Home / Chùm thơ chọn lọc / Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Tập thơ: Đường Giải Phóng (1977) – Bảo Định Giang (Tiếp)

Xem đầy đủ: Nhà Thơ Bảo Định Giang Và Sự Nghiệp Thơ Ca Của Ông

Mùa chiến công

(Tặng đoàn ca múa nhân dân giải phóng)

Vui chi chim nhỏ của ta

Gió mưa chưa tạnh, bay ca khắp rừng?

Phải chăng chim được tin mừng

Quân ta thắng lớn

Không ngừng hò reo?

Hẹn ngày mai nhé chim yêu

Nắng lên… ta sẽ bay theo quân mình.

Ta về vui với kinh xanh

Vui đồng lúa chín đi giành mùa xuân.

Chim nghe sung sướng khôn cùng

Cất cao giọng hát

Cây rừng xôn xao…!

Chiến khu Nam Bộ, 9-1970

Mùa ô môi

Tiếng gà gáy rộn trong thôn

Lần nương theo lối đường mòn tôi đi…

Dặm dài chân mỏi sá chi

Miễn sao hội nghị kịp kỳ ngày mai

Qua năm cầu khỉ lắt lay

Qua hai đồng cỏ sình lầy ngập chân

Giấy tờ tuy gọn trong khăn

Cầu tre lắt lẻo có lần tưởng rơi

Nghe chừng bụng đói đến nơi

Đồng không… chẳng thấy bóng người, cứ đi…

Mặt trời đỏ ối… Ơ kìa!

Ô môi nở rộ kịp thi màu hồng.

Ngày xuân nhớ Người

Ngô đồng đã trổ đỏ làng

Đàn cu cũng đã gáy vang đầu bờ

Tết về ta nhớ Bác Hồ

Tuổi chồng lên tuổi, Người chưa hẳn già!

Một năm rồi một năm qua

Người thêm khoẻ mạnh là ta vui mừng

Bao giờ Đọc lập, ngày xuân

Ta đi ta nấu bánh chưng dâng Người.

Bây giờ Người ở xa xôi

Bánh chưa gửi được, mượn lời kính thăm.

Quay đầu về Bác đăm đăm

Những mong những ước: muôn năm Bác Hồ!

Nguyễn Chí Thanh

Theo bước chân anh khắp nẻo đường

Tìm Anh. Đi vắng! Sáng tinh sương

Nghe mùi thuốc súng đêm còn đọng

Thoáng bóng Anh đi… giữa chiến trường!

Dốc núi cao cao: Nguyễn Chí Thanh!

Biết bao thử thách ở quanh mình

Nặng tình quê mẹ chân không mỏi

Mỗi bước đường thêm thương nhớ Anh.

Anh mất thật ư? Chẳng lẽ nào!

Tìm Anh. Đi mãi…

biết Anh đâu?

– Đoàn quân bách thắng xông lên đó

Anh đó muôn nghìn mũ đính sao.

Vàm Cỏ Đông, 8-1970

Nhạc của lòng ta

Đêm xuống võng treo nghe thấm lạnh

Trời trăng, rừng núi phủ đầy sương

“Sắp qua cầu” giọng ai lanh lảnh

Ôi! Điệu chèo sao rất dễ thương!

Sương mù sáng sớm giăng đầu núi

Lững thững mây bay: dải lụa là

Im lặng

Bốn bề không tiếng động

Mà trong im lặng có lời ca.

Đảng đã cho ta bao sức sống

Giục ta đi trọn đoạn đường dài

Ta đi, rừng núi giang tay đón

Nhạc đất trời đẹp quá, sáng nay.

Điệu chèo quen thuộc ở quê cha

Cùng với người đi đánh giặc xa

Yêu nhạc chèo như yêu đất nước

Miền Nam khúc ruột của lòng ta!

Sông Cửu Long ơi, hẹn lấy ngày

Trời kia trong lại, đất xanh cây

Đêm đêm dạo khúc đàn xưa ấy

“Vọng cổ” không còn chất đắng cay!

Trên Trường Sơn, 13-11-1970, gặp một đơn vị ở Hà Bắc hành quân vào Nam

Nhìn về quê ngoại

(Trích)

Ta nhớ đâu như chốn này

Hang rào râm bụt, rặng ô môi

Vườn thơm nhãn chín, xoài sai quả

Mưa nắng hai mùa một sắc mây.

Ba chục năm tròn xa vắng quê

Những chiều tắt nắng, mỗi canh khuya

Nghe như có tiếng chèo khua mái

Từ một dòng sông thuyền đổ về.

Rạch Gầm căm giận sôi dòng nước

Dim sạch quân Xiêm tận đáy sông

Vó ngựa Trường Sơn không ngại bước

Bần gie đóm đậu sáng ngời công.

Nền Tháp rêu phong lớp lớp dày

Dấu xưa còn đó rạng tên ai

Cháu con theo dấu cha ông trước

Làng Đốc Binh Kiều hạ máy bay.

Ba lượt tù đày không nhụt chí

Xanh dòng Bảo Định nước thêm trong

Ngàn năm vọng mãi lời non nước:

“Đây gánh cang thường chẳng phải gông”.

Quan làng cóc rác có ra chi

NHớ chuyện mâm xôi mấy chữ đề:

“Thằng Lạc”

– ở đời danh có thế

Đắng cay còn đọng mấy vần thi.

Cầu Vĩ con sông nhỏ của ta

Hàng me che mát khách phương xa

Bôn ba chưa tiện ngồi câu cá

Tâm sự thâu canh chuyện nước nhà.

Nước mắt nhà tan phận hẩm hiu

Nỗi lo đi trước nỗi buồn theo

Xót xa đâu chỉ Đời cô Lựu

Hạnh phúc không đi với kiếp nghèo.

Chùa Vĩnh Chàng đêm rộn mõ chuông

Nhưng đời không vợi nỗi đau thương

Xóm nghèo thợ guốc chân không guốc

Áo rách phơi lưng giữa phố phường.

Dẫu chẳng thành công chịu đứt đầu

Thịt xương thà lấp hố bom sâu

Ngươn Long, chợ Giữa giương cờ đỏ

Khắp xứ vùng lên ta gọi nhau.

Day dứt ai hay chuyện chị Mười

Con trai còn đỏ hỏn trên nôi

Bỏ đi, sương gió se lòng mẹ

Con lớn lên sẽ hiểu nghĩa đời.

Tháng Tám mùa thu vui vận mới

Hai bờ Bảo Định rực cờ son

Đất liền thầm nặng ơn Côn Đảo

Thuyền nối thuyền mừng đón Bác Tôn.

Chào thủ khoa Huân! Chào tỉnh nhà!

Thu xưa gió thảm nay lời ca

Sông Tho pha máu nay xanh biếc

Đồ Chiểu hai bờ sông nhấp nhô.

Giải phóng vui chưa được mấy ngày

Thị thành giẫm nát dấu giầy Tây

Bưng biền theo bước chân anh Tiếp

Gió nội sen đồng hương toả bay.

Như dải kinh xanh chảy thẳng dòng

Như Đồng Tháp rộng trải mênh mông

Nuôi con từng bữa thương tình Mẹ

Nghĩa trả ơn đền nguyện lập công…

Hà Nội, 1-3-1975

Nhớ Nam Bộ

I – Miền Đông

Nhớ chiều khu xưa cực kéo dài

Bốn mùa trời dãi lấtù bay

Lâu lâu thèm thịt đào con cúi

Bụng đói đi moi mớ củ mài.

Đánh Pháp vừa xong ai ngỡ đâu

Lửa bom Mỹ -Diệm dội lên đầu

Suối xưa lại uống, rừng xưa ở

Kháng chiến lần này lại gặp nhau

II – Miền Trung (Đồng Tháp Mười)

Đồng ruộng như lòng của mẹ tôi

Yêu con đùm bọc khắp trăm người

Nhưng lòng quyết chẳng dung tha giặc

Những đưa con hoang dại giống nòi.

Xem thêm:  Biệt ly êm ái - Xuân Diệu

Trong vắt gương soi: ao nước phèn

Khắp vùng vẫn toả ngát hương sen

Cảnh xưa dấu đẹp chờ người cũ

Thương nhớ nhau hoài đêm lại đêm!

III – Miền Tây

Rễ được xoè ra: triệu ngón tay

Bám vào lòng đất, đố ai lay!

Đọt dừa nước nhọn: nghìn gươm sắc

Thách lũ giặc trời bay xuống!

Nghe rõ từng hồi nước Cửu Long

Sóng dâng muôn đợt, sóng trong lòng

Bóng đêm sắp tắt cờ lên đỏ

Trời của quê ta đã ửng hồng!

Hà Nội, những ngày tháng 7 -1960

Những trang sách quý

Hỡi các em gái và trai Ba Lan đi viếng nghĩa địa Pan-mi-ry hôm nay!

Các em ơi! những người nằm đó là ai?

Ân nhân của riêng các em chăng?

– Không! Của các anh đó!

Các em hãy trông này:

Những tấm bia của từng ngôi mộ không ghi tháng ngày

Trong không gian và thời gian vô tận

Họ sống muôn đời;

Rừng thông lớn như thổi, từng lúc reo lên như tiếng họ hát

Mặt trời mọc sớm nay sáng sủa như mặt họ cười.

Họ là Lương tâm và Danh dự của loài người.

Họ- hàng nghìn người – mang một tên chung rất đẹp: Ba Lan

An là người miền Nam Việt Nam

Quê anh chín năm gian khổ đuổi giặc Pháp

Giặc Pháp cút

Mỹ Diệm – bọn giặc mới –

Giết người thân thuộc của anh rất rã man.

Miền Nam – nơi chôn rau cắt rốn của anh –

Hàng triệu người đang đứng dậy

Mẹ già tóc bạc phơ cũng cầm gậy ném vào đầu thù.

Tất cả không hề sợ rơi đấu

Không hề sợ tội tù

Chỉ sợ mất Tự do

Các em ơi!

Những người đang yên nghỉ nơi này trước giờ gục ngã

Họ không đòi hỏi gì cho bản thân họ cả

Họ chỉ nhắn nhủ mọi người:

“Nói đến Tổ quốc Ba Lan dễ

làm việc được cho nó rất khó

dám chết cho nói càng khó

Nhưng khó hơn cả là sự kiên nhẫn”

Em gái và em trai nhỏ Ba Lan

Có mái tóc mượt mà rất đẹp của anh ơi!

Ở trường chắc các em có nhiều sách đọc

Nhưng ở mỗi cái bia này xin em hãy học

Ý nghĩa của từng lời

Để chuẩn bị vào đời.

Nghĩa địa Pan-mi-ry:

trường học lớn!

Từng cái bia ở Pan-mi-ry:

những trang sách quý

mở ra giữa đời

Hãy học mãi em ơi!

Vác-sa-va, 4-1962

Phơi phới

Đi nhanh vã cả mồ hôi

Trời trưa nắng gắt ta ngồi xuống đây

Bờ ao dưới gốc trâm này

Bạn ơi cơm gói hãy bày ra ăn

Mệt rồi bạn có nghie chân

Rơm kia là chiếu là chăn của mình!

Mênh mông mây trắng đồng xanh

Trong mơ… nghe dậy bao tình quê hương!

Cầu Kè (Trà Vinh), hè 1947

Qua một bãi bom B52

Dẫu có xác xơ những lá cành

Chồi non còn sức vọt lên nhanh

Quê ta giặc Mỹ không thiêu nổi

Sánh bước ta đi

(Tặng P.)

Nhìn tôi em bỗng gọi: “Ba ơi!”

Tôi nào dám nhận, bởi em tôi

Tuổi đời tuy chửa đầy mười tám

Mà chí diệt thù đáng mấy mươi!

Dẫu mái tóc anh đã đổi màu

CHúng mình đâu có khác chi nhau,

Tim em thường đập anh nghe rõ

Lửa đỏ lòng anh em biết đâu!

Lớn nhỏ, hơn thua mấy tuổi đời

Phải đâu là thước để đo người

Tuổi nào chẳng lớn trong lòng Đảng

Chẳng lại con chung của giống nòi!

Bài học căm thù của chính em

Dạy anh từ ấy… thấy sâu thêm:

Buồn thương một núi, đầu không cúi

Sống giữa đời bằng một quả tim!

Như lá rừng tràm lửa đã nhen

Mưa dầm, vẫn cháy mãi thâu đêm.

Như cây lúa xạ trên đồng nước

Ngập lụt ngang trời vẫn vượt lên!

Bên cạnh có em, anh vững lòng

Ta đi thực hiện giấc mơ chung

Con đường trước mặt dù gian khổ

Sánh bước ta đi… đến tận cùng!

Trường Sơn, tháng 9-1970

Sau ba mươi năm xa cách

Em gái! nơi đây là chốn nào

– Mỹ Tho!

Ừ nhỉ! thích nghe sao!

Biết rồi vẫn hỏi. Thương là thế

Mơn mởn vườn xưa những mận đào.

Ngã ba Trung Lương, sáng tháng 5-1975

Tải gạo tiếp tế miền Đông

Mạnh thì đầy thúng

Yếu cũng nửa thúng

Ai ơi! Đợi với tôi cùng

Miền Đông thiếu gạo ta ngồi không sao đành!

Đường xa ta phải đi nhanh

Mấy bưng cũng lội mấy gành cũng qua.

Bờ trơn ta chẳng nề hà

Bàn chân bám chặt khó sa xuống bờ

Trời mưa mặc kệ trời mưa

Gạo ta đậy kín bao giờ ngại hư.

Đồn Tây trên lộ sờ sờ

Chim chìa-vôi báo canh tư qua rồi.

Ráng lên một chút ai ơi!

Kẻo để sáng trời ta liệu tính sao?

Thằng Tây mày ác đến đâu

Không làm đói được đồng bào của ta

Quyết tâm đánh đuổi Tây tà

Dẫu cho phải cực bằng ba, bằng mười.

Đức Hoả Thành, 1950

Tết tôi

Tết tôi không rượu không chè

Không hoa thắm nở quanh hè ngát hương

Không câu đối đỏ đầu tường

Cũng mặc xác pháo bên đường gió bay.

Tết tôi nội cỏ rừng cây

Đơn sơ cuộc sống những ngày chiến khu

Nửa đêm làm lễ giao thừa

Tôi bồng tay súng chào đón xuân.

Cùng bao bè bạn quây quần

Say sưa kể chuyện những lầu xuân sang…

Tết tôi đến rất nhẹ nhàng

Với hương gió nội, với ngàn dâu xanh

Nương nhau mái ấm nhà tranh

Gia đình này có gia đình này hơn!

Xa tình thương có tình thương

Lời thơ ấp ủ muôn phương gởi về!

Tết tôi là hội ăn thề:

Dù nghìn gian khổ không hề thoái lui.

Quyết không để nhục giống nòi

Quyết không để thẹn muôn đời tổ tông!

Tết tôi là Tết Quang Trung

Gươm bay vun vút không dung giặc thù.

Uy nghiêm tiến dưới ngọn cờ

Chân đi rầm rập tung hô khải hoàn.

Tết tôi Tết vệ quốc đoàn

Chào mừng Xuân mới những tràng súng xa!

Xem thêm:  Chùm thơ lục bát về quê hương, lay động lòng người

Xuân 1947

Thời gian và không gian

Một hôm đứng trên đỉnh núi, buồn về nỗi cô độc của mình, nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Trần Tử Ngang, có làm một bài thơ tạm dịch như sau:

“Trước chẳng thấy người xưa

Sau chẳng thấy lớp trẻ

Ngẫm trời đất mịt mờ

Ngậm ngùi, riêng nhỏ lệ”

Buổi bế mạc Đại hội IV của Đảng, 250 thiếu nhi thay mặt Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh phấn khởi đến kính chào Đại hội. Tiếng trống, tiếng hát và tiếng vỗ tay đều của các em vang lên giữa Hội trường Đại hội, làm cho mọi người vừa xúc động, vừa phấn chấn, nhân đó có bài này, hoạ lại bài của Trần Tử Ngang.

Trước ta ngàn vạn anh hùng

Sau ta lớp lớp thần đồng tiến lên.

Nhân dân là biển mênh mông,

Ta trong biển ấy làm nên sóng thần.

Dẫu đời chưa sạch bụi trần,

Lung linh ngọc bích trong ngần Đảng ta!

Sáng lòng nên ấm giọng ca,

Nhịp đều tay nhỏ hoá ra sấm rền.

Hội trường Ba Đình, 20-12-1946

Thời gian và màu sắc

(Kính tặng các đồng chí nhiều tuổi Đảng)

Yêu những mái đầu trắng tơ bông

Cho đời đổi sắc: xám ra hồng

Hỡi em yêu, cổ quàng khăn đỏ

Mắt biếc nhìn trời có đẹp không?

Trước Hội trường Ba Đình, ngày khai mạc Đại hội Đảng lần thứ IV, 14-12-1976.

Thương má

Len lỏi qua đồn không ngại giặc

Tìm con, bánh tét bọc trong khăn

Bánh chưng miền Bắc giờ ngon quá

Thương má, làm sao gửi má ăn!

Vĩnh Linh, 1961

Tiếng đàn thần diệu

(Khi nhà báo Ma-Tê-Giưa, người Hung-ga-ri – từ Việt Nam về – viết trên báo (Nhân dân tự do) em về Võ Ngọc Liên, một nữ học sinh miền Nam học ở Hải Phòng có khiếu kéo đàn vĩ cầm, nhưng em chưa có đàn để tập dượt, nhiều nơi trên đất nước Hung–ga-ri đã gửi đến đại sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hoà những chiếc đàn vĩ cầm để nhờ chuyển tặng em Võ Ngọc Liên)

Từ xứ lạnh đi về hướng xứ nóng

Đàn thương ai đàn cũng về đây

Áp vào má, siết vào tay

Tình sông Đa-núp dâng đầy Cửu Long.

Ở trong đó nghe không hở mẹ?

Nỗi nhớ thương vò xé đêm sâu!

Lửa thù bốc cháy càng cao

Nóng lòng khoé mắt, bỏng đầu ngón tay!

Đêm dù tối ngày mai lại sáng

Đàn lên em: năm tháng trùng phùng!

Về Nam đàn sẽ về cùng

Em đàn em hát ấm lòng từ đây!

Bu-đa-pet, tháng 4-1962

Tình Tháp Mười

Ai ơi! Có nhớ Tháp Mười

Về đây tìm lại dấu người xưa, xa…

Sen đồng nay đã nở hoa

Mùi hương đằm thắm cho ta nhớ mình

Hây hây nắng xế dịu lành

Rặng tràm ngả bóng bờ kênh so hàng

Tình thương đất nước mênh mang

Hồn vui như nắng trải vàng ruộng xanh

Nước phèn trong vắt thủy tinh

Bưng sâu thấy đáy tâm tình nông dân

Gái trai lưu luyến mùa trăng

Câu hò thêm đậm tinh thần nước non

Trăm cay nghìn đắng khôn sờn

Lòng người sau trước sắt son một lòng

Bâng khuâng ai có thấu cùng

Còn đây mà lại tưởng chừng sắp xa

Ngày mai Tổ quốc reo ca

Bờ kênh ruộng lúa có ta bên mình.

Truyền thêm sức

(Khi nghe tin hàng triệu đồng bào Sài Gòn xuống đường)

Rừng suối nào đây ran tiếng ve?

Nhớ sao kháng chiến giữa trưa hè

Anh nuôi không ngủ thương đồng chí

Lặng lẽ luồn rừng đi hái le

Phượng đỏ đầy sân thêm nhớ ai

Đường làng Cao Lãnh thắm ô môi

Hành quân qua cổng ai ra đón

Mía ngọt trao tay, mặn nụ cười!

Muôn triệu đồng bào chân nối chân

Sài Gòn đứng dậy sức nào ngăn!

Miền Nam quê mẹ truyền thêm sức

Mũi thuốc chưa tiêm đã khoẻ dần!

Bệnh viện Việt – Xô, hè 1963

Tứ tranh

(Tặng hoạ sĩ Lê Vinh)

Hết giấy, hết màu không cạn từ

Mồ hôi nhỏ giọt giữa đêm dài

Sáu mươi cây số, mười cân ruốc

Vẽ được thức ăn, thế mới tài!Căn cứ Dương Minh Châu, Tây Ninh, 1951

Vui Tết

Mồng một, mấy lần bom giặc dội

Rượu đưa, Ba bảo: (Uống đi bay!

Giặc điên giặc nó, mình vui tết)

Tan trận bom rồi, mặt đỏ gay.

Xã Tân Hoá, Đồng Tháp Mười, Tết 1949

III. Tập thơ dịch từ của các tác giả khác

Dịch của tác giác Bùi Hữu Nghĩa:

Tự thuật kỳ 1 自述其

自述其一

鬚眉推我老,

肝腑向誰陳。

望治同春日,

端居賴北辰。

昏霾風幾度,

澎湃雨經旬。

世路泥塗甚,

狂歌且飲頻。

Tự thuật kỳ 1

Tu mi thôi ngã lão,

Can phủ hướng thuỳ trần?

Vọng trị đồng xuân nhật,

Đoan cư lại Bắc thần.

Hôn mai phong kỷ độ,

Bành bái vũ kinh tuần.

Thế lộ nê đồ thậm,

Cuồng ca thả ẩm tần.

Dịch nghĩa

Râu tóc bạc thêm như thúc giục ta già nhanh,

Gan ruột biết bày tỏ cùng ai?

Ước mong được cảnh thái bình mọi người cùng hưởng xuân,

Và nơi ta ở có sao Bắc Đẩu soi tới.

Đã mấy độ gió cuốn bụi mờ mịt,

Và mưa tuôn ròng rã, nghe tiếng vỗ của nước tràn

Đường thế sao lắm bùn lầy vậy,

Thôi cứ hát tràn và uống cho say.

Tự thuật kỳ 2 自述其二

自述其二

雨如天似漏,

潮漲水如奔。

世路泥塗甚,

園中草滿繁。

蚊雷喧枕墊,

蛙鼓鬧黃昏。

霜鬢傷遲暮,

消愁酒一樽。

Tự thuật kỳ 2

Vũ như thiên tự lậu,

Triều trướng thuỷ như bôn.

Thế lộ nê đồ thậm,

Viên trung thảo mãn phồn.

Văn lôi huyên chẩm điếm,

Oa cổ náo hoàng hôn.

Sương mấn thương trì mộ,

Tiêu sầu tửu nhất tôn.

Dịch nghĩa

Mưa tuôn dường như trời bị thủng,

Triều lên nước chảy xiết như chạy.

Đường thế sao lắm bùn lầy vậy?

Trong vườn cỏ mọc um tùm.

Muỗi kêu như sấm dậy bên gối nệm,

Tiếng ếch như tiếng trống náo động buổi hoàng hôn.

Thấy tóc sương mà thương đời ta tàn lụi,

Để tiêu sầu dùng một chén rượu.

Dịch của tác giả: Đỗ Phủ

Tự kinh thoán chí hỷ đạt hạnh tại sở kỳ 1 自京竄至喜達行在所其一

自京竄至喜達行在所其一

西憶岐陽信,

無人遂卻迴。

眼穿當落日,

心死著寒灰。

霧樹行相引,

蓮峰望忽開。

所親驚老瘦,

辛苦賊中來。

Tự kinh thoán chí hỷ đạt hạnh tại sở kỳ 1

Tây ức Kỳ Dương tín,

Vô nhân toại khước hồi.

Nhãn xuyên đương lạc nhật,

Tâm tử trước hàn hôi.

Vụ thụ hành tương dẫn,

Liên phong vọng hốt khai.

Sở thân kinh lão sấu,

Tân khổ tặc trung lai.

Xem thêm:  Tình rơi (Nguyễn Trọng Tạo) – Áng thơ tình hay đặc sắc một thời

Dịch nghĩa

Trông mong tin tức từ phía tây Phụng Tường ở phía nam núi Kỳ Sơn,

Mà chẳng có ai tới được.

Mắt cứ đăm đăm nhìn về nơi trời lặn (phía tây),

Lòng cay đắng như tro nguội.

Nhưng rồi qua rừng rậm liều đi,

Núi trập trùng từng dãy, dứt rồi nối.

Khi tới Phụng Tường, người quen biết kinh hãi vì thần sắc suy kém của mình,

Trải bao khó nhọc từ vùng giặc mà ra đi.

(Năm 757)

Bản dịch của Bảo Định Giang:

Tin tức Kỳ Dương ngóng

Người về nào thấy ai

Tro tàn lòng đã chết

Bóng xế mắt không rời

Theo khói cây lần bước

Chợt đồi núi mở đôi

Bạn kinh mình hốc hác

Vùng giặc đến đây rồi

Dịch của tác giả Hồ Huân Nghiệp:

Tuyệt mệnh thi 絕命詩

絕命詩

見義寧甘不勇為,

全憑忠孝作男兒。

此身生死何修後,

惟戀高堂白髮時。

Tuyệt mệnh thi

Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,

Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi.

Thử thân sinh tử hà tu hậu,

Duy luyến cao đường bạch phát thì.

Dịch nghĩa

Thấy việc nghĩa lẽ nào không dũng cảm ra làm

Phải giữ trọn điều trung hiếu để xứng đáng là đấng nam nhi

Thân này sống hay chết chẳng cần kể làm gì

Chỉ thương mẹ già, phất phơ tóc bạc

Bản dịch:

Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ

Làm trai trung hiếu quyết tôn thờ

Thân này sống chết khôn màng nhắc

Thương bấy mẹ già tóc bạc phơ

Dịch thơ của tác giả Nguyễn Thông:

Ba tiêu 芭蕉 – Cây Chuối

芭蕉

障戶遮窗欲礙行,

解相炎景變凄清。

最憐月下微風度,

滿樹蕭蕭作雨聲。

Ba tiêu

Chướng hộ già song dục ngại hành,

Giải tương viêm cảnh biến thê thanh.

Tối liên nguyệt hạ vi phong độ,

Mãn thụ tiêu tiêu tác vũ thanh.

Dịch nghĩa

Ngăn cửa ngoài che cửa sổ, làm trở ngại cho người đi

Nhưng biết đem cảnh nóng nực biến thành mát mẻ

Rất đáng yêu dưới bóng trăng, lúc có làn gió hây hây

Toàn cây rung động làm thành tiếng mưa lách tách

Bản dịch:

Che song, ngăn cửa gây phiền

Mát người những lúc trời lên oi nồng

Đáng yêu trước gió, trăng lồng

Tiếng kêu lách tách tưởng chừng nhỏ mưa

Đinh Mão tân tuế tác 丁卯新歲作 – Thơ làm nhân ngày Tết Đinh Mão

丁卯新歲作

一臥龍江渚,

年華五度春。

漸看兒女大,

斗覺鬢毛新。

官以遲藏拙,

身相儉補貧。

故鄉戎馬在,

骨肉正悲辛。

Đinh Mão tân tuế tác

Nhất ngoạ Long Giang chử,

Niên hoa ngũ độ xuân.

Tiệm khan nhi nữ đại,

Đấu giác mấn mao tân.

Quan dĩ trì tàng chuyết,

Thân tương kiệm bổ bần.

Cố hương nhung mã tại,

Cốt nhục chính bi tân.

Dịch nghĩa

Nằm ở bãi Long Giang

Đã trải qua năm năm rồi

Nhìn lại đoàn con trai con gái đã khôn lớn lên dần

Bỗng thấy mái tóc mình đã đổi sắc mới

Làm quan vì chậm thăng nên giấu được vụng về

Nhà nghèo giữ được tiết kiệm để đỡ túng thiếu

Ở làng cũ nay đương có giặc giã

Bà con cốt nhục đang chịu cảnh tang tóc đắng cay

Đinh Mão: năm 1867.

Bản dịch:

Long Giang nằm mãi bao ngày

Năm này tính lại đã đầy năm năm

Gái, trai con cái lớn dần

Trông mình chợt thấy hoa râm mái đầu

Chậm thăng chức, giấu dốt lâu

Nhà nghèo tiện tặn trước sau đủ dùng

Quê nhà khói lửa mịt mùng

Biết bao cay đắng trong lòng bà con!

Long Hồ vãn phiếm 龍胡晚泛 – Chiều dạo thuyền trên sông Long Hồ

龍胡晚泛

反照千山暮,

輕寒細雨餘。

村煙過竹遠,

松影落江疏。

鳥道雲俱迥,

孤舟歲欲除。

數家林下住,

寥落似吾廬。

Long Hồ vãn phiếm

Phản chiếu thiên sơn mộ,

Khinh hàn tế vũ dư.

Thôn yên qua trúc viễn,

Tùng ảnh lạc giang sơ.

Điểu đạo vân câu quýnh,

Cô chu tuế dục trừ.

Sổ gia lâm hạ trú,

Liêu lạc tự ngô lư.

Dịch nghĩa

Bóng nắng chiều gọi lại trên nghìn quả núi

Mưa nhỏ tạnh rồi, khí trời hơi lạnh

Khói xóm chơi vơi qua làn tre xa

Ngó dọc bờ sông, bóng tùng thưa thớt, la đà trên mặt sông

Con đường nhỏ cùng với mây núi xa tít

Chiếc thuyền con chèo ở trên sông vào lúc cuối năm

Dưới chân rừng có mấy nhà ở lác đác

Cảnh quạnh hiu tương tự như nhà ta

Bản dịch:

Nắng chiều còn ánh trên nghìn núi

Mưa nhẹ tàn, hơi lạnh vẫn xông

Khóm trúc chơi vơi vương khói xóm

Bóng tùng thưa thớt ngã lòng sông

Đường chim nhỏ hẹp, mây vời vợi

Thuyền nhỏ đơn côi, tháng tận cùng

Lác đác dưới rừng nhà mấy nóc

Giống nơi ta ở cảnh buồn trông!

Tống nhân chi Gia Định 送人之嘉定 – Tiễn người đi Gia Định

送人之嘉定

薄宦成名晚,

頻年未擬歸。

聞君下東浦,

此地近柴扉。

白社寒郊在,

青雲過客稀。

殷勤進消息,

歲宴委閨幃。

Tống nhân chi Gia Định

Bạc hoạn thành danh vãn,

Tần niên vị nghĩ quy.

Văn quân há Đông Phố,

Thử địa cận sài phi.

Bạch xã hàn giao tại,

Thanh vân quá khách hy.

Ân cần tiến tiêu tức,

Tuế yến uỷ khuê vi.

Dịch nghĩa

Quan chức thì nhỏ, thành danh cũng muộn

Đã mấy năm nay chưa nghĩ đến việc về thăm nhà

Nay nghe anh đi vào Đông Phố

Đó cũng gần nhà quê tôi

Bạn nghèo ở Bạch xã hãy còn đó

Khách sang qua lại thăm cũng ít

Nhờ anh hỏi thăm tin tức ra sao

Để tôi được an ủi lúc cuối năm còn ở xa chưa về được

Chức quan nhỏ, danh muộn mằn

Mấy năm gác chuyện, về thăm quê nhà

Nay nghe Đông Phố sắp qua

Nơi anh sẽ đến gần nhà của tôi

Bạn nghèo Bạch xã còn đây

Khách sang thưa thớt, ai người thăm nom

Nhờ cho tin tức bà con

Để tôi vơi bớt nỗi buồn cuối năm

Trên đây là hai Tập thơ Đường giải phóng (1977) của tác giả Bùi Định Giang được viết năm 1977 và các tập thơ được ông dịch của tác giả nước ngoài khác.

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …