Home / Chùm thơ chọn lọc / Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 2

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 2

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 2

Thi sĩ Sanh luôn được quý độc giả yêu thích và đánh giá cao. Để được như vậy đó chính là một chặng đường cô gắng miệt mài đổi mới và định hình phong cách của ông. Những bài thơ được trau chuốt và đầy tâm huyết luôn được bạn đọc tìm kiếm và chiêm ngưỡng. Ngoài kho tàng thơ đầy màu sắc thì ông còn là một dịch giả nổi tiếng với nhiều thi phẩm dịch xuất sắc. Hãy cùng chúng tôi đón xem nhé!

Công thức những mùa đông

I

Jag somnade i min säng

och vaknade under kölen.

På morgonen klockan fyra

då tillvarons renskrapade ben

umgås med varandra kallt.

Jag somnade bland svalorna

och vaknade bland örnarna.

II

I lyktskenet är vägens is

glänsande som ister.

Det är inteAfrika.

Det är inteEuropa.

Det är ingenstans annat än ”här”.

Och det som var ”jag” är bara.

ett ord i decembermörkrets mun.

III

Anstaltens paviljonger

utställda i mörkret

lyser som TV-skärmar.

En dold stämgaffel

i den stora kölden

utsänder sin ton.

Jag står under stjärnhimlen

och känner världen krypa in

och ut i min rock

som i en myrstack

IV

Tre svarta ekar ur snön.

Så grova, men fingerfärdiga.

Ur deras väldiga flaskor

ska grönskan skumma i vår

V

Bussen kryper genom vinterkvällen.

Den lyser som ett skepp i granskogen

där vägen är en trång djup död kanal.

Få passagerare; några gamla och några mycket unga.

Om den stannade och släckte lyktorna

skulle världen utplånas.

Dịch

I

Tôi thiu thiu ngủ trên giường

và thức giấc trong lòng tàu

Bốn giờ sáng

khi xương cốt của đời đã được cọ nắn

trong rét buốt lại hỏi thăm nhau

Tôi thiu thiu ngủ giữa đàn chim én

và thức giấc giữa lũ đại bàng

II

Trong ánh đèn pha, băng của eo biển

chói lên như mỡ nước

Không phải Châu Phi

Không phải Châu Âu

Không phải nơi nào khác là “ở đây”

Cái mà tôi đã là “tôi”

chỉ còn nguyên một chữ

trong mầm của đêm tối

III

Những ngôi nhà nơi ẩn náu

nằm trong bóng đêm

sáng lên như màn ảnh vô tuyến truyền hình

Một âm thoa

giấu trong mùa tê lạnh

thốt lên âm giai của mình

Tôi đứng dưới bầu sao

cảm thấy thế giới đi vào

rồi thoát ra khỏi cái áo tôi khoác

như thoát ra khỏi một tổ kiến

IV

Ba cây giẻ thẫm đen dưới tuyết

Chúng thô nhưng khéo tay làm sao

Trong những chiếc lọ mênh mông của cây

lá xanh mùa xuân thức giấc như sủi bọt lên

V

Chiếc xe buýt lê bánh trong đêm đông

Chói lên như một con thuyền trong rừng thông

con đường là dòng sông chết, bó hẹp và lắng sâu

Khách ít: vài ông già và dăm cậu trai trẻ măng

Xe dừng, nếu vặn tắt đèn pha

mọi người bỗng như biến mất

Cung điện Palatset

Vi steg in. En enda väldig sal,

tyst och tom, där golvets yta låg

som en övergiven skridskois.

Alla dörrar stängda. Luften grå.

Målningar på väggarna. Man såg

bilder livlöst myllra: sköldar, våg-

skålar, fiskar, kämpande gestalter

i en dövstum värld på andra sidan.

En skulptur var utställd i det tomma:

ensam mitt i salen stod en häst,

men vi märkte honom inte först

när vi fångades av allt det tomma.

Svagare än suset i en snäcka

hördes ljud och röster ifrån

staden kretsande i detta öde rum,

sorlande och sökande en makt.

Också något annat. Något mörkt

ställde sig vid våra sinnens fem

trösklar utan att gå över dem.

Sanden rann i alla tysta glas.

Det var dags att röra sig. Vi gick

bort mot hästen. Det var jättelik,

svart som järn. En bild av makten själv

som blev kvar när furstarna gått bort.

Hästen talade: ”Jag är den Ende.

Tomheten som red mig har jag kastat.

Detta är mitt stall. Jag växer sakta.

Och jag äter tysnaden härinne”.

Dịch

Ta đi vào. Phòng rộng bao la

lặng và trống, nền hoa lóng lánh

như sân trượt pa-tanh bỏ vắng

Không gian xám xịt sắc chiều tà

Tranh trên tường. Hình ảnh không hồn

những tấm khiên rồi những đĩa cân

những con cá, những tên lính tráng

một thế giới điếc câm, tán loạn

Tượng điêu khắc dựng trong trống không

chính giữa phòng, mỗi một chú ngựa

từ đầu, ta vẫn không trông

bởi cảnh trống rỗng thu hút ta hơn nữa

Còn yếu hơn tiếng vỏ ốc chùng chiềng

nghe tiếng nói, tiếng ồn thành phố

quay trong không gian vắng hoang vô độ

rì rầm kêu, tìm kiếm uy quyền

Còn việc khác. Cái việc xì xào

đến cắm chặt ở năm ngõ vào

ngũ quan ta, không thể vào được

Trong cốc lặng im, cát đà trôi tuột

Đến lúc phải động đậy, trổ tài

Gần con ngựa, nó thật là to tát

đen như kim khí. Dáng oai

đứng đó, khi chúa nó đà đi mất!

Con ngựa bảo: “Ta là Độc Nhất

Ta đã đánh ngã ngựa cái trống-không từng cưỡi ta

Ta dần lớn lên. Đây chuồng của ta

Ta ăn sự lặng im mà nơi đây trải khắp”

Cuộc du hành Resan

På tunnelbanestationen.

En trängsel bland plakat

i ett stirrande dött ljus.

Tåget kom och hämtade

ansikten och portföljer.

Mörkret nästa. Vi satt

som stoder i vagnarna

som halades i hålorna.

Tvång, drömmar, tvång.

På stationer under havsnivån

sålde man mörkrets nyheter.

Folk var i rörelse, sorgset,

tyst under urtavlorna.

Tåget förde med sig

ytterkläder och själar.

Blickar i alla riktningar

på resan genom berget.

Ingen förändring ännu.

Men närmare ytan började

frihetens humlor surra.

Vi steg ur jorden.

Landet slog med vingarna

en gång och blev stilla

under oss, vidsträckt och grönt

Sädesax blåste in

över perrongerna.

Slutstationen! Jag följde

med bortom slutstationen.

Hur många var med? Fyra,

fem, knappast flera.

Hus, vägar, skyar,

blå fjärdar, berg

öppnade sina fönster.

Dịch

Trong ga tàu điện ngầm

Áp phích chen kề nhau

Trong ánh sáng mờ đều

Đoàn tàu đến để mang đi

những khuôn mặt người và những cặp tài liệu

Ga sau là bóng tối

Ngồi như tượng trong toa

trượt chạy qua các hầm

Gò bó, mộng mơ, lệ thuộc

Họ rao bán các tin đêm

nơi tàu dừng – theo toạ độ dưới mặt biển

Bóng người chuyển động, âu sầu, trầm mặc

và lặng im dưới mặt đồng hồ

Đoàn tàu chở đi xa

các áo khoác và bao tâm hồn

Ở mọi hướng vẫn cái nhìn

từ lúc ngao du trong núi

Chưa có gì khác hơn

Sắp ra khoỉe hầm tàu

Câu chuyện vẫn xôn xao

Chúng tôi bước lên mặt đất

Chỉ một lần thôi đất nước

vỗ cánh trước khi đứng lại

đất nước bao la, xanh tươi

Các bông lúa mì bay đến

trên các ke tàu điện ngầm

Cuối đường! Tôi ra đi

còn xa, xa hơn nữa

Chúng ta có bao nhiêu người?

Bốn, năm và hơn một chút

Những ngôi nhà, con đường, đám mây

vũng nước xanh, dãy núi

mở cửa sổ nhìn trời

Xem thêm:  Bài thơ Về quê thăm mẹ – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Cuối cùng của lao động

Mitt under arbetet

börjar vi längta vilt efter vild grönska,

efter Ödemarken själv, bara genomträngd

av telefontrådarnas tunna civilisation.

Fritidens måne kretsar kring planeten Arbete

med dess massa och tyngd. – Det är så de vill ha det.

När vi är på hemväg spetsar marken öronen.

Underjorden lyssnar på oss via grässtråna.

Också den här arbetsdagen finns en privat stillhet.

Som i ett rökigt inland där en kanal går:

BÅTEN visar sig oväntat mitt i trafiken

eller glider fram bakom fabriken, en vit luffare.

En söndag går jag förbi ett omålat nybygge

som står framför en grå vattenyta.

Det är halvfärdigt. Träet har samma ljusa färg

som skinnet på en som badar.

Utanför lamporna är septembernatten alldeles svart.

När ögonen vänjer sig ljusnar det något

över marker där stora sniglar glider fram

och svamparna är talrika som stjärnona.

Dịch

Trên mảnh đất xinh tươi của lao động

tôi mơ sắc xanh thời hoang sơ

tôi mơ các sa mạc lặng tờ

chỉ có dây điện thoại văn minh chuyển động

Trăng thở tự do bám hành tinh Lao động

cả khối hình, trọng lượng, thiết tha

Khi về nhà, đất vểnh tai nghe ngóng

Lá cỏ đưa tin, lòng đất ta

Ngày lao động có những lúc lặng im riêng

Như trong vùng ám khói có con sông nước chảy

CON TÀU hiện ra, không ai trông ngó mấy

như trôi sau nhà máy, con tàu trắng lang thang

Chủ nhật, gặp một ngôi nhà mới, chưa sơn

được dựng lên trước dòng nước xám

Xây cất sắp xong. Gỗ có màu tươi trơn

như da của ai vừa mới tắm

Phía sau đèn, đêm tháng chín màu đen

Khi mắt ta quen, ánh sáng trở về trên đất

tại đó xuất hiện nhiều con sên to tát

Cũng chốn này đấm đông đặc tựa sao đêm

Dạo đầu Preludium

Uppvaknandet är ett fallskärmhopp från drömmen.

Fri från den kvävande virveln sjunker

resenären mot morgonenes gröna zon.

Tingen flammar upp. Han fornimmer – i dallrande lärkans

position – de mäktiga trädrotsystemens

underjordiskt svängande lampor. Men ovan jord

står – i tropiskt flöde – grönskan, med

lyftande armar, lyssnande

till rytmen från ett osynligt pumpverk. Och han

sjunker mot sommaren, firas ned

i dess bländande krater, ned

genom schakt av grönfuktiga åldrar

skälvande under solturbinen. Så hejdas

denna lodräta färd genom ögonblicket och vingarna breddas

till fiskgjusens vila över ett strömmande vatten.

Bronsålderslurens

fredlösa ton

hänger över det bottenlösa.

I dagens första timmar kan medvetandet omfatta världen

som handen griper en solvarm sten.

Resenären står under trädet. Skall,

efter störtningen genom dödens virvel,

ett stort ljus vecklas ut över hans huvud?

Dấu ấn Spår

På natten klockan två: månsken. Tåget har stannat

mitt ute på slätten. Långt borta ljuspunkter i en stad,

flimrande kallt vid synranden.

Som när en människa gått in i en dröm så djupt

att hon aldrig ska minnas att hon var där

när hon återvänder till sitt rum.

Och som när någon gått in i en sjukdom så djupt

att allt som var hans dagar blir några flimrande punkter,

en svärm,

kall och ringa vid synranden.

Tåget står fullkomligt stilla,

Klockan två: starkt månsken, få stjärnor.

Dịch

Vào hai giờ sáng: ánh trăng. Xe hoả dừng lại

giữa đồng bằng. Xa xa, những chấm sáng thành phố

lấp lánh lạ lùng tận nơi cùng kiệt của mắt nhìn

Giống như khi một người đi khá sâu vào giấc mộng

đến nỗi anh không nhớ là mình đã cư trú nơi đó

lúc trở về gian phòng của anh

Giống như người ta đi vào sâu quá trong bệnh tình

đến nỗi tinh chất của tháng ngày chuyển thành các tia sáng

một lũ tia sáng vô nghĩa và nhạt nhẽo tận nơi cùng kiệt của mắt nhìn

Đoàn tàu hoàn toàn bất động

Hai giờ: một ánh trăng bất động. Và sao, cũng hiếm gặp

Dưới sức ép Under tryck

Den blå himlens motordån är starkt.

Vi är närvarande på en arbetsplats i darrning,

där havsdjupet plötsligt kan uppenbara sig –

snäckor och telefoner susar.

Det sköna hinner man bara se hastigt från sidan.

Den täta säden på åkern, många färger i en gul ström.

De oroliga skuggorna i mitt huvud dras dit.

De vill krypa in i säden och förvandlas till guld.

Mörkret faller. Vid midnatt går jag till sängs.

Den mindre båten sätts ut från den större båten.

Man är ensam på vattnet.

Samhällets mörka skrov driver allt längre bort.

Dịch

Tiếng động cơ từ xanh lớn

Chúng tôi đứng run trong chỗ việc đang làm

tại đó đáy biển khơi bất ngờ xuất hiện

vỏ sò và điện thoại có tiếng dội như nhau

Chúng ta chỉ thấy được cái đẹp ở phía này

Lúa mì trên các cánh đồng, khá nhiều màu sắc trên một con sông ửng vàng

tại đó những cái bóng nổi sóng, đổ lên trong đầu tôi

Chúng muốn thọc ngang qua các mì và tự đổi thành vàng

Bóng tối ngả xuống. Khuya, tôi lên giường

Chiếc thuyền nhỏ, con tàu lớn đã thả ra

Người ta trên sóng nước

Các vỏ trứng của làng quê còn trôi dạt xa hơn

Điệu ca ai oán Lamento

Han lade ifrån sig pennan.

Den vilar stilla på bordet.

Den vilar stilla i tomrummet.

Han lade ifrån sig pennan.

För mycket som varken kan skrivas eller förtigas!

Han är lamslagen av något som händer långt borta

fast den underbara kappsäcken dunkar som ett hjärta.

Utanför är försommaren.

Från grönskan kommer visslingar – människor eller fåglar?

Det går veckor.

Det blir långsamt natt.

Malarna sätter sig på rutan:

små bleka telegram från världen.

Xem thêm:  Ngồi quán (Thơ Vũ Hoàng Chương) phần Thi phẩm (1)

Dịch

Anh đặt cây bút xuống

Nó nghỉ yên trên bàn

Nó nghỉ trong hư không

Anh đặt cây bút xuống

Nhiều việc không viết được

cũng không thể để yên

Bị đờ đẫn, tê liệt

Bao việc ở nơi xa

dù túi đeo nhịp đập run rẩy

chính ta

Bên ngoài, mùa hạ chói chang

Rì rào cây xanh hát

Tiếng chim chuyền cành đang hót

Hay tiếng người nói, cười

Anh đào nở mơn mởn

Xe tải trở về nhà

Các tuần lễ đi qua

Ban đêm từ từ buông

Nhầy bọ trên gạch hoa:

những bức điện xanh gửi cho trần thế

Balakirev (1905)

Det sorte flygel, den glinsende edderkop

stod dirrende midt i sit net af musik.

I koncertsalen tonedes et land frem

hvor stenene ikke var tungere end dug.

Men Balakirev faldt i søvn under musikken

og drømte en drøm om tsarens droske.

Den rullede frem over klippesten

rakt ind i det krageskrattende mørke.

Han sad alene inde i vognen og så –

men løb dog ved siden af på vejen.

Han vidste, at rejsen havde varet længe

og hans ur viste år – ikke timer.

Det var en mark hvor ploven lå

og ploven var en nedstyrtet fugl.

Det var en bugt hvor fartøjet lå

indefrosset, med folk på dækket.

Drosken gled derhen over isen med en lyd og hjulene

spandt og spandt med en lyd af silke.

Et mindre krigsfartøj: “Sevastopol”.

Han var ombord. Besætningen kom frem.

“Du slipper for at dø hvis du kan spille.”

De pegede på et ejendommeligt instrument.

Det lignede en tuba, eller en fonograf,

eller en del af en ukendt maskine.

Stiv af rædsel, hjælpeløs forstod han: det er

det instrument der driver orlogsskibene.

Han vendte sig mod den nærmeste matros

tegnede fotvivlet med hånden og bad:

“Gør korstegnet som jeg, gør korstegnet som jeg!”

Matrosen stirrede sørgmodigt som en blind,

strakte armene ud, hovedet sank ned –

han hang som fastspigret i luften.

Trommerne gik. Trommerne gik. Bifald!

Balakirev vågnede op af sin drøm.

Han så manden ved flyglet rejse sig.

Bifaldets vinge smældede i salen.

Ude lå gaderne mørkelagt af strejken.

Droskerne rullede hastigt i mørket.

Dịch

Chiếc dương cầm cánh đen, dãy phím bóng loáng

rung êm giữa bản nhạc của người

Trong phòng hoà hoà nhạc dội lên tâm hồn một đất nước

các tảng đá từng không nặng trĩu hơn sương

Balakirev ngủ thiu thiu trong nét nhạc

và mơ xe ngựa mui gập của Sa hoàng

Xe chạy trên đường lát gạch hoa

Chìm trong bóng tối vang lên tiếng quạ kêu

Người ngồi một mình trong xe và nhìn ra ngoài

song lại thấy người chạy bên cạnh xe trên đường

Người biết rõ cuộc du hành dài giờ

đồng hồ của người không chỉ giờ mà chỉ năm

Người trông thấy cánh đồng, một chiếc cày nằm đó

là một con chim bị rơi xuống đất

Người trông thấy một vũng nước trong đó một chiếc tàu

bị vây trong băng giá, đèn tắt ngấm, mọi người đều đứng trên boong

Xe ngựa mui gập chạy đằng kia trên băng

bánh nó quay, quay trong tiếng nhẹ nhàng tơ mịn

Một chiếc tàu chiến nhỏ: tàu Xê-bát-xtô-pôn

Neo ở bến. Đoàn thuỷ thủ đến gần

“Ông sẽ còn sống nếu ông biết chơi với nó”

Họ chỉ cho ông xem một vật dụng lạ kỳ

Giống một tuba nhạc khí loại kèn hay một máy hát

hoặc một loại máy mà ông chưa hề biết

Bối rồi rồi bị sững sờ vì lo sợ, ông bèn hiểu rằng

một dụng cụ làm cho các tàu chiến chạy

Ông quay về phía người thuỷ thủ đứng gần nhất

làm một cử chỉ vô hy vọng và khẩn nài anh:

“Hãy làm dấu thập ác như ta, dấu thập ác!”

Thuỷ thủ buồn thiu ngắm ông như một người mù

Anh dang tay ra và đầu ngả xuống

đứng sững như trời trồng

Các trống rung lên. Tiếng trống gầm lên. Tiếng chúc muôn năm!

Balakirev nhô lên trên giấc chiêm bao

Cánh bay của các tiếng hoan nghênh vang lên trong phòng

Người thuỷ thủ trông thấy nhà chơi dương cầm đứng dậy

Bên ngoài các con đường đều bị cuộc đình công làm cho tối lại

Những chiếc xe ngựa mui gập vội vàng luồn vào đêm đen

Gogol

Kavajen luggsliten som en vargflock. Ansiktet som en marmorflisa. Sitter i kretsen av sina brev i lunden som susar av hån och misstag, ja hjärtat blåser som ett papper genom de ogästvänliga passagerna.

Nu smyger solnedgången som en räv över detta land, antänder gräset på ett ögonblick. Rymden är full av horn och klövar och därunder glider ­kaleschen skugglik mellan min faders upplysta gårdar.

Petersburg beläget på samma breddgrad som förintelsen (såg du den sköna i det lutande tornet) och kring nedisade kvarter än svävar manetlikt den arme i sin kappa.

Och här, insvept i fastor, är han som förr omgavs av skrattens hjordar, men de har för länge sedan begivit sig till trakter långt ovanför trädgränsen.

Människors raglande bord. Se ut, hur mörkret bränner fast en vintergata av själar. Så stig upp på din eldvagn och lämna landet!

Dịch

Một chiếc áo ngắn mòn sờn, giống như một bầy đàn chó sói

Một khuôn mặt tựa một mảnh đá cẩm thạch vỡ

Ngồi giữa một đống thư từ, trong khoảng rừng cây ấy

nó run lập cập toàn những châm chọc mỉa mai, toàn những sự hiểu lầm

và trái tim ông bay bổng lên như một tờ giấy trong các ngõ hẻm không hiếu khách

Giờ này, mặt trời lặn chảy trơn như một con chồn cáo trên các khoảnh đất đai nung đốt trong giây lát

Không gian chứa đầy sừng và móng vuốt

và dưới phía thấp hơn

chiếc xe ngựa mui gập trôi như một chiếc bóng giữa các ngôi vườn sáng chói của bố tôi

Petersburg ở cùng vĩ tuyến với sự đau buồn

(bạn có trông thấy cô gái đứng nghiêng mình trong ngôi tháp của cô ta?)

và tại ngoại vi các phường đầy sương giá, con người cùng khổ ấy còn lượn đi lượn lại trong áo khoác của ta, như một con sứa

Và giữ nếp như trong tuần chay tịnh của anh, đây con người mà ngày xưa các bầy lũ của sự cợt nhả đã vây quanh,

các bầy lũ này dài đã đến nhập cuộc trong các vùng xa hơn nhiều với biên giới của vô vàn cây cối

Chiếc bàn lắc lư của các con người

Bạn hãy nhìn xem ban đêm đã thiêu huỷ đến chừng nào sông Ngân hà

của các tâm hồn

Bạn hãy bước lên chiếc xe bốn bánh của ngọn lửa thiêng

Xem thêm:  Chơi vơi

Hoà bình trị vì trên sống mũi tàu sôi sục

I den forsande stäven är vila

En vintermorgon förnimmes hur denna jord

vältrar sig fram. Mot husets väggar

smattrar ett luftdrag

ur det fördolda.

Omflutet av rörelse: stillhetens tält.

Och det hemliga rodret i flyttfågelsflocken.

Ur vinterdunklet

stiger tremulo

från dolda instrument. Det är som att stå

under sommarens höga lind, med tiotuen

insektsvingars

dån över sitt huvud.

Dịch

Một sớm mùa đông, tôi cảm thấy

trái đất đi về phía trước bằng cách tự lăn tròn

Một nhịp thở của không khí

đến từ lòng đất sâu kín

lộp bộp trên các tường nhà

Tắm trong sự chuyển động: chiếc lều của lặng im

Bánh lái huyền vi của một đám chim mùa di trú

Điệu rung giọng các nhạc cụ cất giấu đâu đó

bay lên từ bóng dáng mùa đông

Dường đâu lúc chúng ta đây

dưới tán cây đoạn lớn mùa hè

với tiếng vù vù

của hàng chục triệu

cánh côn trùng bay trên ta

Izmir vào lúc ba giờ

Strax framför på den nästan tomma gatan

två tiggare, den ene utan ben

–han bars omkring på ryggen av den andre.

De stod – som på en midnattsväg ett djur

står bländat stirrande i bilens lyktor

–ett ögonblick och fortsatte att gå

och rörde sig som pojkar på en skolgård

snabbt över gatan medan middagshettans

myriader klockor tickade i rymden.

Blått gled förbi på redden, flimrande.

Svart kröp och krympte, stirrande ur sten.

Vitt blåste upp till storm i ögonen.

När klockan tre var trampat under hovar

och mörkret bultade i ljusets vägg

åg staden krypande vid havets dörr

och glimmande i gamens kikarsikte.

Dịch

Cách con đường có ít khách đi một chút

hai người hành khất, một cụt chân

và người kia cõng trên lưng đưa đi nơi này nơi khác

Họ dừng lại – như trên con đường khuya

một con vật mắt bị chói nhìn chằm chằm vào đèn pha mỗi một chiếc xe

họ dừng lại một lúc rồi tiếp bước

Cũng nhanh như học trò trên sân chơi

họ băng qua đường trong khi vô số đồng hồ nóng như thiêu

kêu tích tắc trong không gian trưa

Từ nó đi qua trên bờ biển bằng những cuộc trượt dài cháy lửa

Từ màu đen nó bò lê rồi tự xoá mất, cặp mắt nhớn nhác trong mô đá

Từ màu trắng nó thổi thành đại phong vào mắt nhìn

Khi chân đã bước trong ba tiếng đồng hồ

bóng tối đập vào tường của ánh sáng

Thành phố bò lê ở các cửa biển

Chói long lanh trong mắt kính kền kền

Khi chúng ta từ các đảo xa trở về

När båten nalkas därute

kommer ett slagregn och gör den blind

Kvicksilverkulorna ryser på vattnet.

Det blågrå lägger sig ner.

Havet finns också i stugorna.

En strimma i farstuns mörker.

Tunga steg på övervåningen

och kistor med nystrukna leenden.

En indisk orkester av kopparkärl.

En baby med ögon i sjögång.

(Regnet börjar försvinna.

Röken tar några stapplande steg

i luften över taken.)

Här följer mera

som är större än drömmar.

Stranden med alarnas kyffen.

Ett plakat med påskriften KABEL.

Den gamla ljungheden lyser

för någon som kommer flygande.

Bakom klipporna rika tegar

och fågelskrämman vår utpost

som vinkar färgerna till sig.

En alltid ljus förvåning

när ön räcker ut en hand

och drar mig upp ur sorgsenhet.

Dịch

Khi tàu vào gần

mưa rào đổ xuống che lấp nó

Trên sóng rung rinh mấy giọt thuỷ ngân

màu xám xanh trải ra càng rõ

Đại dương vào tận các túp lều

Ánh mờ trộn với bóng đêm gian phía trước

Trên gác lửng ai kia nặng bước

hòm gỗ cười tươi lại mới sơn đều

Dàn nhạc thổ dân tân thế giới

bình chậu bằng đồng reo tiếng reo khơi gợi

Một đứa trẻ sơ sinh

cặp mắt sóng lừng xinh

(Cơn mưa dần ngớt

Khói bước từng bước một

trong không gian

trên mái nhà lơ lửng bàng hoàng)

Tiếp đây vẫn còn những thư

lớn hơn trong chiêm bao

Bãi biển và hốc trú cá chình

Một áp phích ghi DÂY CÁP

Khoảnh trăng già nua sáng gấp

báo trước cho ai thường đến vỗ cánh bay nhanh

Đất màu mỡ

sau mỏm đá

canh

kêu gọi kéo cờ

Sự ngạc nhiên

có thể lớn hơn

khi hòn đảo quê bắt tay tôi

kéo tôi ra khỏi nỗi buồn

Khổ thơ và khổ thơ hồi

Den yttersta kretsen är mytens. Där sjunker rorgängaren

upprätt

bland glittrande fiskryggar. Hur långt från oss!

När dagen står i en kvav och vindlös oro –

som Kongos gröna skugga håller

blåmännen i sin dunst –

när all denna drivved på hjärtats trögt

slingrande flod

tornar upp sig.

Plötslig förändring: in under himlakropparnas vila

glider de tjudrade.

Med aktern högt, i hopplöst

läge, står skrovet av en dröm, svart

mot ljusrött kustband. Övergivna

störtar sig åren, snabbt och ljudlöst – som slädskuggan, hundlik, stor

far över snö,

hinner skogen.

Dịch

Vòng ngoài là vòng của huyền thoại. Tại đó kẻ đục khoét chìm đắm trong chết đứng

giữa lưng những con cá chói chang

Xa chúng ta đến vậy sao! Lúc mà ban ngày được tóm tắt trong một công việc làm nghẹt thở do vắng gió

tựa như bóng xanh lá cây của Congo

tại đó những con người mặc áo quần xanh nín thở

khi mà gỗ đóng bè trôi sông

chất đống theo chiều dài con nước

trong tình tiết lắt léo lười biếng của con tim

Một sự xáo trộn bất ngờ: những người bị xích xiềng trượt dài dưới sự nghỉ ngơi của các bản thể nhà trời

Đuôi thuyền vểnh cao trong một trạng thái tuyệt vọng

cái vỏ của mộng mơ tách ra

màu đen trên nền đỏ nhẹ của đất bờ

Bị bỏ rơi, các mái chèo rơi vội xuống và không có tiếng động

tựa bóng xe con trượt tuyết

giống như một con chó to

nó chạy trên băng giá

và trở lại với rừng cây

Nguyễn Xuân Sanh là một nhà thơ sở hữu một số lượng thơ đồ sộ được người đời ca tụng và tìm kiếm. Trên đây là những thi phẩm dịch xuất sắc của ông, qua đó chúng ta thêm phần ngưỡng mộ khả năng sáng tác tuyệt đỉnh của thi sĩ này. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết!

Xem Thêm : Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 1

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …