
Con tạ
Câu dân ca mẹ con hát….
Tất cả thành sữa ngọt
Nuôi con ngày trứng nước…
Để hôm nay con được sống
Được lớn khôn…
Được chiến đấu hết mình
Vì tự do của Tổ Quốc
Được ca hát hết mình
Tổ Quốc thành thơ!
Tặng Xuân Quỳnh
Tôi gặp nàng thơ mặc áo xanh
Đang gọt khoai tây và thái hành
Tôi đã đọc thơ nàng
Về tình yêu… chia ly… và đau khổ
Về biển và thuyền và bão tố…
Tò mò tôi nhìn sâu đáy mắt nàng
Dò tìm cội nguồn những câu thơ não nề đó
Nhưng tôi chỉ thấy
Lấp lánh đáy mắt nàng
Sắc khoai tây vàng
Mầu lá hành xanh
Với niềm vui giản dị long lanh
Pha lẫn sắc trời xuân phố Huế
Tôi thật thà mừng rỡ
Khi tin rằng những chuyện tình yêu, bão tố
Chia ly… đau khổ… đó
Chỉ là chuyện thơ…
Những câu thơ
Trong những phút lòng tràn trề hạnh phúc
Nàng đã vui vẻ viết ra
Như khi người ta quá yêu nhau thích lau cho nhau nước mắt
Để tình yêu thêm đủ vị đắng cay…
Tôi là người trải quá nhiều đau khổ
Nên tôi ghét thù sâu sắc khổ đau
” Đau khổ làm cho con người thấp hèn “
Như một nhà thơ tự bắn vào tim mình đã nói
Nhất là khi cuộc đời quanh ta sống vui sôi nổi
Nhất là khi ta mới ngoài tuổi hai mươi
Tôi thèm sao những câu thơ tươi rói
Thơm tho hạnh phúc bình thường
Như chính cuộc đời nàng
Vợ làm biên tập báo Văn nghệ
Chồng nhạc công chơi Violon
Để ngon thêm suất cơm trưa tập thể
Một đĩa khoai tây vợ rán vàng
Nàng thơ mặc áo xanh ơi
Nếu chưa đủ sức làm những câu thơ gọi người đứng dậy đi tấn công
Tôi chúc nàng
Làm những câu thơ như đĩa khoai tây trưa nay nàng rán
Như mùi mỡ phi hành
Như mắt nàng giản dị long lanh
Pha sắc trời xuân phố Huế
Ai thấu hiểu chia ly
Bằng những người lính trẻ
Cưới vợ một hai tuần
Từ ngõ quê ra thẳng trận địa phòng không
Đạn lửa hai năm chưa nguôi được mùi thơm tóc vợ
Ai hiểu thấu chia ly
Bằng những người vợ
Một nách bốn năm con
Chồng đi B đi C
Hai, ba, bốn năm không một lá thư về
Ôi những con người hiểu biết lớn lao gấp mười lần ta đó
Họ cần chăng là tiếng hát của niềm vui
Những câu hát làm nguôi bớt mùi nồng thơm tóc vợ
Làm ấm hơn chỗ giường trống vắng người
Những câu hát như chính cuộc đời nàng
Thơm tho hạnh phúc bình thường.
Thi sĩ và công nhân
Giặc rút khỏi miền Bắc
Để lại nhiều phố phường
Nhiều con đường
Nhiều tâm hồn
Ngập đầy rác rưởi
Quét dọn đường đẹp như áo cưới
Là việc làm của đồng chí công nhân
Quét dọn rác rưởi trong tâm hồn
Chính quyền Cộng Hòa giao cho thi sĩ
Chúng ta hãy cùng đồng chí công nhân
Làm nhiều thơ cục cằn như cái chổi
Quét dọn sạch sành sanh rác rưởi
Những con đường và những tâm hồn
Nhiều vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang
Chính quyền Cộng Hòa giao cho thi sĩ.
Thơ cái chổi – Chống tham ô lãng phí
Tôi đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:
Tôi đã gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa.
Tôi đã gặp
Những cô gái trồng bông
20? 30?
Tôi không nhìn ra nữa.
Mồ hôi sôi trên lưng
Mặt trời như mỏ hàn xì lửa
Đốt đôi vai cháy hồng.
Tôi đã đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng.
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.
Tôi đã gặp
Những đứa em còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm thòm thèm độn cám với rau
Mới tháng ba đã ngong mong đến Tết
Để được ăn cơm no có thịt
Một bữa một ngày…
Tôi đã đi
Giữa Hà Nội những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Tôi đã gặp
Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con.
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của quần chúng anh hùng lao động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống
Để xây dựng kiến thiết nước nhà
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta.
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ xanh đỏ sáng loà
Như trang giấy kim
Dán lên quân trang
Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách mạng
Như công nhân
Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi!
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem.
Đài xem lễ [1] họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở.
Mười một triệu đồng dầm mưa dãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Những con chó sói lãng phí quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áo.
Những tên quan liêu Đảng đã phê bình trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gày
Khắp mặt đất
Như ruồi nhặng
Ở đâu cũng có!
Đảng muốn phê bình tất cả
Phải một nghìn số báo Nhân dân!
Tôi đã đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu
Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít
Những người này không bao giờ họ biết
Ở làng quê con cái nhân dân ta
Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ!
Tôi đã đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gày như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái
Còng lưng, rỏ máu lấn vành đai!
Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
– Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong.
Tôi gài bãy chăng lưới khắp mọi tâm hồn.
Xông khói ớt quạt lùa vào hang hốc.
Lưới bẫy của tôi chẳng tốn tơ tốn sắt.
(Dành công nhân dệt lụa dựng cầu)
Khói của tôi chẳng tốn ớt tốn rơm
Tất cả là thơ ca
Tôi rút từ tủy xương
Hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng.
Thơ đề trên nỏ
Mười tám tuổi
Tôi phá thập tự làm nỏ
Năm muơi tuổi
Tôi đẽo nỏ làm thập tự.
Thơ tặng Nguyễn Đức
(Nhân bạn cũ đến nhà mượn sách “Những ngày đen tối” của Nguyên Hồng)
Cuộc đời tươi sáng lắm
Xem “đen tối” làm gì?
Nếm hoài vị cay đắng
Ta ngọt ngào thiếu chi!
Niềm vui như hoa tươi
Nỗi buồn như rễ đắng
Hoa ngày một, ngày hai
Rễ đắng sống dai dẳng…
Giọt nào trong huyết quản
Cũng tràn vị đắng cay
Đầu đã pha tóc trắng
Ngọt ngào đâu dễ thay!
Âu cũng là số phận
Thế hệ Anh và Tôi
Lòng quá nhiều rễ đắng
Mà rất ít hoa tươi!…
Thơ viết cho con gái chưa đầy tuổi tôi
Con không là hoa
Mà con thơm ngát
Con không là ngọc
Mà con trắng trong
Con không là sông
Mà con dào dạt
Con không là nắng
Mà con ấm áp
Con không là trời
Mà con xanh ngát
Con không là thơ
Mà cha muốn hát
Nghìn bài về con.
Thơ vĩnh biệt mẹ
Con biết Mẹ con yêu thơ lắm
Nuốt nỗi đau thương lệ ứa tràn
Con viết bài thơ con liệm Mẹ
Tiễn Mẹ đi về Cõi-vĩnh hằng.
Bài thơ mừng Mẹ tám mươi tuổi
Con mới viết hồi giữa tháng năm
Nghe thơ, Mẹ cười mắt rướm lệ
Mẹ yêu thơ thăm thẳm đáy lòng!
Thế gian biết bao người đã chết
Nhưng chết như Mẹ thật hiếm vô cùng
Tươi tỉnh, tinh tường đến phút chót
Và ra đi nhẹ như cánh hồng.
Mẹ nằm đó nhẹ như cánh hồng
Và cũng nặng như núi Thái Sơn
Ai cân nổi gian truân đời Mẹ
Gánh trên vai gầy tám mươi năm.
Mẹ chết mảnh mai như nhành liễu
Mẹ sống như đại thụ trăm năm
Bóng cây Mẹ xanh rờn hào hiệp
Che mát trọn đời chắt, cháu, con.
Xóm giềng, họ mạc, người thân sơ
Mẹ yêu thương đằm thắm thiết tha
Gặp khốn khó, Mẹ cưu mang không tiếc
Mẹ sẵn lòng chia cả thịt da.
Bảy mươi tuổi, Mẹ vẫn ham việc nước
Việc phố phường, đoàn thể chân vẫn son
Sức nhận được, việc gì cũng nhận
Mẹ đảm đương với tất cả tấm lòng.
Mẹ nằm đó vô cùng yên tĩnh
Như mặt nước hồ trong như đỉnh núi trong sương
Mẹ đã sống trọn đời đức hạnh
Nên phút ra đi thanh thản vô cùng.
Vĩnh biệt Mẹ, chúng con nhìn kỹ Mẹ
Lòng xé đau mà kinh ngạc vô cùng
Mảnh mai thế mà suối nguồn nghị lực
Vẫn tràn đầy cho đến phút lâm chung.
Mẹ cho chúng con hình hài máu thịt
Cho tâm hồn, cho cuộc sống sạch trong
Với chúng con, Mẹ là báu vật
Không có gì sánh được ở thế gian.
Mẹ ơi! Bà ơi! Cụ nội, ngoại ơi
Con cháu chắt, xóm giềng bè bạn
Phút vĩnh biệt xé lòng gọi Mẹ
Mẹ ơi, Mẹ có nghe thấy không?
Nắp ván nghìn đời đã đóng lại
Thôi từ đây, Mẹ mãi mãi vắng nhà!
Mẹ yêu thơ, con viết thơ dâng Mẹ
Như chính cuộc đời Mẹ mới là Thơ!
Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo
Bóng đêm trùm Côn Đảo
Sóng bể réo ầm ầm.
Gió hun hút đồi thông,
Trại giam nằm như chết.
Trập trùng lưới dây thép,
Trăng in bóng tháp canh.
Côn Đảo bỗng rùng mình.
Ai cất lên tiếng hát?
Tiếng hát ngân cao vút.
Bay bổng giữa trời đêm.
Tiếng hát của chúng mình:
…Cờ pha máu chiến thắng…!
Trại giam đang yên lặng.
Tù nhân ngồi cả lên.
Nín thở ho thật êm.
Nghe tiếng hát dội thấm qua vách đá.
Bóng một lá cờ đỏ
Chói lọi như mặt trời.
Theo tiếng hát chơi vơi.
Mọc lên giữa địa ngục.
Tiếng người nào đang hát?
– Một đồng chí của ta.
Giặc đem đến hôm qua.
Giam ở ngục đá xám,
Đợi ngày mai đem bắn.
Đảo càng khuya càng vắng,
Tiếng hát càng ngân cao.
Anh em khóc nghẹn ngào:
– Hát một đêm cuối cùng để mai chết.
Đồng chí ơi còn bài gì hát tiếp,
Hai ngàn chúng tôi thức suốt cả đêm nay!
Hàng ngàn bộ xương gầy,
Rít lên trong bóng tối.
Những người bị xiềng trói
Cựa mình xích kêu vang.
Muốn vùng dậy bẻ tan
Chạy đến người đang hát
Tên lính Phi đứng gác
Trước cửa ngục tử hình
Nghe tiếng hát lặng thinh,
Chống cằm lên mũi súng.
Người tù sắp xử bắn,
Vẫn hát mắt mở to.
Trong bóng tối sáng loà
Hai vì sao Bắc đẩu.
Người đang hát: chị Sáu,
Một cô gái miền Nam.
Năm nay mười bảy tuổi tròn
Hiền như bông lúa chín thơm giữa đồng.
Đêm hôm nay xích sắt cùm hai chân.
Ngồi trên đá như ngồi trên đống tuyết
Ngồi suốt đêm nay đợi ngày mai giặc giết,
Tóc chưa chấm vai, đời đẹp tựa trăng lên.
Nhưng mắt Sáu vẫn long lanh,
Vẫn thấy như mình sống giữa tự do.
Trên đường vào đảo hôm qua
Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven rừng
Cài lên mái tóc rối tung,
Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê.
Bọn lính giặc như mê.
Trợn mắt nhìn cô gái,
Sắp chết mặt vẫn tươi roi rói,
Môi không tắt nụ cười:
– Trên cành chim hót chim ơi,
Ta làm cách mạng ta vui đến cùng,
Ngày mai chim đến mà ăn
Nhà tù Côn Đảo thành đồng lúa thơm.
Chim tìm bông lúa ngát hương,
Đặt lên nấm mộ đất vàng cho ta.
Nghe tiếng hát thiết tha
Của người tù sắp chết,
Tên chúa đảo quen ăn gan uống huyết,
Chiều hôm qua phải sởn ốc rùng mình.
Đêm hôm nay giữa lao tối vắng tanh,
Sáu hát mãi, căm thù chan chứa.
Hát bao nhiêu bài không nhớ nữa
Tiếng hát gợi lên những chuỗi ngày:
Sáu còn bé bỏng thơ ngây,
Một sớm nắng đẹp cờ bay đỏ làng.
Từ đó Sáu được đến trường,
Đêm thu trăng đẹp hát vang sân đình.
Rồi Tây đánh chiếm làng mình
Giếng trong đỏ máu, ruộng xanh cháy vàng,
Một đêm Sáu nằn nì xin me:
– Cho con làm liên lạc Công an.
Năm ấy mười bốn tuổi,
Mật thám chăng đầy lưới
Giữa thành phố Sài Gòn
Treo cờ đỏ sao vàng,
Giết Tây bằng lựu đạn
Ban ngày trong khách sạn
Tan xác bốn quan ba.
Lần cuối cùng sa cơ,
Sáu lọt vào tay giặc,
Đời trắng trong xanh ngắt,
Mới mười sáu tuổi đầu.
Chịu bao nhiêu thương đau.
Lê dương thay nhau hiếp,
Kìm gắp từng miếng thịt.
Cắt vú, đốt cửa mình.
Nghiến răng chịu nhục hình,
Sáu nhổ vào mặt chúng:
– Chúng tao làm cách mạng,
Không sợ chết sợ đau.
Thù chúng mày giết tao,
Đồng chí tao sẽ trả.
Ra toàn án áo đỏ
Chúng kết án tử hình,
Mắt Sáu vẫn long lanh
Thản nhiên nghe tuyên án
Có gan ném lựu đạn
Giết Tây giữa Sài Gòn,
Có gan đứng hiên ngang
Trưóc những giờ phút cuối.
Nhưng Sáu chưa đủ tuổi.
Chúng không thể giết càn.
Cắn răng nuốt bồ hòn,
Giam thêm hai năm nữa.
Sáu nghĩ: còn hơi thở,
Còn phục vụ nhân dân,
Mình còn sống hai năm,
Không thể xa cách mạng.
Giặc đẩy Sáu vào khám
Những tù nhân tử hình
Sống ở đây đinh ninh
Đếm từng ngày đợi chết.
Yêu Tổ quốc tha thiết,
Yêu Bác, yêu nhân dân.
Sáu không thể ngồi không,
Đợi ngày đưa đi bắn,
Ở đâu cũng có Đảng,
Ngay giữa tim kẻ thù,
Chi bộ của nhà tù,
Sáu được làm liên lạc.
Ngày nấu cơm đun nước,
Đem đến cho anh em,
Những người bị xiềng gông.
Cho đến giờ phút cuối.
Những đồng chí hấp hối,
Quằn quại kiết, ho lao,
Ngày hai buổi Sáu vào,
Nắm tay từng đồng chí,
Chuyền hơi ấm Đoàn thể,
Cho trái tim sắp ngừng,
Chuyền sức mạnh tinh thần
Cho những người, giặc sắp đưa đi bắn.
Một buổi trưa chúng vào khám
Bắt gặp Sáu đưa tin,
Chúng lồng lộn như điên,
Thét lên: Con khốn nạn,
Mày dám làm cách mạng
Đến chết vẫn không thôi!
Sáu bình thản mỉm cười:
– Lời chúng bay rất đúng!
Sáu chưa đến mười tám,
Chúng không dám để lâu,
Lén lút bỏ xuống tầu,
Đưa Sáu ra Côn Đảo
Hôm qua chúng nó bảo:
– Ngày mai sẽ giết mày.
Sáu kiêu hãnh khoanh tay:
– Ngày mai tao sẽ chết
Ngày ấy đã đến rồi!
Đêm nay qua gần hết.
Xa xa vọng vào tai
Tiếng chim rừng chiêm chiếp
Ánh sáng hiện lờ mờ,
Lọt vào ngục đá xám.
Ánh sáng báo đến giờ
Quân thù đưa đi bắn.
Sáu lấy đôi hoa tai
Của phụ nữ Nam Bộ
Tặng Sáu hôm xác Tây gục đổ
Giữa thành phố Sài Gòn,
Đeo vào vành tai nhỏ thon thon.
Tình đoàn thể dạt dào thấm thía.
Sáu vẫn hồn nhiên như đứa trẻ,
Nghiêng nghiêng đầu vuốt mái tóc rối tung.
Sáu nhớ lời mẹ bảo:
– Bao giờ tóc con chấm ngang lưng,
Mẹ mua cho chiếc khăn màu hoa thiên lý.
– Thôi mẹ đừng mua nữa!
Tóc con sẽ không bao giờ dài.
Còn mười lăm phút nữa thôi,
Tim con sẽ ngừng đập!
Tóc con, giặc nó sẽ chôn xuống đất.
Nó muốn chôn hết những gì mẹ quý mẹ thương.
Nhưng mẹ ơi đừng buồn!
Mẹ mất một mái tóc con,
Cho muôn mái tóc xanh hơn thế này.
Tóc con mục nát ở đây,
Tóc em con đẹp gió bay đến trường.
Ngoài đường xe rú vang,
Rít phanh cửa lao mở,
Sáu bước ra giữa hai hàng thú dữ.
Lên xe bình thản ngồi.
Nghe tiếng rú xe hơi
Ngàn người, hàng ngàn người
Đứng lên, đứng lên hết,
Đứng lên trong tiếng hát:
Bao chiến sĩ anh hùng…
Tiếng hát muốn lật tung
Tường đá xây song sắt.
Tiếng hát hoà nước mắt,
Đầm đìa như máu tươi.
Căm thù sùng sục sôi,
Tay chân cuồn cuộn máu
Chúng nó giết chị Sáu,
Người chị của chúng ta!
Trên địa ngục tha ma
Thêm nấm mồ đồng chí.
Chúng ta thương xót chị.
Căm thù quân dã man,
Cương quyết không đi làm.
Ngày hôm nay tuyệt thực!
– Đả đảo bọn đế quốc!
– Đả đảo quân giết người!
Trái đất còn mặt trời,
Lửa thù này chưa tắt.
Hai ngàn người cúi đầu răng nghiến chặt,
Tiễn biệt người đồng chí anh hùng.
Xa xa dưới đồi thông,
Nắng lấp lánh đầu lưỡi lê rờn rợn.
Sáu xuống xe đi giữa hai hàng súng,
Tiến thẳng ra đứng giữa hiên ngang,
Mắt sáng át lưỡi lê và thép súng.
Tên chúa đảo bắt đồng bào từ sớm,
Đến tập trung vây kín cả hai bên:
– Xem quan lớn hành hình Việt Minh,
Để chúng mày làm gương răn đe kẻ khác.
Đồng bào bưng mặt khóc,
Như xé ruột cắt lòng.
Trên trời dưới biển mênh mông
Xa Bác, xa Đảng, nhân dân đồng bào.
Thương chị nhưng biết làm sao,
Hai tay không súng không dao nhìn trời!
Sắp đến giờ bắn rồi,
Chúng nó hỏi:
– Muốn gì trước khi chết?
Sáu nhìn đồng bào mến yêu tha thiết.
– Muốn nói với đồng bào
Cắn răng nuốt nghẹn ngào,
Nói từng lời rắn rỏi:
– Chúng nó giết tôi năm nay mười bảy tuổi,
Nghĩ đến Tổ quốc tôi không sợ kẻ thù.
Nhất định có ngày bộ đội của Bác Hồ,
Sẽ đến cứu chúng ta khỏi lao tù ngục tối
Cha đạo đến đọc kinh rửa tội
Cho ngày mai con được lên Thiên đàng.
Sáu gạt đi bảo rằng
– Tôi không làm gì có tội
Và chỉ bọn giặc xung quanh như hổ đói,
Chính lũ kia mới có tội tày trời,
Ăn xương, hút tuỷ, uống máu người,
Máu chúng tôi ngập cầu Ma Thiên Lãnh
Xác chúng tôi chất đầy lao đá lạnh,
Xương nối nhau phơi trắng rợn đồi thông.
Chính chúng nó, tội ác mới vô cùng,
Chúng nó chết đời đời ở địa nguc!
Lũ giặc thét: Bịt mắt!
Bắn chết nó đi thôi!
Đồng bào có người ngất,
Rú lên: Trời đất ơi!
Sáu dõng dạc: Tao không cần bịt mắt!
Tên chúa đảo xồ đến giật mái tóc,
Phủ trùm lên đôi mắt lóng lánh đen.
Sáu hất đầu tóc loã xoã bay lên,
Và giận dữ quát vào mặt chúng nó:
– Bắn tao di! Tao không bao giờ sợ.
Tao mở mắt to để nhìn luồng đạn chúng mày
Bắn tao đi! Mắt tao, ngực tao đây!
Bọn giặc rùng mình run tay súng.
Bốn phát chị vẫn sống.
Hai mắt vẫn mở to
Áo đỏ như mầu cờ,
Máu tuôn thành từng suói
Hai mắt vẫn sáng chói,
Nhìn cháy thịt kẻ thù.
Tiếng hô Đảng! Bác Hồ!
Gió bể mang về đất liền Tổ quốc.
Tám phát chị mới gục,
Đầu nghiêng như ngủ say.
Mái tóc gió bay bay,
Xanh rờn mười bảy tuổi…
Tím
Anh đứng sững giữa vườn hoa tím cũ
Anh bỗng thấy tím đến tận cùng nỗi tím nhớ em
Gốc hoa tím em cắt vẫn tím nguyên
Nhoi nhói lòng anh tím kỷ niệm
Hai vai áo anh ướt đầm mưa bụi tím
Tóc anh lùa gió tím hoàng hôn
Con én tím hồ Tây chao sóng tím
Lòng anh tím cô đơn
Nghĩ đến em, anh cồn cào nhức nhối tím
Thôi hết rồi, yên tĩnh tím xưa…
Có phải em hiện ra từ một giấc mơ tím
Tím hồn anh và tím cả thơ…
Hay em hiện ra từ một nhành hoa vi-ô-lét
Mà mắt em thăm thẳm tím hoang đường
Cổ tích dắt trẻ thơ vào đêm huyền thoại tím
Em dắt anh vào một biển tím sương
Cổ nghẹn đau nỗi tím bơ vơ
Anh gọi thầm tên em dưới một trời sao tím
Mắt bỗng ướt nhoà lệ tím đẫm môi thơ.
Tôi dịch Ét-xê-nhin
Cả triệu người và nửa thế kỷ qua
Trong đó có Mai-a
Đều tin
Ét-xê-nhin tự sát vì tuyệt vọng
Nhưng tôi không tin
Tôi biết
Vì sao Ét-xê-nhin tự giết…
Khi anh thấy thơ không còn đủ sức mạnh
Để tiêu diệt cái cũ
Anh phải lấy máu anh, hồn anh, và thân xác thiên tài của anh
Đúc chiếc chuông-thơ-cảnh-tỉnh
Và tự anh gióng lên hồi chuông
“Ở cuộc đời này chết chẳng có gì mới
Nhưng sống cũng chẳng có gì mới hơn”
Tôi là người am tường ngoại ngữ: Chuông
Tiếng chuông cảnh tỉnh Ét-xê-nhin
Tôi xin dịch nghĩa:
“Sống là phải mới không ngừng
Nếu không
Cả thơ và Đất nước sẽ đứng trên bờ vực chết!”
Trầm
Thoạt nhìn tưởng củi mục
Cháy lên mới thấy thơm
Kiếp trước trầm đích thực
Anh hùng và thi nhân
Trên đây, Thuvientho.com đã tiếp nối bài viết trước Phùng Quán Cùng Những Bài Thơ Thắm Đượm Tình Cảm Phần 1 bằng những bài thơ ngọt ngào và đầy lãng mạn của người thi sĩ. Những bài thơ chính là tình cảm, nỗi niềm của nhà thơ gửi gắm đến những đồng chí vệ quốc quân của mình. Hy vọng các bạn sẽ yêu thích những bài thơ và bài viết này của chúng tôi. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này!
Theo Thuvientho.com