Home / Chùm thơ chọn lọc / Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 1

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 1

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 1

Sanh được đông đảo bạn đọc biết đến bởi những tác phẩm lừng danh và sâu sắc. Chặng đường sự nghiệp của ông luôn gắn liền với thơ ca, chính vì thế mà ông đã sở hữu được cho mình những bài thơ có giá trị đặc biệt và để lại ấn tượng lớn trong lòng bạn đọc. Những trang thơ dich của ông luôn được quý độc giả đặc biệt chú ý nhất là bài thơ dịch của nhà thơ Thụy Điển Tomas Tranströmer. Không để các bạn phải chờ đợi thêm, ngay bây giờ hãy cùng chúng tôi chiêm ngưỡng những thi phẩm đặc sắc này nhé!

Bài ca Sång

Den vita skaran växte: måsar trutar

i dräkt av segelduk från döda skepp

men fläckad av förbjudna kusters rökar.

Alarm alarm kring avfall från en skuta!

De trängdes tätt och bildade ett flaggspel

som signalerade ”ett byte här”.

Och måsar styrde över vattenvidder

med blåa åkrar skridande i skummet.

Tvärs över gick en fosforväg mot solen.

Men i sin forntid färdas Väinämöinen

på hansvidd gnistrande i forntidsljus.

Han rider. Hästens hovar blir ej våta.

Och bakom honom: grön hans sångers skog.

Med eken i ett tusenårigt språng.

Den stora kvarnen drivs av fågelsång.

Och varje träd är fånge i sitt brus.

Med stora kottar glimmande i månljus

när utmarkstallen tändes som en fyr.

Då reser sig Den Andre med sin galdr

och pilen flyr vidöppet seende

med sång i fjärden som ett fågelsträck.

En död sekund när hästen styvnar tvärt

och remnar över vattenlinjen som

ett blåmoln under åskans känselspröt.

Och Väinämöinen störtar tungt i havet

(ett brandsegel som väderstrecken spänner).

Alarm alarm bland måsarna vid fallet!

På samma sätt med den som utan ängslan

förhäxad står mitt i sin lyckas tavla

med elva sädeskärvar bugande.

Förtröstans alptopp nynnade i etern

tretusen meter högt där molnen seglar

ikapp. Den stinna brugden vältrar sig

i ljudlöst gapskratt under havets yta.

(Död och förnyelse när vågen kommer.)

Och vinden cyklar genom löven fridfullt.

Då trummar åskan dovt mot horisonten

(som buffelhjorden flyktar i sin rök).

En skuggas näve knyter sig i trädet

och störtar honom nu som står förhäxad

mitt i sin lyckas bild där kvällens himmel

syns glöda bak en vildsvinsmask av skyar.

Hans dubbelgångare blev avundsam

och träffar hemligt avtal med hans kvinna.

Och skuggan samlar sig och blir en flodvåg

en flodvåg mörk med måsar ridande.

Och babordshjärtat fräser i en bränning.

Död och förnyelse när vågen kommer.

Den vita skaran växte: måsar trutar

i dräkt av segelduk från döda skepp

men fläckad av förbjudna kusters rökar.

Gråtruten: en harpun med sammetsrygg.

I närbild som ett översnöat skrov

med dolda pulsar blixtrande i takt.

Hans flygarnerver i balans. Han svävar.

Han drömmer fotlöst hängande i vinden

sin jägardröm med näbbens skarpa skott

Han dalar glupskutslagen ner mot ytan

och kränger sig kring rovet som en strumpa

med några ryck. Och lyfter som en ande.

(Förnyelsen är krafters sammanhang

mer gåtfulla än ålens vandringar.

Osynligt träd i blomning. Och liksom

en gråsäl i sin undervattensström

går upp till vattenytan, drar ett andetag

och dyker – alltjämt sovande – till bottnen

så har nu Slumraren inom mig hemligt

förenat sig med det och återvänt

medan jag stod med blicken fäst på annat.)

Och dieselmotorn dunkande i svärmen

förbi det mörka skäret. fågelskrevan

där hungern blommade med töjda gap.

Ännu vid mörkrets inbrott hördes de:

en ofullgångenhetsmusik som ur

orkesterdiket innan spelet börjat.

Men på forntidshav drev Väinämöinen

ruskad i krabbsjöns vante eller utsträckt

i stiltjens spegelvärld där fåglarna

förstorades. Och ur ett spillfrö, långt

från land vid havets ände växande

ur vågor, ur en dimbank sköt det upp:

ett väldigt träd med fjällig stam och blad

helt genomskinliga och bakom dem

avlägsna solars fyllda vita segel

gled fram i trance. Och redan lyfter örnen.

Dịch

Đoàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển

trong bộ áo vải các con tàu chết

lấm bụi của các bến biển cấm vào

Báo động! Báo động quanh đám rác thải từ các chuyến tàu ven bờ!

Chúng nó dịch laaij gần nhau để chơi trò báo hiệu

để có thể cho nhau biết “chiếm lấy được chỗ này”

Hải âu lượn trên trăm ngàn vũng nước

tại đó nhiều rãnh cày đẫm màu xanh chạy thẳng giữa các con sóng bạc

Một con đường lân tinh chạy chéo vào mặt trời

Nhưng từ tiền sử, thần Vainamoinen tiến bước trên đại dương bao la

chói chang đuốc sáng của nghìn xưa

Trên lưng ngựa. Các móng chân con vật chẳng bao giờ bị ngấm nước

Sau ngài: bát ngát rừng xanh của khúc ca ngâm

Nơi đó cây sồi vươn bước nhảy nghìn thời

Chiếc cối xay gió lớn được chuyển động nhờ ca khúc các loài chim

Và cây bị cầm tù trong tiếng rì rào của nó

Các tổ của chúng rạng lên trong ánh trăng

khi hàng thông các đất xa sáng lên như một ngọn đèn biển

Rồi Người Kia bỗng đứng thẳng dậy trong câu niệm thần chú

và mũi tên vụt bay, cặp mắt mở to

vừa hát ca, trong bến cảng, như những con chim di trú

Một giây phút chết khi con ngựa chồm lên

và đập mình vào trên đường con nước

như một đám mây xanh dưới dây trời xúc giác của bão tố

Và Vainamoinen rơi tõm vào biển

(chiếc vải cứu hộ do bốn phương trời trải ra)

Báo động! Báo động cho chim hải âu vào giờ giấc lâm nguy!

Giống như người không hề biết sợ cái gì

bị mê hồn giữa cảnh đời

sụp quì lạy với mười thưng lúa mì

Các đỉnh non cao của hi vọng ngân nga trong thanh khiết

ở ba nghìn thước bề cao, nơi mà mây xa bày lên một cuộc đua thuyền

Con cá nhám góc, mủm mỉm

Nó mủm mỉm đầm mình trong tiếng cười yên lặng dưới mặt biển

(Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến)

Gió thì yên lành quay vội qua tán lá

Cơn bão rung trống lặng tờ ở tận chân trời

(tựa một đàn trâu chạy trốn trong đám bụi)

Nắm đấm của bóng tối lao xuống chòm cây

Nó bỗng lật đổ cái cây đang đứng đam mê

giữa cảnh đời hạnh phúc khi nó thấy

trở nên đỏ tươi dưới mặt nạ lợn rừng của các đám mây

Kẻ giống hệt Người thì bây giờ ganh tị

và kín đáo đồng tình với vợ

Bóng tối dồn về ngăn tầng dưới

Cái ngăn tầng dưới tối đen lũ chim hải âu nhảy vọt

Trái tim ở bên mạn trái thuyền khoá miệng lại giữa khoảnh đá ngầm cản sóng

Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến

Đàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển

trong bộ áo vải các con tàu chết

lấm bụi của các bến biển cấm vào

Mòng biển màu tro: một cây mác sắt lưng bọc nhung

Nhìn gần, nó là một vỏ trứng gà bọc tuyết

đường mạch kín thầm toả ánh nhịp nhàng

Dây thần kinh phi công của nó cân bằng tuyệt diệu

Nó lượn. Nó mơ, không cần dựa vào dây chằng treo trong gió

một giấc mơ của kẻ đi săn về các lần mổ cắn chết mồi

Dìu dịu, hạ đôi cánh tham ăn xuống phía biển

quấn lấy con mồi như một chiếc tất ngắn

với một chút rung lay. Đoạn bay lên tựa một thần linh

(Sự phục sinh là một mối tương quan các

chúng bí hiểm hơn việc con chạch lần bò

Cây nở hoa cũng khó thấy

Cũng ví bằng con chó biển lông xám giữa giấc ngủ đáy biển khơi của nó

trườn lên trên mặt nước, tiếp tục thở lại và ngụp lại

vừa ngủ say trong đáy thẳm

Người-đang-ngủ trong tôi bí mật giao kết

với quan hệ nhân quả này đã về trở lại

trong khi cặp mắt tôi còn chăm chăm nhìn vào một vật khác)

Cái động cơ đi-ê-den bổ mạnh vào đàn chim

theo chiều dài các đá ngầm tăm tối, theo chỗ rạn nứt của bầy chim

lúc cái đói đã nở hoa bằng những hốc mòn há hốc

Người ta còn nghe tiếng chim kêu khi đêm xuống

một điệu nhạc phát sinh trước thời hạn và dường như bốc lên

từ hố ngồi của dàn nhạc khi buổi hoà nhạc chưa bắt đầu

Nhưng trên đại dương của tiền sử, Vainamoinen trôi giạt đi chệch hướng

lay động bởi các bao tay của sóng lừng

hoặc trải dài trong hoàn vũ phản chiếu cái thời buổi tạm yên từ đó chim ra đi và lớn lên

Từ một hạt rơi phất phơ xuống các mảnh đất

cuối biển khơi người ta thấy dồn lên sóng cả

bật lên một lớp sa mù

Một cây toả bao la, vỏ thân có vảy

lá cây mờ trong, và sau chúng

là các cánh buồm trắng phồng lên những ánh nắng khơi xa

Ánh nắng nhập đồng. Đại bàng bay lên

Xem thêm:  Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh

Ban ngày sụp đổ Dygnkantring

Stilla vaktar skogsmyran, ser i intet

in. Och intet hörs utom dropp från dunkla

lövverk och det nattliga sorlet djupt i

sommarens canyon.

Granen står som visaren på ett urverk,

taggig. Myran glöder i bergets skugga.

Fågel skrek! Och äntligen. Långsamt börjar

molnforan rulla.

Dịch

Đứng im, cái kiến rình mò, dò xét hư không

Hư không đồng tình, ở phía ngoài các giọt mưa rơi

trên lá thắm

và các tiếng thầm thì của nhạc đêm hè

Cây tùng bách đứng tựa như con trượt đồng hồ có khía răng cưa

Cái kiến tự chiếu sáng rực trong bóng mát

Tiếng chim kêu! Và thì chiếc xe mây

nhẹ nhàng tiến bước

Bản tin khí tượng

Oktoberhavet blänker kallt

med sin ryggfena av hägringar.

Ingenting är kvar som minns

kappseglingarnas vita yrsel.

En bärnstensdager över byn.

Och alla ljud i långsam flykt.

Ett hundskalls hieroglyf står målad

i luften över trädgården

där den gula frukten överlistar

trädet och låter sig falla.

Dịch

Đại dương tháng mười lóng lánh vô tư

với chiếc vây lưng những con quái vật biển đầu sư tử

Chẳng có gì nhắc lại

sự say sóng màu trắng của các cuộc đua thuyền

Một ánh ngời màu hổ phách xóm làng quê

và mọi tiếng ồn đều chậm rãi chạy trốn

Chữ tượng hình cổ của tiếng chó sủa

được vẽ lên trong không trung của các ngôi vườn

Tại đó một trái vàng lập mẹo với cây

tự rơi xuống đất

Bão táp Storm

Plötsligt möter vandraren här den gamla

jätteeken, lik en förstenad älg med

milsvid krona framför septemberhavets

svartgröna fästning.

Nordlig storm. Det är i den tid när rönnbärs-

klasar mognar. Vaken i mörkret hör man

stjärnbilderna stampa i sina spiltor

högt över träden.

Dịch

Bỗng nhiên, chiếc tàu viễn du gặp ở đó cây sồi to cổ thụ

tựa một tảng đá nhảy khổng lồ mà vòng vành nó rộng đến nhiều dặm giáp mặt với ngôi thành xanh lơ

của đại dương tháng chín

Bão táp phương Bắc. Cũng vào vụ các quả lê đã chín muồi.

Thức giấc trong đêm đen, người ta nghe các chòm tinh tú giậm chân trong các ngăn chuồng của chúng

cao hơn nhiều trên các tán lá cây

Bóng một người bơi âm thầm

Om en förhistorisk målning

på en klippa i Sahara:

en simmande mörk gestalt

i en gammal flod som är ung.

Utan vapen och strategi,

varken i vila eller språng

och skild från sin egen skugga:

den glider på strömmens botten.

Han slogs för att göra sig fri

ur en slumrande grön bild,

för att äntligen nå till stranden

och bli ett med sin egen skugga.

Dịch

Nhân bức tranh cổ đại

về một mỏm đá Sahara

bóng một người bơi âm thầm

trên dòng sông xưa nước xanh

Không vũ trang không chiến thuật

không nhảy không nghỉ ngơi

nhưng luôn cách với bóng của mình

bóng trôi dưới đáy dòng sông

Anh đấu tranh để gạt bỏ đi

một hình ảnh xanh xao lắng dịu

trở lại với bờ sông

đặng gắn làm một với bóng của mình

Bốn tính tình

Rannsakade ögat förvandlar solstrålarna till polisbatonger.

Och på kvällen: glammet från en fest i våningen inunder

skjuter upp som overkliga blommor genom golvet.

For på slätten. Mörker. Vagnen tycktes ej komma ur fläcken.

En anti-fågel skriade i stjärntomhet.

Albinosolen stod över kastande sjöar.

En man som ett uppryckt träd med kraxande löv

och en blixt i givakt såg den vilddjursdoftande

solen slå upp bland smattrande vingar på världens

klippö forsande fram bakom fanor av skum genom natt

och dag med vita sjöfåglar skränande

på däcket och alla med biljett till Kaos.

Det är bara att blunda så hör man tydligt

måsarna ringa söndag över havets oändliga socken.

En gitarr börjar knäppa i snåret och molnet vandrar

långsamt som den sena vårens gröna släde

med gnäggande ljuset förspänt-

kommer glidande isen.

Vaknade med väninnans klackar smällande i drömmen

och utanför två snödrivor som vinterns kvarglömda handskar

medan flygblad från solen dråsade över staden.

Vägen tar aldrig slut. Horisonten skyndar framåt.

Fåglarna skakar trädet. Dammet yr kring hjulen.

Alla rullande hjul som motsäger döden!

Xem thêm:  Đường chân trời - Lê Tuấn

Dịch

Con mắt dò xét lay động các tia mặt trời bằng dùi cui cảnh sát

Và ban đêm: trận cười ở phòng dưới lễ hội bắn lên

như những đoá hoa hồng không thực qua các rãnh mặt nền

Xe tôi chạy trên đồng bằng. Đêm tối. Chiếc xe con

dường như không muốn tránh các vết nhơ

Một cái bẫy chống chim rít kêu trong không trung đầy sao

Mặt trời bạch tạng trải trên các hồ mờ đục và hay đổi thay

Một người tựa một cây trụi lá bị chê bai ỉ eo

và một tia ánh đứng nghiêm, thảy đều nhìn vào một mặt trời

có mùi vị một con thú hoang dã

trỗi dậy giữa các đôi cánh ran nổ của hòn đảo lởm chởm đá

Mà cũng là các đôi cánh của hoàn vũ bốc lên

sau các ngọn cờ sóng biếc

giống như ban ngày với những con chim biển có giọng kêu the thé trên boong tàu

và dường như tất cả đều đã có một chiếc vé cho Sự Mất Trật Tự

Chỉ cần nhắm mắt đã nghe rõ ràng

chim hải âu đánh từng tiếng các chuông ngày chủ nhật

trên các xứ đạo vô biên của đại dương

Một chiếc đàn bấm dây tơ trên các cây của biển và đám mây nhẹ nhàng tiến bước

Cũng như các việc mà xe con màu xanh trượt tuyết mùa xuân đã làm vậy

trên đó ánh sáng cũng hí như ngựa đã được đóng mắc vào

nó đến bằng cách trườn mình trên các tảng băng

Được gót giày của các cô vang lên trong giấc mơ vừa thức tỉnh dậy

và bên ngoài, hai đống tuyết do gió dồn thổi vào giống những người khổng lồ

mà mùa đông đã để quên trong lúc truyền đơn của thái dương rải lên trong thành phố

Con đường chấm hết. Chân trời vội vàng cuộn lại

Chim lay động các cành cây. Bụi nhảy múa xung quanh bánh xe

Tất cả các bánh xe ấy đều quay và đều chối từ sự chết!

Buổi chiều – buổi sớm

Månens mast har murknat och seglet skrynklas.

Måsen svävar ducken bort över vattnet.

Bryggans tunga fyrkant är kolnad. Snåren dignar i mörkret.

Ut på trappan. Gryningen slår och slår i

havets gråstensgrinar och solen sprakar

nära världen. Halvkvävda sommargudar

famlar i sjörök.

Dịch

Cột buồm trắng mục cũ rồi

Cánh buồm nhàu nát bồi hồi biển xa

Hải âu say lượn sóng ca

Đá vuông lát bến đã là rã vôi

Cây gai ủ rũ nhánh vơi

Tôi bước ra khỏi nhà tôi bồn chồn

Rạng đông lấp lánh sương tuôn

Còn soi dãy đá ngăn cồn biển thu

Ánh trời vui thốt lời ru

Để gần với đất cho dù ở xa

Vị hè tắt vẫn bôn ba

Chen vào mù biển ngân nga sớm chiều

Các không gian đóng và mở Öppna och slutna rum

En man känner på världen med yrket som en handske.

Han vilar en stund mitt på dagen och har lagt ifrån sig

handskarna på hyllan.

Där växer de plötsligt, breder ut sig

och mörklägger hela huset inifrån.

Det mörklagda huset är mitt ute bland vårvindarna.

»Amnesti« går viskningen i gräset: »amnesti«.

En pojke springer med en osynlig lina som går snett

upp i himlen

där hans vilda dröm om framtiden flyger som en drake

större än förstaden.

Längre norrut ser man från en höjd den blå oändliga

barrskogsmattan

där molnskuggorna

står stilla.

Nej, flyger fram.

Dịch

Xỏ đôi găng tay hành nghề, một con người sờ soạng tìm hiểu thế giới

Đến ngọ, anh ta nghỉ ngơi: đặt đôi găng tay trên kệ giá

Tại đó, chúng lớn lên, và tự mở ra

làm tối đen cả nội thất ngôi nhà

Ngôi nhà u ám bị gió xuân bủa vây

Được ân xá, tiếng thì thầm qua cổ “Được ân xá”

Một em bé chạy, với một sợi dây vô hình nó đi thẳng lên trời

nơi mà bao giấc mơ điên nhất của nó bay lượn

như cái diều còn lớn hơn nhiều các vùng đất ngoại ô

Xa hơn nữa, từ một ngọn đồi, người ta trông thấy

bức thảm vô cùng xanh biếc của thông tùng

tại đó các đám mây trời

bỗng nhiên đứng ngừng lại

Không, nó bay đến phía ta!

Cái cây và bầu trời

Det går ett träd omkring i regnet,

skyndar förbi oss i det skvalande grå.

Det har ett ärende. Det hämtar liv ur regnet

som en koltrast i en fruktträdgård.

Då regnet upphör stannar trädet.

Det skymtar rakt, stilla i klara nätter

i väntan liksom vi på ögonblicket

då snöflingorna slår ut i rymden.

Dịch

Nhẹ nhàng cây bước dưới mưa

Bên tranh thuỷ mạc nước sa đúng mùa

Cây chắt sự sống từ mưa

Như khướu mượn sức trẻ thơ ngôi vườn

Khi mưa hết, cây dứt đường:

Thẳng cành, thanh nhã, đêm trường lặng yên

Như ta, ai đợi dịu hiền

Phút giờ tuyết trắng ảo huyền nở bung

Cánh đồng mùa hè Sommarslätt

Man har sett så mycket.

Verkligheten har tärt så mycket på en,

men här är sommaren till sist:

en storflygplats – trafikledaren tar ner

lass efter lass med frusna

människor från rymden.

Gräset och blommorna – här landar vi.

Gräset har en grön chef.

Jag anmäler mig.

Dịch

Tôi đã trông thấy nó nhiều

Thực tại làm mòn mỏi chúng ta

nhưng đây mùa hè đã đến

sân bay lớn này – trên đó người bẻ ghi

đưa xuống từ trời, người này sau người khác

một đám người bị rét cóng

Cỏ rồi hoa – chúng tôi xuống đây

Cỏ màu xanh

Tôi tự nhủ mình

Cặp vợ chồng Paret

De släcker lampan och dess vita kupa skimrar

ett ögonblick innan den löses upp

som en tablett i ett glas mörker. Sedan lyftas.

Hotellets väggar skjuter upp i himmelsmörkret.

Kärlekens rörelser har mojnat och de sover

men deras hemligaste tankar möts

som när två färger möts och flyter in i varann

på det våta papperet i en skolpojksmålning.

Det är mörkt och tyst. Men staden har ryckt närmare

i natt. Med släckta fönster. Husen kom.

De står i hopträngd väntan mycket nära,

en folkmassa med uttryckslösa ansikten.

Xem thêm:  Đọc những lá thư thời chiến Việt Nam - Phan Hoàng

Dịch

Họ tắt ngọn đèn, bầu sáng còn trong

đôi phút sau, ánh ngời tắt hẳn

như viên thuốc tan trong ly đựng đầy bóng tối

Vách tường khách sạn chói rạng trong trời đêm

Những vuốt ve của tình yêu đã hiền dịu lại

Họ ngủ nhưng tình cảm sâu xa vẫn nối liền nhau

hai sắc màu quấn quýt chan hoà

trên tờ giấy phớt bột hồ của hoạ sĩ

Thảy đều tối om, êm thấm. Nhưng trong đêm nay

thành phố như muốn xích tới gần

Mọi cửa sổ đều khép chặt. Các ngôi nhà đã rủ nhau vươn tới

Chúng đã có đây xếp kín hàng chờ đợi

một đám đông những con người vẻ mặt thản nhiên

Chân dung và bình luận

Här är porträtt av en man som jag kände.

Han sitter vid bordet med tidningen utslagen.

Ögonen slår sig ner bakom glasögonen.

Kostymen är tvättad med barrskogens skimmer.

Det är ett blekt och halvfärdigt ansikte. –

Men han ingav alltid förtroende. Därför

drog man sig för att gå honom nära

och kanske då stöta olycka.

Fadern hans tjänade pengar som dagg.

Men ingen gick ändå helt säker därhemma –

man hade en känsla av att främmande tankar

bröt sig in villan om nätterna.

Tidningen den stora smutsiga fjärilen,

stolen och bordet och ansiktet vilar.

Livet har stannat i stora kristaller.

Men låt det bara stanna tills vidare!

Det som är jag i honom vilar.

Det finns. Han känner inte efter

och därför lever det och finns.

Vad är jag? Ibland för länge sen

kom jag några sekunder helt nära

vad JAG är, vad JAG är, vad JAG är.

Men just som jag fick syn på JAG

försvann JAG och ett hål uppstod

och genom det föll jag som Alice.

Dịch

Đây chân dung một người tôi quen

Anh ngồi bàn, mở to tờ báo

Mắt anh nhìn đăm đăm sau kính lão

Ánh thông tùng phủ trắng áo anh

Mặt anh xanh, dường gọn gàng chút ít

Luôn khơi gợi được lòng tin

Người ta dè dặt đến bên anh

Ngại có thể sa vào một bi kịch

Ông cụ anh, lăn lộn trên vàng

Người ta bảo vậy – nhưng đâu có chắc

thảy đều những tư tưởng kỳ quặc

bằng bạo lực xông thẳng vào nhà chàng

Tờ báo này đưa những tin không đúng hẳn

thế mà cái bàn, cái ghế, cái chân dung

đều đọc nó, giải lao. Cuộc sống bỗng ngừng

Cuộc sống từ đó ra, trở thành khác dạng

Tôi nghĩ tôi tồn tại vì dựa vào anh ta

Anh chẳng hề thẩm tra

Lâu dài vẫn sống câu chuyện ấy

Tôi là ai? Từ lâu dài

đôi khi tôi có xích lại gần một tý

và TÔI là ai, TÔI là ai, TÔI là ai

Nhưng khi tôi tìm được TÔI

TÔI tự xoá, một khoảng trống hiện ra

tôi rơi vào chính nơi khoảng trống đó

Chim buổi sớm

Jag väcker bilen

som har vindrutan överdragen med frömjöl.

Jag sätter på mig solglasögonen.

Fågelsången mörknar.

Medan en annan man köper en tidning

på järnvägsstationen

i närheten av en stor godsvagn

som är alldeles röd av rost

och står flimrande i solen.

Inga tomrum någonstans här.

Tvärs genom vårvärmen en kall korridor

där någon kommer skyndande

och berättar att man förtalat honom

ända upp i styrelsen.

Genom en bakdörr i landskapet

kommer skatan

svart och vit, Hels fågel.

Och koltrasten som rör sig kors och tvärs

tills allt blir kolteckning,

utom de vita kläderna på tvättstrecket:

en palestrinakör.

Inga tomrum någonstans här.

Fantastiskt att känna hur min dikt växer

medan jag själv krymper.

Den växer, den tar min plats.

Den tränger undan mig.

Den kastar mig ur boet.

Dikten är färdig.

Dịch

Tôi đánh thức chiếc xe con dậy

mảnh gương chắn bụi rắc đầy chất bột

Mặc ánh mặt trời cho chiếc kính tôi đeo

Tiếng hót bầy chim mờ đi

Một người khác đang đi mua báo

ở ki-ốt nhà ga

không xa một toa chở hàng lớn

đầy rỉ bám đỏ

lấp lánh dưới mặt trời

Ở đây không chỗ nào có khoảng trống

Một hành lang băng giá qua cái ấm mùa xuân

một người nào đó bước vội đến

bảo với chúng tôi người ta vu khống anh

kể cả giới lãnh đạo cấp cao

Từ một khung cửa kín nhất trong cảnh quan

một con chim ác là bay đến

đen và trắng. Chim của nữ thần chết chóc

Con sáo nhảy nhót nơi đó nơi đây

đến nỗi làm ám đen cả bức tranh

những chiếc vắt trên dây phơi

là một hợp xướng của Palestrina

Ở đây không chỗ nào có khoảng trống

Tuyệt vời thấy bài thơ của tôi lớn lên

còn mình thì bị thu hẹp lại

Bài thơ lớn lên, ngồi vào chỗ của tôi

Nó loại tôi ra

Nó vứt tôi ra khỏi tổ

Bài thơ đã hoàn thành

Ensamhet

I

Här var jag nära att omkomma en kväll i februari.

Bilen gled sidledes på halkan, ut

på fel sida av vägen. De mötande bilarna –

deras lyktor – kom nära.

Mitt namn, mina flickor, mitt jobb

lösgjorde sig och blev kvar tyst bakom,

allt längre bort. Jag var anonym

som en pojke på en skolgård omgiven av fiender.

Mötande trafik hade väldiga ljus.

De lyste på mig medan jag styrde och styrde

i en genomskinlig skräck som flöt som äggvita.

Sekunderna växte – man fick rum där –

de blev stora som sjukhusbyggnader.

Man kunde nästan stanna upp

och andas ut en stund

innan man krossades.

Då uppstod ett fäste: ett hjälpande sandkorn

eller en underbar vindstöt. Bilen kom loss

och krälade snabbt tvärs över vägen.

En stolpe sköt upp och knäcktes – en skarp klang – den

flög bort i mörkret.

Tills det blev stilla. Jag satt kvar i selen

och såg hur någon kom genom snöyran

för att se vad det blev av mig.

II

Jag har gått omkring länge

på de frusna östgötska fälten.

Ingen människa har varit i sikte.

I andra delar av världen

finns de som föds, lever, dör

i en ständig folkträngsel.

Att alltid vara synlig – leva

i en svärm av ögon –

måste ge ett särskilt ansiktsuttryck.

Ansikte överdraget med lera.

Mumlandet stiger och sjunker

medan de delar upp mellan sig

himlen, skuggorna, sandkornen.

Jag måste vara ensam

tio minuter på morgonen

och tio minuter på kvällen.

– Utan program.

Alla står i kö hos alla.

Flera.

Nguyễn Xuân Sanh là một gương mặt nổi bật trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc. Với ngòi bút tinh tế và tài hoa ông biến hóa những bài thơ nổi tiếng trên thế giới thành tác phẩm dịch đặc sắc của mình khiến nhiều người thán phục. Cảm ơn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …