Home / Chùm thơ chọn lọc / Tập thơ: Những gương mặt, những khoảng trời (1973) – Bằng Việt

Tập thơ: Những gương mặt, những khoảng trời (1973) – Bằng Việt

Tập thơ: Những gương mặt, những khoảng trời (1973) – Bằng Việt

Tập thơ: Những gương mặt, những khoảng trời (1973) – Bằng Việt được sáng tác năm 1973, tập thơ gồm 24 bài thơ, với nhiều chủ đề khác nhau được độc giả vô cùng yêu thích hiện nay.

A-tô-pơ

Thị trấn hoa vàng. Hoa đại ngủ lim dim,

Đôi ngả đường đá dăm. Một ngã ba cũ kỹ.

Những căn nhà gỗ hai tầng đơn sơ

Trổ lan can ô vuông, vẩy rào thưa trước ngõ

Các cửa hàng lành hiền bé nhỏ

Cô du kích tuần tra, súng lê dài hơn người!

Sư già ngực trần cháy nắng cuối hè

Áo đỏ khoác vai đến trường dạy học

Em bé lớp hai ê a tập đọc

Nhịp thước gõ bàn lách cách nửa chiều.

Thị trấn hoà cùng cuộc chiến gieo neo

Chi chít hào giao thông dưới cỏ,

Xe vận tải, súng phòng không…dấu sau vườn chùa cổ,

Nhưng cuộc sống im lìm như vẫn thế từ xưa!

Thị trấn đang chờ trận tập kích cam go

Tôi đi qua, vẫn thâm trầm vậy đó

Cô du kích cười xoà, nụ cười sao dễ nhớ

Với những vòng chỉ cườm lấp lánh mãi từ xa…

1972

A-tô-pơ là tên một thị trấn ở Trung Lào.

Bản cũ giữa rừng Lào

Những tảng đá mồ côi như toé lửa trong chiều

Núi sừng sững – Cái mím môi kỳ lạ,

Con sâu hình cành cây, con bọ hình cái lá

Trải âm thầm cuộc sống tự ngàn xưa.

Bếp lửa hãy còn đây, củi đóm với tàn tro,

Đầu hồi cũ vẽ sơn đen, quạnh quẽ,

Mái gỗ kiểu Lào lợp bằng săng lẻ

Dấu tích bao năm thu vén, cần cù…

Giặc phá nát rồi. Bản rộp nắng, trôi mưa,

Hươu nai chạy ngang đường, chim chóc

Kêu khắc khoải,

Cây xoài tượng lẫn vào cây hoang dại

Con gà nhà thơ thẩn giữa sườn non!

Tôi đi dọc rừng già, đất nước đau thương,

Những em bé gầy đen băng rừng tìm bộ đội,

Những cụ già quắt khô, nhìn không còn biết tuổi,

Lẳng lặng đào hầm, canh thú, tra nương.

Mấy bận rồi, dời bản dưới mưa bom

Áo chàm cũ, gai mây cào tướp hết,

Lưng gùi nặng, dốc leo chừng thấm mệt,

Nhưng chỉ một lòng vì cách mạng theo đi…

Quãng rừng chiều nay vắng vẻ nhường kia

Sao chất chứa bao điều cao cả quá!

Núi sừng sững – Cái mím môi kỳ lạ,

Những tảng đá mồ côi như toé lửa trong chiều!

Rừng Tà-vèn-ôộc, 1972

Bên địa đạo Vĩnh Quang

Từ lòng địa đạo đi ra

Mỗi ánh mắt trẻ con bỗng làm tôi sáng loá

Hồn tôi chợt nhiều nắng quá

Trên đất này Vĩnh Quang!

Tôi quên đi hết thảy mọi con đường

Chỉ nhớ quãng hào này

Rợp cỏ mặt trời và hoa muống biển,

Lại có những em bé lên ba,

Lần đầu ngạc nhiên được nhìn biển rộng

Lần đầu ngạc nhiên được nhìn trời trong!

Và tôi ngạc nhiên với chính mình

Đã qua hết hai mươi tám năm trên trái đất,

Nhưng chưa hình dung hết được

Khoảng cách sống – còn, chưa đầy dăm mét

Từ hầm sâu ùa ra giữa nắng,

Khoảng cách ngắn đến mức khó tin

Giữa chiến tranh và hoà bình,

Lại dài dặc đến chừng này

Trong tấm lòng đợi chờ con trẻ!

1970

Cuối năm

Cuối đông, lá rực rừng già,

Trời như một thoáng nhớ nhà, thẳm xanh!

Con sông vật lộn một mình

Hai bờ đá nhọn chênh vênh sóng dồi.

Bám cây, vạch lá, từng người

Buộc ni lông thả phao bơi ngang dòng,

Phập phồng cơn sốt vừa xong

Lại đi, nước réo nghe lòng rét tê…

Rậm rì rừng nứa rừng le,

Lưa thưa rừng khộp, nặng nề rừng lim,

Bỗng trong bóng nắng im lìm

Lá dong mát dậy suốt triền non cao!

Quê nhà gói bánh khi nao,

Rừng dong lá mới xanh vào mãi đây?

Ngẩn ngơ giữa cảnh rừng dày,

Ngỡ giang tay đã ôm đầy quê hương!

Có gì chợt hoá thân thương

Con sông xa lạ, con đường nguyên sơ,

Gió bao la những đợi chờ

Rừng chưa rụng lá đã ngờ Xuân sang…

1972

Đất này, Thăng Long – Hà Nội

Tôi lại về đây, giữa gió chuyển hai mùa

Đột ngột những cơn dông. Và tiếng còi báo động.

Mưa ào xuống, những cơn mưa bong bóng

Chen lẫn tiếng gầm đạn pháo, bom rơi…

Ở đây nhiều nắng như lòng yêu đời

Nhiều chớp lửa như những cơn giận dữ

Cây thay hoa như niềm vui bất ngờ

Cát bồi lở dọc những bờ lịch sử.

Mười thế kỷ thăng trầm. Chiến địa vẫn Thăng Long!

Tôi đi trong dòng người qua sông

Nước đỏ lựng, phù sa đang tháng Sáu,

Bụi ngùn ngụt từng đoàn xe đoàn pháo

Áo một màu cỏ úa đẫm mồ hôi…

Hà Nội phi thường trong sức sinh sôi

Bền bỉ phân thân khắp miền đánh giặc

Mỗi xúc động không ồn ào, mỗi đổi thay không

choáng ngợp

Nhưng hiểu được sức ngầm chỉ thoáng chốc

nhìn nhau!

Tuổi thơ qua đây còn ấm cúng rất lâu

Hàng cây rợp, mùa đông không trụi lá,

Hương sen trải suốt Hồ Tây mùa hạ,

Vị cốm tan vào không khí đầu thu…

Vừa lớn lên, đã giáp mặt quân thù

Chớp mắt, hai lần chiến tranh phá hoại!

Tuổi thơ bỗng lùi xa,nhưng khao khát mênh mông

còn để lại

Khao khát những gì khơi lại chiến công

Nhiều thế hệ dẫu hy sinh, Hà Nội mãi anh hùng!

Ôi tôi yêu những cửa ô, nghe đã xa rồi tiếng

voi lồng ngựa hí,

Còn truyền lại gương mặt quắc thước tinh anh của

mỗi chiến binh già,

Và lớp sóng Đông Bộ Đầu, ngót bảy trăm năm đã

trôi về biển cả

Còn dội tiếng quân hò “Sát Thát”, tiếng thanh la…

Rồi lửa bốc ở Ngọc Hồi. Giặc lụi ở Đống Đa.

Lửa bốc khắp Hàng Bạc, Đồng Xuân, đêm

Trung đoàn Thủ đô quyết tử

(Để tám năm sau, tên lính Pháp cuối cùng

lê chân ra khỏi đó,

Đã đánh đến đất này, giặc chỉ có đường lui!).

Lửa lại bốc khắp trời cao, và dù đỏ Mỹ bung rơi,

Năm năm giặc bay vào, là năm năm chúng rụng!

Xác giặc trải suốt hai đời tổng thống

Đủ thời gian chúng chịu hiểu ra chưa?

Chúng muốn phá Thủ đô. Nhưng đất này không

bao giờ phá được!

Thăng Long đã cháy rực ba ngày đêm khi giặc

Thoát Hoan vào,

Lại cũng cháy rực ba ngày đêm khi Chế Bồng Nga

tới cướp.

Và Hà Nội, mấy mươi lần tên lửa ngút tầm cao!

Đất rồng lên, mãi mãi đất rồng lên,

Đất của Đại cáo bình Ngô. Của Tuyên ngôn Độc lập,

Của bước chân Điện Biên, chiến thắng về rầm rập,

Của mỗi con người ưa ngay thẳng, sáng trong…

Ta sống với đất này như thế đó, thuỷ chung!

Ôi tôi tin cuộc đời như tin ở sắc hồng viên gạch

mới nung,

Tin mùa quả mùa hoa sẽ đè bẹp mùa tàn phá,

Với khẩu súng trong bàn tay sần chai, quyển sách trong

túi áo người trồng khoai lúa…

Triệu ánh mắt bình thường đang phát sáng trong tôi.

Thành phố đã nghìn năm, không dễ dãi buồn vui,

Không dễ dãi bằng lòng, không dễ dãi buông mình

thổ lộ,

Nhưng giữa sức trẻ bao quanh, tôi biết được điều này

rất rõ:

Mỗi suy nghĩ ở đất này đều nhắm đích tương lai.

Tôi tỉnh táo bên Người, Hà Nội rất yêu ơi!

1971-1973

Đêm gió Trường Sơn

Tôi lại về đêm rất sâu Trường Sơn

Gió dữ xung quanh cồn cào như biển

Chỗ đất đồi lửa xém

Cỏ gianh mùa này lên cao

Cỏ gianh dâng phừng phừng như lao!

Sương dăng thành che lấp bóng sao

Mênh mông mùa gió

Nghe chim kêu chưa sáng mặt trời

Khí núi bay ra mờ đục mắt người

Đá đổ ầm ầm như sấm động

Lắm bữa thèm ăn bát cơm thật nóng

Hơ lửa bàn tay thấm thía thương nhau!

Ôi nhớ những khi xẻ núi bắc cầu

Đại bác địch nổ trên đầu toé lửa

Những đêm lấp bao hố bom dang dở

Con đường vươn như sống lúc trăng lên

Từng khúc đứt ra sâu hoắm lại liền

Lại quẫy khúc trườn lên phía trước

Nỗi vui lớn có gì đo được

Như gió ào dâng trong mắt, rưng rưng…

Lán phong phanh trong rừng

Dăm lần cháy lại dăm lần chuyển chỗ

Dao mài vẹt theo đường phát cỏ

Cuốc cùn trơ vét đá hầm hào,

Chưa khi nào, chưa nơi nào

Sức người căng đến thế!

Gió nóng hanh hao, lồ ô nứt nẻ,

Xác ve khô rơi rụng mùa hè

Bão đầu thu quật nát tranh tre

Sương giá đầm đầm cỏ đông nhọn sắc…

Sống duy nhất chỉ để mà đánh giặc

Cái cắn răng nơi đó đã anh hùng!

Ở đây không khí loãng hơn đồng bằng

Hơi thở người sâu hơn

Lòng yêu đời sâu lắm!

Ôi Trường Sơn! Đêm nay tôi thức trắng

Những bóng hình thân thuộc mãi theo đi

Gió dữ xung quanh cồn cào như biển

Hơi thở quanh tôi thương mến, thầm thì…

Qua gian khổ thấy mình dày dạn lớn

Thương nhau nhiều, thấm thía sức nhau hơn

Ngày mai, trở giấc nơi đâu nữa

Hẳn suốt đời, khát vọng vẫn Trường Sơn…

1969

Đứng trước thế kỷ XX

Kỷ niệm 100 năm sinh V.I. Lênin

Bọt ngầu con sông Susơ

Hơi ẩm bốc lên những đêm mùa thu

Con sông trôi như trong truyện đời xưa

Vừa buồn vừa lặng.

Nơi đó, Lênin từng lặng ngắm

Rừng cỏ trải dài. Gió lốc tầng cao.

Những đêm bão tuyết thét gào

Chân trời đầy bí ẩn.

Đầm Pêrôvô ngầu rác bẩn

Màu nâu váng lá mấy trăm năm

Sương như men chua phả lên mùa xuân

Cỏ ngấu nước, mủn dần trong nắng hạ…

Cuộc đời tù đọng quá

Những cây tần bì rụng lá trơ xương

Cây phong chịu rét can trường

Mỗi mùa đông cũng nứt dần lớp vỏ.

Con sông và rừng cỏ

Ba năm ròng thành bạn của Lênin

Giữa hẻo lánh, im lìm,

Khơi dậy bao điều chưa ai biết đến!

Những người dân chài nghèo nàn dễ mến

Mặt úa vàng như sắc cỏ chiều hôm

Những người thợ săn gò má xương xương

Mệt mỏi ngồi trong lều cỏ

Lênin đến, nhập vào đời họ

Vào những ước ao đơn giản của con người.

Đêm cuối năm, đánh lửa châm mồi

Đốt lá khô, chuyện trò sưởi rét,

Lửa nhỏ bùng lên, lẹt rẹt,

Rồi cả đống tranh ăn gió bốn bề

Lửa phần phật dâng cao, lửa nhảy múa như mê

Kìa! Tất cả bắt đầu từ tia lửa!

Rực rỡ quá, Lênin nhìn, nín thở:

“Bắt đầu là tia lửa thế này đây!”

Lênin trở về. Bốn phía ngủ say

Sắp sửa băng tan, con sông còn vật vã,

Cây cối đêm nay vặn mình kỳ lạ

Giao thừa hoang sơ trận gió khắp trời…

Không ai biết Người ngồi

Bao nhiêu lâu đêm ấy

Những cơn lốc trong đầu Người trỗi dậy

Những dự tính trải ra bao quát trước mắt Người

Những ý nghĩ lớn lao, sáng rõ ra đời

Về Đảng, về Cách mạng,

Ngọn nến thâu đêm thắp sáng

Heo hút giữa vùng gió xoáy mung lung

Đấy là đêm cuối cùng

Của thế kỷ mười chín đang tan vào quá khứ!

Bất giác Lênin đẩy tung cửa sổ:

Con sông vươn mình rừng rực rạng đông

Những đám mây đỏ chói thinh không

Bay lớp lớp rợp trên đồi Sếu

Đàn sếu tha phương đang trở về có hiểu

Đất cũ kỹ sắp gầm lên, sắp nứt vỡ, sinh sôi!

Người đứng lặng, nhìn xa, nheo mắt, mỉm cười

Nụ cười đầu tiên

Đón Thế kỷ Hai Mươi bão táp!

Ghi từ một vùng đất lửa

Đất trụi trần những vết thương

Mặt trời loá, nhà tôn nhìn nhức mắt,

Gió nóng đi qua hầm hập như rang.

Bọ già ngoài sáu mươi

Chiếc quần đùi, dây thép gai xé rách

Đứng giạng trên sân chà từng lượm lúa

Bằng hai bàn chân sần chai

Hạt lúa đầu mùa nóng hổi, vàng tươi,

Giành giật với B.52 và pháo kích.

Xem thêm:  Hoa giấy - Lê Hải Châu

Những ngày thẳng căng đánh địch

Không phút nào đầu óc nghỉ ngơi.

Suốt buổi, lũ O.V. 10

Rền rĩ tiếng kêu ruồi nhặng

Dò dẫm thả hoả mù

Cho bầy F. bầy B. nhắm đó trút bom

Rồi pháo hạm câu từng dàn tăng tốc

Tai ù đặc, liên hồi ùng ục

Vách hầm rung đất lở đêm ngày.

Khói mù lên cay cay

Không khí dập vào, vỡ ra như sóng

Hơi thở từng người nóng bỏng

Giọng nói khào khào khản đặc như rang

Đã hơn trăm ngày đêm

Quân và dân đứng vững.

Những con người vừa rời khu tập trung

Bỡ ngỡ trở về bãi hoang làng cũ

Đứng trên cái nền đen khô khốc

Không gỗ lá, không tre pheo,

Chỉ những thùng đạn, những tấm tôn,

Lại bắt đầu dựng xây

Nuôi lợn nuôi gà gieo mạ đào hầm

Vào đoàn thể, lập dân quân,

Buổi chiều, đã nghe tiếng trẻ con ríu rít

Khói thổi cơm xanh từng gian nhà…

Bọ già chà xong gié lúa cuối cùng

Đứng nhổ bọt, nhìn ra biển

Chửi giặc một câu thật tục

Rồi quay lại tôi, vừa nói vừa cười:

“Kệ nó, mần chi cha nó,

Đất miềng, miềng ở, chú à!”

Bà mẹ rót mời tôi bát nước

Nước còn thoảng mùi tanh sắt thép

Tôi không nói được lời nào!

Đất trụi trần, ngang dọc hầm hào

Hơi thở con người chắc nặng

Đất cay cực, giành đi giật lại,

Tôi biết đất này từ nay của tôi!

Tôi đi thẳng vào lòng đất mở

Đất khai sinh, cạnh đất đã chôn vùi.

Quảng Trị, 1972

Huế, tấm lòng em…

Câu chuyện kể của cô

Giao liên người Huế N.K.K.B.

“Cơn mưa mùa hạ hiền hoà,

Sau cơn mưa, ánh sao xa lạ lùng,

Con sông róc rách nước trong

Cỏ may quen, cánh phượng hồng tuổi thơ…

Xóm nghèo Đập Đá từ xưa

Ngẩn ngơ qua, lại ngẩn ngơ dạ sầu,

Nhạt nhùng tâm sự mưa mau,

Áo dài chi, nón che đầu mà chi,

Mặt quân thù xám như chì

Lối lao Thừa Phủ ngay kề trường em,

Cửa trường Đồng Khánh đâu yên

Xót xa tiếng xích khua bên giảng đường!

“Biết yêu cuộc sống lạ thường

Mà sao phải lúc chán chường thế anh!

Nhà em – ngày ấy còn lành

Mẹ em – ngày ấy còn xanh nửa đầu,

Lo toan chất ngất theo nhau

Khi ba mất, mẹ cũng mau về già!

“Năm năm em biệt cửa nhà

Bàn chân mưa nắng chai ra nhiều rồi,

Cực thì có cực, mà vui,

Chiến khu ta, củ sắn lùi, cũng ngon!

Ba lần ép dưới mưa bom

Đội hầm lên, chỉ thấy còn tro than!

Hai mùa bão lụt tan hoang,

Từng lon cháo nếp, chia san từng người!

Giản đơn khoé mắt, nụ cười,

Giản đơn, là lúc cuộc đời thẳm sâu!

“Thương sao con nước Ô Lâu

Ngàn đêm lặn lội, bọt ngầu xanh đen,

Đôi bờ cát lở, triều lên,

Ánh đèn pha chợt quét trên đầu mình,

Thương sao động cát Phong Điền

Chói chang, chỉ lá cây niên che đầu,

Địch càn trước, địch càn sau,

Mấy lần ẩn náu, vùi sâu trong lầy,

Gian nan mảnh đất quê này,

Sống dồn, nghĩ cứ mỗi ngày thương thêm!

“Anh đừng lo lắng cho em,

Em qua tuổi trẻ, đã quen vui buồn,

Thuỷ chung chất Huế trong hồn,

Thì xa xôi mấy, vẫn còn thuỷ chung,

Chiến tranh qua, chỉ lạ lùng,

Làm tim em đập, khôn cầm yêu thương!”…

1970

Mẹ

Con bị thương, nằm lại một mùa mưa

Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ

Nhà yên ắng, tiếng chân đi rất nhẹ,

Gió từng hồi trên mái lá ùa qua.

Nhớ vườn cây che bóng kín sau nhà

Trái chín rụng suốt mùa thu lộp độp

Những dãy bưởi sai, những hàng khế ngọt,

Nhãn đầu mùa, chim đến bói lao xao…

Con xót lòng, mẹ hái trái bưởi đào

Con nhạt miệng, có canh tôm nấu khế

Khoai nướng, ngô bung, ngọt lòng đến thế

Mỗi ban mai toả khói ấm trong nhà.

Ba con đầu đi chiến đấu nơi xa

Tình máu mủ mẹ dồn con hết cả,

Con nói mớ những núi rừng xa lạ

Tỉnh ra rồi, có mẹ, hoá thành quê!

“Ông mất lâu rồi…” – Mẹ kể con nghe

Những chuyện làm ăn, những phen luân lạc,

Mắt nhoà đục và mái đầu tóc bạc

Cả cuộc đời chèo chống bấy nhiêu năm…

Những lúc hiếm hoi, mưa tạnh, trời trăng,

Mẹ hể hả ngắm con hồng sắc mặt

Con ra ngõ, núi chập chùng xanh ngắt

Lại tần ngần nói với mẹ ngày đi.

Mẹ cười xoà, nước mắt ứa trên mi:

– “Đi đánh Mỹ, khi nào tau có giữ!

Súng đạn đó, ba lô còn treo đó,

Bộ mi chừ đeo đã vững hay chăng?”

…Ôi mẹ già trên bản vắng xa xăm

Con đã đi rồi, mấy khi trở lại?

Dằng dặc Trường Sơn những mùa gió trái

Những mùa mưa bạc trắng cả cây rừng!

Con qua đâu thấy mái lá, cây vườn,

Cũng đất nước, phơ phơ đầu tóc mẹ…

Từng giọt máu trong người con đập khẽ,

Máu bây giờ đâu có của riêng con?

1972

Người đi cùng một đường

Tặng Xuân Quỳnh, sau khi đọc bài thơ “Viết trên đường 20” của bạn.

Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh

Đi như lao, như lửa cháy trong mình,

Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập

Những sườn dốc, rồi những vòng cua gấp

Băng trong đời, như bạn đã từng quen!

Con đường đi rất ít phút bình yên:

Nắng – địch bổ nhào, mưa rào – toạ độ,

Con đường dốc, xe gầm gào sang số,

Say mê đi, chẳng chóng mặt bao giờ!

Vẫn đó – gió Lào, cát trắng trong thơ,

Những thượng nguồn sông, buồn vui bất chợt,

Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột

Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa.

Vẫn những cơn mưa như tiếng reo oà

Rồi vụt chốc mây quang, trời dội nắng,

Hơi núi đá bốc lên mù mịt trắng

Vượt qua rồi còn nóng hổi bàn tay!

Cả tâm tình bạn đã trải vào đây:

Những lán dân công ven đồi cỏ dại

Lối cát sỏi rộp bàn chân con gái

Suốt bao mùa vác gỗ lót đường đi…

Vẫn cuộc đời thu gọn hết trên xe

Đôi mắt thức thẳng căng nhìn khói lửa,

Những trọng điểm đổi nhiều đêm không ngủ

Canh bom dồn, càng hiểu bạn nhiều hơn…

(Bỗng nhớ chút gì lâu lắm, rất thân thương

Như trái sấu đầu mùa, như cơn mưa mái phố,

Như ngọn sào thưa và cánh chuồn ngái ngủ…

Đốt lòng ta tự thuở bé vô tư

Còn miên man sáng mãi đến bây giờ!)

… Xa biết mấy, đường đi từ dạo ấy

Những đồi sim bạc nắng, rụng trong chiều,

Cỏ mặt trời lăn qua cát bỏng,

Hay đỉnh Hoàng Liên, hoa nở giữa từng rêu…

Những cánh buồm nâu vật vã sóng triều

Những bãi dứa che đảo đèn, hoang dại

Những lớp bạch đàn trên đồi ong trơ trụi

Bao vui buồn, có bạn lắng nghe ra…

Ngỡ mọi nẻo đường đất nước đi qua

Chắt lọc lại, thành tấm lòng của bạn

Tấm lòng trải ra:

Vượt thử thách đạn bom, vượt đất chua đồng cạn,

“Sau mất mát nghìn đời, vẫn là lượng phù sa!”…

1972

Những đoạn thơ tình giữa hai cuộc chiến tranh phá hoại

1

Anh không cần nhiều yên ấm lắm đâu em,

Nhưng anh đã gặp em, yêu em, giữa thời

rung chuyển ấy,

Bãi cát đỏ nghe triều dâng nước dậy

Lúa cũ tàn đi, mùa mạ mới xanh rồi.

Bãi bom sâu trở lại bãi sa bồi

Nền nhà cũ cựa mình nghe tiếng trẻ

Đường cây cụt, mầm đau rồi lại khoẻ,

Những chuyến tàu sáng lại mặt người quen…

Ô hay! Mùa thu như thường. Nắng lên!

Anh nhìn em, nhìn em, nhìn em,

Mái tóc màu hung qua nhiều dầu dãi

Nụ cười nhỏ đã ngọt ngào đằm lại

Nét môi thanh hoá dịu dàng thêm.

Có gì chai đi, sâu lắng trong em:

Màu nắng sạm trên bàn tay vun đắp

Vết sẹo nhỏ làm nghiêm trang nét mặt

Ta bỗng hiểu về nhau – như đã rất lâu rồi!

Và anh gắn vào em tất cả cuộc đời

Tất cả sức những phố phường dựng lại,

Nước mắt, mồ hôi những ngày đã trải

Hoa cỏ, hương mùa đất nước mai sau…

2

Cái mặc, cái ăn… ai cũng nhường nhau

Bởi tất cả đều đã từng vất vả!

Con người thanh bạch quá,

Ở liền ta, trời đất cũng gần hơn!

Ta chỉ bắt đầu từ đôi mắt yêu thương

Yêu thương lớn đến không gì phá nổi,

Bữa cơm nóng, ánh đèn dầu thắp vội

Có gì đâu, mà ấm cúng hơn xưa!

Trẻ con về dưới mái phố ngày thơ

Quen gánh vác sớm hơn là lứa tuổi…

Trăng vẫn sáng, hương thơm và gió thổi

Nhưng ta chỉ thiết tha nhìn sắc mặt con người!

Em đến bên anh, chất chứa bao lời,

Ta ngợp giữa cuộc đời cần mẫn quá!

Em mở oà vào anh tiếng nói cười bốn ngả

Lắng đến tận cùng, là tiếng nói riêng em,

Những thiếu thốn riêng tư, em bồi đắp dần quên,

Những khát vọng gần xa, em khơi dần, lại nhớ!

Cuộc đời lớn, cùng em chung nhịp thở,

Vừa bận rộn như em, vừa an ủi như em…

Anh hiểu lo toan còn sẽ nhiều thêm

Nhưng anh đã gặp em, yêu em, giữa thời

rung chuyển ấy!

Rồi mọi thứ sẽ cùng ta sống dậy

Nhà cửa, lúa khoai, hoa trái, ruộng đồng,

Tiếng hát ru đưa nôi, đám mây lành ngũ sắc,

Ngói mới lợp trên đầu, cầu mới bắc sang sông…

3

Em tiễn anh. Chiều vần vụ cơn dông

Trời hắt lên ta những sắc cầu vồng

Cơn dông lớn chẳng làm ta sợ nữa

Áo em ửng ráng chiều vàng như lửa

Anh hôn em, nhìn lại, để ra đi…

Qua cuộc chiến tranh này, ta vẫn phải chia ly,

Nhưng trên hết, lại có gì hàn gắn…

Nghe kết lại tình yêu như muối mặn,

Tình yêu vẫn như xưa, vị muối khác xưa rồi!

Trước cơn dông là đôi mắt em cười

Chiều lạ quá, chiều ơi, lay động mãi!

Giá lại phải băng qua trăm ngả đường phá hoại,

Thì hẳn chỗ cuối cùng anh gặp – vẫn là em!

1969-1970

Những gương mặt, những khoảng trời

Chiến trường quen, mới đó lại xa rồi,

Gió thổi theo tôi dọc những vùng trời

Những chiến sĩ trẻ măng hẹn ngày gặp lại

Những gương mặt bình thường như lẽ phải

Mỗi gương mặt sinh ra để đón một vòm trời!

Dẫu ở nơi đâu cũng mắc nợ cuộc đời,

Những binh trạm tiền tiêu thổi cơm trong lòng đất

Những em bé Vân Kiều, đôi mắt tươi như hát

Quen nhìn xuyên trăm đám lửa mù đen

Bỗng mở xanh lạ lùng trước một khoảng trời yên!

Nhớ bà mẹ Trường Sơn, thăm thẳm trước rừng đêm

Nấu bát canh dong tây, nhường con ăn khỏi đói,

Nhớ em gái Thừa Thiên, hy sinh rồi chẳng nói

Mãi mãi để dành ta một khoảng thắm bầu trời

Ta vuốt mắt cho em, đôi mắt vẫn trong ngời!

Im lặng trước cơn đau và khóc trước niềm vui

Ôi tôi nhớ đêm công đồn Quảng Trị

Một vạn quả pháo ta bay lên trời kỳ dị

Rực thác lửa vàng xanh, tuôn xuống mặt quân thù,

Phút đứng dậy xung phong, mắt rớm lệ không ngờ.

Sống cảm động suốt đời, đất nước chiến trường ơi!

Mỗi gương mặt tôi quen, một lần nhìn, thương mãi…

Bao em bé ngây thơ, bao mẹ già từng trải,

Những chiến sĩ băng qua khắp đất nước hầm hào,

Mỗi gương mặt bình thường, sau nghìn lần sống chết

Rọi ánh sáng vào tôi, cùng những khoảng trời cao!

1970

Nói với em

Em dấu kín trong lòng tất cả những nguồn sông

Khi xuyên núi có thể thành thác trắng

Em! Đôi mắt dịu dàng có ánh gì lạ lắm

Khi rụt rè thức dậy một tình yêu!

Xem thêm:  Gọi nắng - Trương Kiên Quản

Đấy là một buổi chiều

Cơn mưa lớn ập xuống đầu hai đứa

Hàng cây lá cao vời như rộng mở

Em nhắc gì, nghe lẫn tiếng mưa rơi…

Cơn mưa qua. Ngày ấy cũng xa rồi

Em chỉ gửi một dòng thư rất nhỏ,

Cơn mưa có gì đâu, thành nỗi nhớ

Về những diều không nói được – là Em!

Em. Một cuộc đời đang lạ bỗng thành quen

Một con đường cắt ngang bỗng nhập vào một lối

Một màu sáng tinh mơ đủ khiến lòng bối rối

Một bóng khói chiều xa tô đậm vị quê nhà…

Em có mặt trên đường ở mọi chỗ anh qua

Những rừng rậm gai cào, những truông dài cát lún,

Những trái chát không mùa, những dây leo không ngọn,

Những hướng trời, gió thả bốn tầng cao…

Em! Một thành phố xa xưa bỗng hiện lại ngọt ngào

Dáng bay múa những đường vân chạm trổ,

Những giàn dáo, những công trường vôi vữa

Chưa định hình, bỗng khởi sắc hồng tươi!

Em chất chứa trong lòng tất cả những nguồn vui

Khi chia ly, thành mái nhà, bếp lửa,

Khi bom nổ thành bàn tay băng bó

Khi tàn phá ào qua, thành điểm chốt sau cùng.

Em khao khát yêu thương như khao khát vun trồng

Bất chấp mọi gian lao, em tin ngày đoàn tụ

Tin ở sự thuỷ chung trong nghĩa tình đôi lứa

Tin ở sự hài hoà trong cuộc sống mai sau…

Em chất chứa trong lòng tất cả sự dài lâu

Dáng thăm thẳm những tháng năm chờ đợi

Sức kiên nhẫn với từng ngày lặp lại

Thư viết ra, đâu tới được bao giờ!

Kháng chiến trường kỳ, trăm nỗi âu lo,

Em đổ sức cho trăm điều gấp gáp,

Em đứng vững, không sức gì lung lạc

Như cây lớn lên giữa lớp lớp cây trồng!

*

…Em dấu kín trong lòng tất cả những nguồn sông

Khi xuyên núi có thể thành thác trắng.

Em! Đôi mắt dịu dàng có ánh gì lạ lắm

Khi trong đời chín tới một tình yêu!

1972

Phút sinh ra những thần Phù Đổng

Em bé ngỡ ngàng hơi thở đầu tiên

Hầm sặc vì oi khói

Cô đỡ run tay trong tối

Làm sao cắt rốn cho em?

Bom rơi ù tai

Tiếng nổ rát trời đêm

Xăng đặc bắt trên nhà lem lém

Người mẹ khẽ rên lên một tiếng

Hỏi bồn chồn: “Cháu gái hay trai”.

Cô đỡ xông lên chắn góc hào ngoài

Người mẹ duỗi nửa mình ra khoảng trống

Một bầu trời lồng lộng

Máy bay thù như điên.

Pháo sáng bay lung liêng

Soi bàn tay cô đỡ

Soi mồ hôi rỏ giọt ròng ròng

Người mẹ nén đau nằm không day trở

Cầu cho con, cuống rốn băng xong!

Một bầu trời mênh mông

Em bé lần đầu tiên mở mắt

Trước những giọt lân tinh và màu xăng đặc

Em bé lần mở mắt đầu tiên

Trước quân thù cuồng dại bốn bên

Trước những hình thù hoang sơ quái gở…

Có gì đó trào dâng lên cổ

Cô đỡ ôm em, nôn nóng trong lòng.

Đất bỗng sốt lên cơn sốt bừng bừng

Những cơn chớp giật ùng oàng sáng chói

Giữa mọi âm thanh không gì hiểu nổi

Em bé nằm yên, chưa chút bận tâm

Lạ lùng, bằng giọng rất trong

Cất tiếng khóc đầu tiên, chào thế giới!

1967

Tiếng hát dọc những cánh rừng

Tặng các nữ diễn viên Đoàn văn công Trường Sơn

Con chim prơ-tốc kêu hoài mãi chi

Prơ-tốc ơi prơ-tốc!

Rừng ru em, tiếng gió xa thầm thì,

Rừng già nghìn năm, bóng cây che độ lượng,

Rừng sâu xa lạ lùng, kiên tâm lạ lùng,

Prơ-tốc ơi prơ-tốc!

Tiếng hát sâu xa vắt từ lòng đất

Bài hát chiến trường hai mươi lăm năm

Người viết ra, bây giờ đã khuất

Nhưng cảm xúc theo em đi mãi vẫn còn

“Em đi cắt lúa trên ngàn

Đường đi nước ngập mênh mang…”

Đường như đi từ cổ tích

Để hành hương về tương lai.

Prơ-tốc ơi prơ-tốc

Chim kêu hoài mãi chi!

Chân em đá xước gai cào

Vẫn như trong bài hát cũ

“Lòng không hề thở than”

Em mới mười tám tuổi đầu

Em còn hát, còn đi,

Cho tới ngày thống nhất…

Ai lắng nghe em cũng lặng phắc, gai người,

Dầu đã thuộc đến từng giai điệu,

Thuộc cả đến chỗ nào em nín thở

Trước mênh mông màu nắng đỏ miền Đông,

Mênh mông con sông, sức sống vun trồng,

Em thương đến xót xa những người trong khúc hát,

Dẫu chưa được gặp người, nước mắt vẫn rưng rưng…

Ngày rồi đêm băng rừng

Dốc cao lắm, vấp cơ hồ bật móng,

Thèm một mặt bằng, một mặt bằng rộng lớn,

Nhưng Trường Sơn nghìn cây số cheo leo,

Chỉ những dốc cùng đèo

Những đỉnh sa mù quanh năm lẩn khuất,

Thổi một nồi cơm, khói dày cay mắt,

Kiếm củi, đào hầm, tay tướp thành chai…

Sau những cơn sốt rét rung người

Em vuốt tóc, tóc rụng dần, thưa thớt,

Prơ-tốc ơi prơ-tốc

Con chim theo ta kêu hoài mãi chi!

Em lại hát “Lên ngàn”

Bài hát nhẹ như ru, như lời an ủi,

“Lòng không hề thở than”

Bài hát ruổi theo kháng chiến trường kỳ

Em lại đứng lên, lao vào trận tuyến.

Những chiếc đèn phòng không dấu trong thùng sắt tây

Khoét hổng, soi về một phía.

Em đứng đó, nét mặt còn xanh tái

Giọng hát cuốn em đi, nét mặt bỗng tươi hồng,

Giọng hát say màu phù sa mênh mông

Say ánh nắng bao vùng trời đất nước,

Mỗi lần hát lại có gì khác trước

Khi thêm từng xúc cảm cuộc đời em…

Đêm khuya về… Loang loáng ánh đèn pin

Chân dầm nước liền hai cây số suối,

Rét cắt da người, nhưng em chẳng nói,

Tiếng hát thiết tha còn dìu em đi.

Con chim prơ-tốc kêu hoài mãi chi,

Prơ-tốc ơi prơ-tốc,

Chim ngủ đi, dưới tán cây thầm thì,

Để mình em sẻ chia với rừng già độ lượng,

Em thao thức quen rồi, dẫu chỉ mới tròn

Mười tám tuổi đầu…

Prơ-tốc ơi prơ-tốc!

1972

Tột cùng gian truân, tột cùng hạnh phúc

Anh choáng váng trước chân trời rộng lớn

Cả cánh đồng vàng rực buổi chiều đi

Một tấm thảm dắt ta vào thần thoại.

Sau lưng hai ta, bờ bãi Thái Bình

Những nhà đổ in lên màu đất cháy

Đôi mắt em soi mặt trời tận đáy

Mặt trời rung như một nốt đàn cao!

Em nghe hết lòng anh nôn nao

Chân ta dẫm qua tầng tầng gạch vụn

Tiếng ngói dòn khô kêu đau dưới chân

Suốt dọc Thái Bình, Phủ Lý,

Sau lưng ta có còn gì nhỉ

Những mái đỏ ngây thơ, quân địch cố san bằng…

Anh qua con sông nước ngập buổi chiều

Bỗng sửng sốt gặp cánh đồng bảy tấn,

Anh không khóc trước những gì tàn nhẫn

Mà trước cái nhìn trong sạch của em!

Ôi cánh đồng rất mực bình yên

Đã gieo giống ngay trên nền bão tố

Thái Bình ơi, Thái Bình!

Loa hát lớn sau buổi chiều phẫn nộ

Cây cứ thế tưng bừng búp trổ

Cái chết qua đi như phút trở trời!

Chưa bao giờ anh hiểu hết cuộc đời

Chỉ càng lớn, anh càng thương cảm nó!

Em đứng đó, thu bàn tay bé nhỏ

Vào trong im lặng của chiều

Thu hết mọi gian truân, mọi điều trắc trở,

Chỉ để lại nụ cười cởi mở

Nụ cười em trao cho anh!

Nét rám hồng qua hai cuộc chiến tranh

Ngỡ đâu chỉ hai mùa hè cháy nắng.

Anh choáng váng trước chân trời rộng lớn

Cái bộn bề kinh ngạc của đời ta…

Quá khứ chóng lùi xa

Như ta sống gấp hai lần thế kỷ

Những bước ta đi dài không tính xuể

Tới tột cùng… Hạnh phúc sáng dần ra…

Hạnh phúc quá bao la

Một hạnh phúc của những người thử lửa

Biết làm chủ niềm vui và nỗi khổ

Mỗi xúc động đi qua đều không thể nửa vời!

Em đứng soi trong ánh mặt trời

Trái đất và em hoà một

Cây ứa nhựa yêu đời như máu rót

Lúa ngả đòng, nhân mãi sức sinh sôi.

Anh muốn kêu lên

Rạo rực một điều thôi:

Ta yêu lắm, khi ta càng đánh giặc

Càng thấm tột cùng hạnh phúc

Khi qua tột cùng gian truân!

1968

Trở lại Thái Bình

Gió dậy giữa đêm đầu tiên tôi về

Không dễ gì ngủ được!

Gió thơm và đượm

Ngọn gió của mùa no.

Tôi lạc trong hàng triệu đám mỏ vàng những

đàn vịt rung rinh,

Sắc tơ tằm nghìn năm, càng nhìn càng óng lại,

Màu cói màu đay bạt ngàn đồng bãi,

Con sông trôi còn lạ cỏ đôi bờ!

Giống lúa Xuân, mới mẻ đến nghi ngờ

Đã đứng vững trên đất nhiều chua mặn,

Vôi giữa nắng, càng tôi càng trắng,

Nón trong cây, soi mắt đen ngời!

Tiếng máy bơm, máy khoan đất liên hồi,

Tiếng búa đập, tiếng cưa bào hối hả,

Thuyền đạm, thuyền than, thuyền đá

Đi về ba cửa nước mênh mông…

Ruộng từng tầng, đắp nổi vòng cung,

Đê lấn biển nhấp nhô ngoài bãi sú

… Dấu đạn, dấu bom, dấu nghìn đời đói khổ

Mới vừa đây, đang xoá đi rồi!

*

Làng trên bãi sa bồi

Tôi đi, nghe dưới chân còn rùng rùng mạch biển,

Nhưng mái rạ, bờ tre lấn đến,

Trẻ con câu tôm bên lạch mới đào,

Hương cau non mùa đầu xôn xao

(Như phảng phất hương nghìn xưa, vị trầu cau của

những đời lập nước!)

Không khí say nồng, nắng tươi như uống được,

Da đồng hun, thấm chất muối no lành!

Đất mới sinh

Mái rạ, cánh đồng mới sinh, ngọn khói bếp mới sinh,

Trẻ con mới sinh, chiếc nôi tre mới sinh, tiếng ru hời

cũng mới,

Hai bàn tay chai lấm lem, nóng hổi,

Tay không – vét đất chống trời!

Chưa bao giờ tôi trải hết cuộc đời

Chỉ càng lớn, tôi càng chăm chút nó!

Chỗ cuối bãi cùng sông, với mọi nỗi phập phồng

sướng khổ

Cũng vẫn là máu thịt trong tôi!

Tôi thành người khai mương dưới nước bỏng như sôi,

Thành người đồng cói, mắt thâm quầng, gối mùa

không kịp ngủ,

Thành chú bé lặn lội kéo bè trên con kênh nước lợ,

Thành ông già chăn vịt nắng sương đen nhẻm

trên đồng…

Đổ sức lực nặng nề làm nên cuộc đời tốt đẹp

Tôi yêu cái chai ráp, dắn thô, làm lớn dậy con người!

Hồn tôi sinh sôi cùng mảnh đất sa bồi

Luôn phấp phỏng trước con đường mới mãi,

Trái tim đập không thể gì cưỡng lại

Trước những lo toan thiết thực ăn làm!

*

Những ý nghĩ miên man

Từ hạt lúa củ khoai, cách làm phân nhân giống,

Đến những công trình lớn lao xa rộng

Như một vòng mắt xích nối vào nhau.

Tới mai sau

Cái gốc của đời vẫn chỉ là chuyện làm ăn, là cách

làm ăn luôn đổi mới,

Cái gốc không thể nào nghĩ xổi,

Chỗ băn khoăn quyết định mọi thời.

Năm tấn vượt qua rồi,

Trước mắt lại là tám, là mười, là mấy mươi tấn nữa…

Tôi trở lại Thái Bình lần này không dễ ngủ

Bao nhiêu dự định chất chồng…

Mỗi việc chưa làm, mỗi ngày chưa qua… đều có

trăm ngàn điều phải nghĩ,

Tầm nghĩ càng xa, càng phải gắng không cùng!

1971–1973

Truông nhà Hồ

“Yêu em, anh cũng muốn vô,

Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”

(Ca dao cổ)

Đất khô đỏ quạch ven đồi

Gió tung phóng khoáng từng hồi trên cao

Đất chiêm bao tự thuở nào

Đến nơi, hoá gặp tiếng chào dân quân!

Bò ai gặm cỏ Sa Lung

Chỗ xưa chỉ tiếng cọp gầm dỡn trăng

Miếu ma áo trắng Rú Trằm

Cát bay đã mấy trăm năm thành cồn,

Dăm thước đất, một hố bom,

Giữa rừng, vẫn tiếng ru con làm người…

Xem thêm:  Bài thơ Sóng ngầm chảy mãi – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

(Châu Ô, Ri, thuở xa rồi

Tối tăm gió tắt, còn lời lá run,

Ba thùng thóc thuế – bán con

Đói mèm – cầm vợ trên đường đi phu!

Máu đằm trên cát, máu khô,

Cọc bêu đầu cắm lô nhô mấy đời!)

Cái tên ghê gớm một thời

Có gì mà sợ, em ơi, bây giờ

Yêu em, đánh Mỹ, thì vô,

Vượt truông Nhà Hồ, vượt phá Tam Giang!

Hồ Xá, 1970

Trước cửa ngõ chiến trường

1

Ở đây, đồi sở lại đồi sim

Đất cát, thẫm màu hoa nắc nẻ.

Trăm cây số nữa là tới Huế.

Xe dừng.

Núi dựng bên tây, đen thẫm, trập trùng,

Mặt trời xuống. Cát vàng như lửa cháy.

Biển màu chi lạ vậy

Như mặt thuỷ ngân láng trên chân trời!

Thế đấy, cuộc đời

Có những phút bất thần thành hạnh phúc,

Tôi đứng như mê giữa lòng đất nước

Một không gian hùng vĩ mở trên đầu…

Tôi bước những bước dài, hít những hơi sâu,

Đất thịt thẫm gan gà, sung sức lạ,

Dấu tích những ngày tàn phá

Có là gì trước sức lớn này đâu?

Ôi ngây thơ tiếng lục lạc bầy trâu

Dội vào núi buổi chiều nghi ngút khói

Ôi hối hả tiếng búa choòng đập vội

Ánh lửa hàn, mùi hắc ín nồng thơm,

Gạo mới trên đường, mạ mới trên nương

Dầm cầu mới chồng lên khung sắt cũ

Khuôn mặt mới cười sau ca-bin vỡ

Trước cửa ngõ chiến trường, cỏ mới mãi tươi non!

2

Hàng trăm binh trạm ngầm, ẩn hiện dọc Trường Sơn,

Mười mấy năm nay không tàn ánh lửa

Những chiến sĩ không tên, chung sức nhau

Làm nên lịch sử

Vạn chuyến xe đưa thoi, ước đã bon quanh trái đất

Mấy mươi vòng!

Sức dân ta bỏ ra đã đủ xây xong hàng chục Kim tự tháp

Xây Vạn lý Trường thành, xây những kênh đào qua

Sa mạc Xahara,

Xây những nhà chọc trời hay đường xe điện ngầm

Nối từ Nam ra Bắc,

Nhưng lại phải đào hàng triệu hầm cá nhân và lấp hàng

Triệu hố bom lở loét,

Bạt núi, xẻ đường qua vách đá mây bay,

Dựng những dàn nguỵ trang cho xe,

Dài trên hai nghìn cây số!

Chiến trường – có gì đó vừa thô sơ vừa thần thoại,

Dấu tích những bàn tay khổng lồ, với từng gương mặt

Dịu hiền kia…

Hai chữ “chiến trường” ta đã quen nghe

(Hai mươi mấy năm sống cùng chữ ấy!)

Nhưng đứng trước cửa ngõ này, vụt thấy

Nhịp chiến trường đổi mới tính từng giây,

Ta hôm sau khác xa ta hôm trước

Ngày càng đi, càng thấy ngắn thêm ngày.

Biết bao việc phải làm xong quá sức

Từng chiến thắng góp nên đều không thể giống nhau

Kinh nghiệm ở nơi này, nơi kia chưa có ích,

Khó khăn sau không lặp lại khó khăn đầu!

Xưa tôi hiểu chiến trường là mảnh đất giao tranh

Nay hiểu cả những lo toan thầm lặng

Khoảng xen kẽ giữa hai màu đen – trắng

Sức phi thường những chịu đựng không tên!

Tôi hiểu mạch chiến trường qua thẳng mỗi con tim

Phút nhỏm dậy trước hầm ngầm phụt lửa,

Khoảnh khắc ngụp dưới lạch bùn nghẹt thở

Trận sốt rét mềm người, không một tiếng kêu rên!

3

Cửa ngõ chiến trường thắm một sắc màu riêng

Đưa tôi bước vào niềm thông cảm lớn:

Những đôi mắt tôi nhìn không vết gợn

Những bàn tay trong sạch nắm tay tôi…

Thế đấy, cuộc đời

Những phút gặp bất thần thành hạnh phúc!

Tôi ngợp giữa tình người cao cả nhất

Ngợp giữa tuổi thơ mình, ngợp ánh sáng đầu tiên!

Tôi hiểu ra

Cửa ngõ chiến trường

Cửa ngõ của lòng tin!

Chiến khu Trị – Thiên, 1970

Trước cửa Tùng

Hộ tập thể chốt trên đồi cao

Một trai ba gái

Bi đông nước và băng đạn

Súng, xẻng và dao.

Cỏ gianh rì rào

Cỏ gianh dày hơn, sẫm hơn ngày trước,

Chất lân và diêm sinh thấm vào lá cỏ

Mưa dông mùa hè dần xoá dấu bom.

Chúng tôi đi khuất dưới lòng hào

Cây trên đầu đã hai mùa trổ búp

Khóm hoa vàng nhú lên bất chợt

Con ong cần cù bay qua.

Không gian, thời gian mở đến bao la…

Tôi nghe rõ nhịp tim mình mạnh quá

Biển cả vừa ồn ào, vừa êm ả,

Đời vẫn xanh một sắc không cùng!

Cửa Tùng!

Những con người da khô sắt lạị

Một trai, ba gái,

Luân phiên thức cùng biển khơi.

Súng, xẻng và dao,

Bi đông nước và băng đạn.

Tập thể chưa phút nào ly tán

Suốt cuộc chiến tranh khốc liệt từng ngày.

Những chấm đen xảo quyệt lách vào đây

Mùi khét lạ thoảng hờ trên mặt sóng…

Đêm sương mù, đêm biển động,

Những trận bom trận pháo đỏ lừ…

Chưa bao giờ họ bị bất ngờ

Chưa bao giờ họ lui một bước.

Cửa Tùng. Mãi mãi nhô ra giữa nước,

Ngực trần.

Anh em dẫn tôi đi, chốc chốc lại dừng

Trước dấu thềm cũ cửa hàng Mậu dịch

Dấu đường nhựa, bom vùi chưa hết

Cả dấu vườn, dấu ngõ hôm qua…

Nheo mắt nhìn khơi xa

Họ nói với tôi về ngày toàn thắng

Có Đài kỷ niệm và Khu nghỉ mát

Ngói đỏ thông reo trên bến Cửa Tùng!

Hết sức lạ lùng

Tôi bước xuống đồi

Dọc những bậc thang khoét vào đất dốc

Nơi dấu chân in đã mòn từng bậc

Mà tôi mới chỉ đến lần đầu,

Nơi con người đã nghĩ tới mai sau

Còn tôi mới ngạc nhiên vì hiện tại!

Trong lòng vừa xốn xang, vừa có gì nhuần lại…

Biển và trời. Hộ tập thể trên cao.

Bi đông nước và băng đạn,

Súng, xẻng và dao.

Khu công sự Cửa Tùng, 1970

Từ chiến trường lại viết cho con

Cha đưa con vào thế kỷ hai mươi

Cha đến giữa, mà con thì đến cuối.

Bốn tuổi đầu. Cha nằm cạnh những người chết đói

Trong chuyến tàu lùi lũi trước cơn dông

Không khí chiến tranh. Mùi thuốc đạn cay nồng…

Máy bay Mỹ oanh tạc đường số Một,

Bà nội bế cha từ Nam ra Bắc

Lính Nhật và Tàu Tưởng khắp đường đi!

Năm tuổi đầu. Đi bộ trở về quê

Những thành phố cháy sau lưng hừng hực.

Đêm tháng Chạp. Trời tối đen như mực

Dân chúng bậm môi, châm lửa đốt nhà!

Lửa soi lên từng gương mặt xót xa

Mồ hôi mặn trong tàn tro lạo xạo…

(Đất nước đánh nhau cùng quân tàn bạo

Thà đốt hết mà đi, hơn ở lại cúi đầu!)

*

Cha đưa con vào thế kỷ hai mươi

Cha đến giữa mà con thì đến cuối.

Ba mươi năm qua đi

Con lên một tuổi tôi. Tiếng đầu tiên con nói

Cùng tiếng “mẹ”, tiếng “cha”, là bập bẹ “máy bay”,

Bài hát đầu tiên là “Mẹ đào hầm”

Đồ chơi đầu tiên là cây súng nhựa,

Khi con ôm búp bê – Mảnh khăn trùm quanh cổ

Cũng cắt ra từ vải nhuộm phòng không!

Cha chẳng thể nào quên

Những đêm lửa rực trời không thể ngủ

Nhà Hát Lớn, cứ từng hồi còi rú,

Ba mươi vạn người sơ tán khỏi đầu ô

Tiếng phanh rít, động cơ, tiếng cút kít xe thồ.

Mẹ ủ con ra đi. Nửa đêm trời lạnh giá.

Con chưa hiểu có chuyện gì hết cả,

Chỉ ngơ ngác ngó bốn bề sôi sục mãi không thôi!

Bây giờ con nghe tiếng nổ B.52

Như chớp giật, sấm rền, đinh tai, nhức óc.

Cha chia sẻ, xót xa… từng ngày này khó nhọc

Tưởng tượng ở nhà, con sống ra sao!

Cha đang cách xa con hai nghìn cây số

Ở đầu mút chiến trường, không thể chở che con!

Ôi nhớ cái hôm mẹ tiễn cha đi

Con cứ nhìn vu vơ, đôi mắt đen lay láy,

Đôi mắt thương vô chừng, cứ rõi theo cha mãi,

Đôi mắt ấy giờ đây trong ánh chớp hầm hào!

*

Cha đưa con vào thế kỷ hai mươi

Cha đến giữa mà con thì đến cuối.

Vất vả đủ bề. Gian lao không thể nói!

Cả đời ông, đời cha, đều đánh giặc theo nhau…

Thử thách dẫu tột cùng, nhưng kiên trì phải gánh!

Mấy thế hệ đã dám hy sinh, để làm nên chiến thắng

Thì còn lứa tuổi nào được tránh né, chùn chân?

Khi con bằng tuổi cha hôm nay, thế kỷ này

vừa chấm hết,

Đủ thời gian để quét sạch kẻ thù xong, ta dựng lại

cuộc đời!

Và cha sẽ tiễn con vào thế kỷ hai mươi mốt

Bằng những vần thơ tươi đẹp nhất, con ơi!

Cực Nam, những ngày B.52 đánh vào Hà Nội

Tháng Chạp, 1972

Viết cho con mùa xuân thứ nhất

Những mái ngói thẫm màu ủ một chút hồn xưa

Con sinh ra – Ấm áp tự bao giờ?

Con chưa hay gì đâu… Xuân đã tràn khắp ngả…

Thành phố mở oà cho con tất cả

Mọi ngả đường lên một tuổi cùng con!

Lên một tuổi Tháp Rùa. Lên một tuổi Hồ Gươm.

Một tuổi cả ráng mây vàng Rồng nổi,

Bao voi đá, tượng đồng… nhìn con đều một tuổi.

Thành phố của đời cha nay lại thuộc đời con.

Sông Hồng dâng. Màu đất bãi như son

Phù sa đỏ thấm trong hồn thành phố

Dấu giặc tan đi, tàn theo cỏ úa,

Ngô khoai lên và lúa trỗ xanh ngời.

Những con đê, mòn công sức đắp bồi

Bao bọc hết từng đền đài lịch sử.

Nhớ năm con sinh, hai tháng ròng lũ đổ

Chẳng chỗ xoáy nào lở tới mình con.

Thành phố bao lần bão đạn mưa bom

Sao con gặp mặt người âu yếm thế!

Các cô chú chẳng mấy ai còn trẻ

Ánh tinh hoa trong mắt thật không ngờ!

Cha dẫn con qua đường đá ngoại ô

Lối cha mẹ vẫn đi về sớm tối,

Nghe tiếng búa quai rền, tiếng thoi bay giữa sợi,

Dàn dáo dựng ban mai, lò bánh toả ban chiều.

(Những âm sắc chuyên cần của cuộc đời vất vả

Cho mỗi ngày con hạnh phúc bao nhiêu!)

Con hãy quen và con hãy yêu

Mỗi góc phố, mỗi căn nhà chật hẹp

Những ngăn gác, cầu thang lên cót két

Những vỉa hè gạch cũ, guốc khua vang…

Nơi thiên tài nhân dân từng lớn lên ở đó

Cho mắt con đầy ánh sáng Việt Nam!

Thành phố suốt đời con qua chẳng hết

Chưa phải rộng mênh mông mà sâu đến không cùng!

Con đi giữa mọi sắc màu bất diệt

Mà nhẹ nhàng, thành phố cứ lâng lâng!

Con lớn lên. Đời sẽ rộng dài hơn

Sẽ sung sướng hơn thời lên một tuổi!

Nhưng có thể có gì so sánh nổi

Với mọi điều cha đang ước cho con?…

1971-1972

Vùng sâu

Cát bỏng lặng thinh đâu biết kể cùng ta:

Cha mẹ, anh em – kẻ thù chôn sống!

Cát bỏng lạ lùng, cát bỏng,

Đi qua rùng mình, ngỡ xác người dưới chân,

Sắc trắng phơi trụi trần

Vết đau hằn khô máu!

Xóm làng không còn dấu

Xe xích chà qua, xe ủi cào đi,

Một tiếng dế quen nghe

Từ thuở nhỏ, đến đây giờ cũng bặt,

Thương quá, màu xanh bụi gai, bụi móc

Duy nhất nhú lên sau trận mưa rào!

Đêm. Một vết chân ra vào

Dẫm sương tan nhanh trên đường tới ấp

Đủ thành dấu cho quân giặc

Sớm mai nã pháo vây càn.

Trảng cát tan hoang

Tiếng cô giao liên bỗng thốt dịu dàng:

– Xã đội chúng em chốt đây nguyên vẹn!

1970

Trên đây là toàn bộ 24 bài thơ trong tập thơ ” Những gương mặt, những khoảng trời (1973)” của nhà thơ Bằng Việt, hi vọng sẽ mang đến cho độc giả yêu thơ Bằng Việt những bài thơ trữ tình, thơ kháng chiến vô cùng lắng đọng và nhiều cảm xúc.

Xem tiếp: Đất sau mưa (1977) – Bằng Việt

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …