Home / Chùm thơ chọn lọc / Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 3

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 3

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 3

Trong làng thơ ca Việt Nam, Nguyễn Xuân Sanh được mọi người biết đến là một nhà thơ đa tài. Ngoài là một nhà thơ xuất chúng, ông còn là một nhà dịch giả nổi tiếng được mọi người kính trọng và ngợi ca. Chùm thơ dịch của ông được bạn đọc tìm đến để rồi thán phục trước tài năng trời phú hiếm có của Nguyễn Xuân Sanh. Nếu bạn là một người yêu thơ ca chắc hẳn sẽ không thể bỏ lỡ những tuyệt phẩm giá trị này phải không? Hãy cảm nhận qua bài viết của chúng tôi nhé!

Khúc bi thương Elegi

Vid utgångspunkten. Som en stupad drake

i något kärr bland dis och dunster, ligger

vårt granskogsklädda kustland. Långt därute:

två ångare som ropar ur en dröm

i tjockan. Detta är den nedre världen.

Orörlig skog, orörlig vattenyta

och orkideens hand som sträcks ur myllan.

På andra sidan, bortom denna farled

men hängande i samma spegling: Skeppet,

som molnet tyngdlöst hänger i sin rymd.

Och vattnet kring dess stäv är orörligt

i stiltje lagt. Och ändå stormar det!

och fartygsröken blåser vågrätt ut –

där fladdrar solen i dess grepp – och blåsten

står hårt mot ansiktet på den som bordar.

Att ta sig uppför Dödens babordssida.

Ett plötsligt korsdrag och gardinen fladdrar.

Tystnaden ringer som en väckarklocka.

Ett plötsligt korsdrag och gardinen fladdrar.

Tills avlägset en dörr hörs slå igen

långt borta i ett annat år.

O marker grå som Bockstensmannens kapprock!

Och ön som svävar mörk i vattenröken.

Det råder stillhet som när radarn svänger

sitt varv på varv i övergivenhet.

Det finns en korsväg i ett ögonblick.

Distansernas musik har sammanströmmat.

Allt sammanvuxet till ett girigt träd.

Försvunna städer glittrar i dess grenverk.

Från överallt och ingenstans det spelar

som syrsor i augustimörkret. Insprängt

som timmerbaggar, slumrar här i natten

torvmossens dräpta färdman. Saven driver

hans tanke upp mot stjärnorna. Och djupt

i berget: här är flädermössens grotta.

Här hänger åren, gärningarna tätt.

Här sover de med sammanfällda vingar.

En dag skall dessa flyga ut. Ett vimmel!

(På avstånd som en rök ur grottans mynning.)

Men ännu råder sommarvintersömnen.

På avstånd vattensorl. I mörka trädet

ett löv som vänder sig.

En sommarmorgon fastnar bondens harv

i döda ben och klädestrasor. – Han

låg alltså kvar när torvmossen dränerats

och står nu upp och går sin väg i ljuset.

I varje härad virvlar gyllne frön

kring gammal skuld. Den pansarklädda skallen

i åkerjord. En vandringsman på vägen

och berget följer honom med sin blick.

I varje härad sorlar skyttens rör

vid midnattstid när vingarna slår ut

och det förflutna växer i sin störtning

och mörkare än hjärtats meteorsten.

En andens bortvändhet gör skriften glupsk.

En flagga börjar smälla. Vingarna

slår ut kring rovet. Denna stolta färd!

där albatrossen åldras till ett moln

i Tidens gap. Kulturen är en valfångststation,

där främlingen på promenad

bland vita husgavlar och barn som leker

ändå med varje andetag förnimmer

den dräpte jättens närvaro.

Lätt återkastas himlasfärers orrspel.

Musiken, skuldfri i vår skugga, som

fontänens vatten stiger mellan vilddjur,

konstrikt förstenade kring vattenstrålen.

Med stråkarna förklädda till en skog.

Med stråkarna som riggen i ett störtregn –

kajutan vräks under ett störtregns hovar –

och innerst, i kardanupphängning, glädjen.

I afton återspeglas världens stiltje,

när stråkarna satts an men inte rörs.

Orörliga i dimman skogens träd

och vattentundran speglande sig själv.

Musikens stumma hälft är här, som doften

av kåda står kring åskskadade granar.

En underjordisk sommar hos var man.

Där lösgör sig, vid korsvägen, en skugga

och spränger bort i bachtrumpetens riktning.

Av nåd ges plötslig tillförsikt. Att lämna

sin jagförklädnad kvar på denna strand,

där vågen slår och sjunker undan, slår

och sjunker undan.

Dịch

Nơi xuất phát lên đường. Dải bờ của chúng ta

phủ rừng thông trải dài, như một con rồng bại trận

trong đám than bùn, giữa sa mù và hơi nước. Và ở xa:

hai tàu chở hàng gọi chúng ta từ đáy một giấc mơ

Giấc mơ được bọc trong sương mờ. Thế gian nơi đây là vậy

Rừng cây trơ ì, mặt nước im lìm

bàn tay cây lan dơ qua bãi đất bùn

Từ phía bên kia, sau đường lạch

Vẫn treo lên các dãy ánh ngời: chiếc tàu mây

đã mắc nó lên trong không gian không trọng lượng

Xung quanh chiếc tàu đắm, nước như đặt lên chỗ quang trời

Tuy bão táp vẫn hoành hành!

Khói con tàu thổi chéo về chiều ngang

nơi nắng trời uốn cong dưới sự chi phối của nó

và gió đập vào mặt những ai muốn cập bờ

Trèo lên mạn trái của Sự Chết

Một luồng gió cuốn gấp và các màn gợn sóng nhấp nhô

Sự im lặng bỗng reo lên như đồng hồ gọi reo sáng sớm

Một luồng gió cuốn gấp và các màn gợn sóng nhấp nhô

Cho đến khi một cánh cửa đóng sập ở khơi xa

Nơi rất xa, trong một năm khác hẳn

Ôi những đất đai cũng xám xịt như chiếc áo khoác của Con Người các đầm lầy!

Và đảo đen trôi giữa hơi nước biển

Tại đó sự im lặng trị vì, giống như khi rađa quay đi và quay lại

trong sự từ bỏ ý định của nó

Trong mỗi khoảnh khắc đều có một ngã tư

Ca khúc của các khoảng cách tìm lại được ở đó

Tất cả đều hoà trộn vào một cái cây rậm lá

Các thành phố đã qua đời từng lấp lánh trong càn nhánh

Ở khắp mọi nơi và không ở nơi đâu

Bản nhạc giống như bài lũ dế hát trong đêm tháng tám

Mang lấm tấm vết tựa sâu bọ cánh cứng, người lữ hành bị ám sát

ngủ đêm trong đám than bùn

Nhựa sống làm cho tư tưởng bay lên với tinh tú

Sâu trong núi: sào huyệt của dơi

Ở đó, đeo thành hàng chặt chẽ các hành động, các tháng năm

Cũng ở đó, ngủ các cánh chim xếp gọn

Một ngày nào đó, chúng sẽ ra đi. Ôi gió lốc!

(Xa xa, khói thoát ra khỏi hốc hang)

Nhưng thời nghỉ đông của mùa hè chưa chấm dứt

Đâu đây, nghe có tiếng nước rì rào. Cây bị phủ tối

một ngọn lá lật quay lưng nó lại

Một sớm hè chiếc bừa của nông dân

móc gặp xương một người chết, áo quần rách nát

Người ấy có mặt tại đây ngày nông dân tát nước đầm lầy

và đây anh ta đứng dậy và ra đi đến với ngày lớn

Trong mỗi vùng đất, các hạt vàng quay tít

xung quanh một tội lỗi cũ.

Một chiếc sọ bọc sắt trong đất cày vỡ. Một người đi dạo trên đường

và ngọn núi giương mắt nhìn theo dõi anh ta

Đầu óc khi đổi hướng thì chữ viết cũng có vẻ phàm ăn

Một con bướm đập cánh, đôi cánh mở ra xung quanh một miếng mồi

Cuộc hành trình cao quý biết bao nhiêu

con hải âu lớn trở nên già đi trong Miệng của Thời gian

Văn hoá là một giai đoạn cho những người đi săn cá ông

trong đó có người dạo chơi giữa các ngôi nhà sơn trắng

và các trò chơi của các cháu trẻ thơ

mỗi lần anh cảm nhận là anh thở

thấy sự hiện diện của người khổng lồ bị ám sát

Mùa sinh sản của các thiên cầu nhẹ nhàng được dội lại

Nhạc điệu, trong trắng nơi dáng nét của nó

tựa nước nơi suối nước phun giữa lũ vật hoang dã

được kết tinh lại một cách đầy thẩm mĩ xung quanh một trò chơi của nước

Với các vĩ đàn biến dạng thành rừng

Với các vĩ đàn như những dụng cụ thể dục dưới mưa rào

một buồng tàu thuỷ dưới gót guốc trận mưa

và bên bề sâu, trong phút ngừng con quay hồi chuyển

là niềm vui

Đêm nay xuất hiện thời kỳ tạm yên của

khi các vĩ đàn được giơ lên, không hề nhúc nhích

Yên lặng trong sương mù, cây của rừng cây

và lãnh nguyên của nước trong vô vàn óng ánh

Phân nửa im lặng của nhạc, giống như hương thơm của nhựa

bao bọc các cây thông mà sấm sét đã gây thương tích

Một mùa hè trong đáy sâu của mỗi chúng ta

Gặp ở đó, đã rã tan một cái bóng

Cái bóng đã lao về phía các kèn đồng của nhạc Bach

Ơn huệ đã bỗng chốc cho chúng ta một niềm tự tin

Để lại bộ áo của cái tôi trên bờ biển này

tại đây sóng đã rút lui và tự đập vỡ, đã rút lui

và tự đập vỡ

Khúc ca Kyrie

Undertiden slog mit liv øjnene op i mørke.

En følelse som om folkemasser drog gennem gaderne

i blindhed og uro på vej til et mirakel,

mens jeg usynligt bliver stående.

Som barnet falder i søvn med angst

lyttende til hjertets tunge skridt.

Længe, længe til morgenen sætter strålerne i låsen

og mørkets døre åbner sig.

Xem thêm:  Chùm thơ tình yêu đơn phương buồn nhưng rất hay

Dịch

Đôi khi, cuộc đời tôi mở mắt vào bóng tối

Như thể nhìn đi qua trên các con đường những toán mù quáng và nhộn nhịp

tìm cách bước vào một kỳ quan

không ai thấy, tôi dừng đứng lại

Như khi em bé ngủ, kinh hoàng

các bước đi nặng nề của lòng nó

Khá lâu, khá lâu, cho đến khi ban mai

vứt tia ánh trời vào lỗ các ổ khoá

và đến tận khi các cửa của bóng tối được mở toang ra

Khúc nhạc nhanh Allegro

Jag spelar Haydn efter en svart dag

och känner en enkel värme i händerna.

Tangenterna vill. Milda hammare slår.

Klangen är grön, livlig och stilla.

Klangen säger att friheten finns

och att någon inte ger kejsaren skatt.

Jag kör ner händerna i mina haydnfickor

och härmar en som ser lugnt på världen.

Jag hissar haydnflaggan – det betyder:

»Vi ger oss inte. Men vill fred.«

Musiken är ett glashus på sluttningen

där stenarna flyger, stenarna rullar.

Och stenarna rullar tvärs igenom

men varje ruta förblir hel.

Dịch

Tôi chơi nhạc Hây-dơn

sau một ngày đen tối

cái ấm áp giản đơn

sưởi bàn tay nóng hổi

Phím đàn đều hoà hợp

Âm vang dồn lớp lớp

Cung điệu rợp

rộn rã và tinh anh

Phong thái khá hài hoà

nói: tự do là thật

ta không trả tô đắt

cho vua chúa thối tha

Tôi đút tay vào túi

như nhạc sư Hây-dơn

báng nhại sự bê bối

những ai nhìn thế giới tươi trong

Tôi kéo lên ngọn cờ Hây-dơn

thoả thuê mà :

“Ta không chịu đầu hàng

Nhưng hoà bình là điều ta muốn”

Nhạc là ngôi nhà gương

đặt lên trên bờ dốc

Ở đó những hòn đá chạy

ở đó những hòn đá bay

Và những hòn đá chạy

băng suốt qua ngôi nhà

các cửa làm bằng kính

vẫn giữ được y nguyên

Khúc tuỳ hứng Caprichos

Det mørkner i Huelva: sodede palmer

og togfløjtets jagende

sølvhvide flagermus.

Gaderne er fuldeaf mennesker.

Og damen der haster i trængslen vejer forsigtigt

det sidste dagslys påsineøjnes vægt.

Kontorets vinduer åbne. Endnu høres det

hvordan hesten tramper derinde.

Den gamle hest med stemplernes hove.

Først efter midnat bliver gaderne tomme.

Der er endelig blåt på alle kontorer.

Deroppe i himmelrummet:

travende tavst, gnistrende ogsort,

uset og ubundet,

med rytteren kastet af:

et nyt stjernebillede somjeg kalder “Hesten”

Dịch

Đêm xuống trên Huelva: những cây cọ phủ đầy bồ hóng

tiếng còi xe lửa chạy đi xa

những con dơi màu lông bạc

Các con đường đầy người

Quý bà rẽ lớp người đông

cân cẩn thận ánh sáng cuối ngày trên bàn cân của con mắt

Cửa sổ các bàn giấy đều mở

Từ đó người ta còn nghe ngựa dẫm bước chân

Con ngựa già có các móng chân dễ húc vặt

Chỉ có sau nửa đêm các con đường mới vắng người đi

Cuối cùng là lúc các bàn giấy tắt hết đèn

Và trên cao kia, khoảng không:

phóng trong lặng lẽ, đen và chói sáng

không trông thấy được và được giải phóng tự do

một khi người cưỡi đã bị ngã nhào:

hành tinh mới ấy mà tôi gọi là “Con Ngựa”

Lịch sử những thuỷ thủ Skepparhistoria

Det finns barvinterdagar då havet är

släkt med bergstrakter, hukande i grå

fjäderskrud, en kort minut blått, långa

timmar med vågor som bleka lodjur,

fåfängt sökande fäste i strandgruset.

En sådan dag går väl vraken ur havet

och söker sina redare, bänkade i stadens

larm, och drunknade besättningar

blåser mot land, tunnare än piprök.

(I norr går de riktiga lodjuren, med

vässta klor och drömmande ögon. I norr

där dagen bor i en gruva både dag och natt.

Där den enda överlevande får sitta vid

norrskenets ugn och lyssna till de ihjäl

frusnas musik.)

Dịch

Có những ngày mùa đông không tuyết

trong đó đại dương là bà con với một đất nước miền núi

được phủ che bằng các đồ trang sức bằng lông màu xám

một khoảnh khắc ngắn màu xanh, nhiều giờ dài với các đợt sóng như các linh miêu xanh xao

tìm kiếm vô ích một chỗ dựa trên sỏi bờ biển

Các ngày ấy những xác thuyền đắm rời đại dương để đi tìm chủ tàu buôn, đến sống trong tiếng ồn ào thành phố

và các đoàn thuỷ thủ vút bay vào đất liền, còn nhẹ thoáng hơn là khói các tẩu thuốc hút

Chính tại phương Bắc mới có những con linh miêu thực, móng vuốt mài sắc và cặp mắt mộng mơ

Tại phương Bắc, sống tại trong hầm mỏ, ngày cũng như đêm

Tại đó, người độc nhất được sống sót có thể ngồi gần bên lò sưởi của bình minh phương Bắc và ngồi nghe khúc ca của những người bạn đã chết cóng từ lâu

Lissabon

I stadsdelen Alfama sjöng de gula

spårvagnarna i uppförsbranterna.

Där fanns två fängelser.

Ett var för tjuvarna.

De vinkade genom gallerfönstren.

De skrek att de ville bli fotograferade!

“Men här”, sa konduktören och fnittrade

som en kluven människa

“här sitter politiker”.

Jag såg fasaden, fasaden,

fasaden och högt uppe i ett fönster en man

som stod med en kikare för ögonen

och såg ut över havet.

Tvättkläderna hängde i det blå.

Murarna var heta.

Flugorna läste mikroskopiska brev.

Sex år senare frågade jag en dam från

Lissabon:

“Är det riktigt, eller har jag drömt det?”

Dịch

Tàu điện sơn vàng

hát trong đường dốc lên Afama

Trước có hai nhà tù

Một cho bọn ăn trộm

Chúng nó lắc lư tay trong song sắt cửa sổ

Chúng kêu la muốn được chụp hình!

“Nhưng mà ở đây”, người chủ sự nói với tôi

cười khẩy chần chừ:

“Tù chính trị bị nhốt ở đây”

Tôi nhìn phía trước mặt nhà

một người

tại cửa sổ trên cao

đặt ống nhóm lên mắt và ngắm biển

Áo quần giặt phơi ngoài trời

Tường đều nóng bỏng

Ruồi đánh vần

từng hàng chữ bé xíu

Sáu năm sau tôi hỏi một bà

ở Lissabon:

“Trước đây là như vậy hoặc tôi đã nằm mơ?”

Lòng cảm phục Hommages

Gick längs den anti poetiska muren.

Die Mauer. Inte se över.

Den vill omge vårt vuxna liv

i rutinstaden, rutinlandskapet.

Eluard rörde vid någon knapp

och muren öppnade sig

och trädgården visade sig.

Förr gick jag med mjölkhinken genom skogen.

Violetta stammar på alla sidor.

Ett gammalt skämt hängde därinne

lika vackert som ett votivskepp

Sommaren läste ur Pickwickklubben.

Det goda livet, en lugn vagn

fullsatt med upprörda gentlemän.

Slut ögonen, byt hästar.

I nöden kommer barnsliga tankar.

Vi satt vid sjuksängen och bad

om en paus i terrorn, en bräsch

där pickwickarna kunde dra in

Slut ögonen, byt häst ar

Det är lätt att älska fragment som

har varit på väg länge.

Inskriptioner på kyrkklockor

och ordspråk tvärs over helgon

och flertusenåriga frön

Archilochos! – In get svar

Fåglarna strök över havet s ragg.

Vi låste oss inne med Simenon

och kände lukten av männi s kolivet

där följetongerna utmynnar

Känn lukten av sanning

Det öppna fönstret bar stannat

framför trädtopparna här

och aftonhimlens avskedsbrev.

Shiki, Björling och Ungaretti

med livets kritor på dödens tavla.

Dikten som ä r fullkomligt mojlig.

Jag såg upp då grenarna svängde.

Vita måsar åt sva rta körsbär.

Dịch

Đi theo chiều dài bức tường phản thơ

Chớ nhìn lên phía trên

Nó tìm cách bao vây các cuộc đã trưởng thành chúng ta

trong thành phố bảo thủ, trong cảnh quan bảo thủ

Nhà thơ Éluard sờ một nút bấm

tường bỗng mở

vườn cây hiện ra

Ngày xưa tôi băng qua cánh rừng bằng một thùng đựng sữa

Cả bốn bên, những thân cây màu tím

một hài kịch cũ đã được dựng lên

cũng đẹp như một chiếc lư đồ cúng

Mùa hạ đọc cho chúng ta nghe những cuộc phiêu lưu ký của Ngài Pickwick

Cuộc đời đẹp, một xe ngựa mui gập

Chở người hào hoa phong nhã làm ta tức tối

Hãy nhắm mắt lại và thay đổi ngựa

Các tư tưởng trẻ con nhất đến với chúng ta trong phút giờ nguy khốn

Chúng ta ngồi ở đầu giường người ốm và nguyện cầu

mỗi khắc được nghỉ ngơi trong cảnh gian nguy

một lỗ hở trong đó các truyện của Ngài Pickwick đều có thể bước vào

Hãy nhắm mắt lại và thay đổi ngựa

Khó lòng thích những mẩu chuyện từng ngao du lâu đời rồi

Những ghi khắc trên các chuông nhà thờ

những ngạn ngữ quẩn quanh xung quanh các vị thánh

và những hạt cũ càng đã bao nhiêu lượt mấy nghìn năm

Ôi, Archilochos. Chẳng có câu trả lời nào cả

Lũ chim mơn trớn bộ lông phủ ngoài của biển

Chúng tôi đi vào nhà với Simenon

để mùi hương tồn tại của loài người đã có

ngay tại những nơi các mầm lá non nhú ra

Hãy hít thở mùi hương của chân lý

Cánh cửa sổ mở dừng lại ngay tại chỗ này

giáp với các ngọn cây

cùng bức thư vĩnh biệt của bầu trời hoàng hôn

Shiki, Björling và Ungaretti

cuộc đời họ được viết bằng phấn trắng trên bảng đen của

Trường ca ấy, hoàn toàn có thể

Tôi nhìn lên không trung khi cành cây rung chuyển

Những hải âu trắng ăn quả anh đào đen

Xem thêm:  Xin trả lại tôi - Ngô Thiên Tú

Lời bạt Epilog

December. Sverige är ett uppdraget,

avtacklat skepp. Mot skymningshimlen står

dess master kärvt. Och skymning varar längre

än dag – den väg som leder hit är stenig:

vid middagstiden först når ljuset fram

och vinterns Colosseum reser sig,

belyst från overkliga moln. Då stiger

med ens den vita röken svindlande

från byarna. Oändligt högt står molnen.

Vid himmelsträdets rötter bökar havet,

förstrött och liksom lyssnande till något.

(Osynligt färdas över själens mörka,

bortvända hälft en fågel, väckande

de sovande med sina rop. Så vrids

refraktorn, fångar in en annan tid,

och det är sommar: bergen råmar,

stinna av ljus och bäcken lyfter solens glitter

i genomskinlig hand … Allt sedan borta

som när en filmremsa går av i mörkret.)

Nu genombränner aftonstjärnan molnet.

Träd, gärdsgårdar och hus förstoras, växer

i mörkrets ljudlöst störtande lavin.

Och under stjärnan framkallas alltmer

det andra, dolda landskapet som lever

konturers liv på nattens röntgenplåt.

En skugga drar sin kälke mellan husen.

De väntar.

Klockan 18 kommer vinden

och spränger fram med dån på bygatan,

i mörkret, som en ryttarskara. Hur

den svarta oron spelar och förklingar!

I orörlighetsdans står husen fångna,

i detta brus som liknar drömmens. Vindstöt

på vindstöt flackar över viken bort

mot öppna sjön som kastar si i mörkret.

I rymden flaggar stjärnorna förtvivlat.

De tänds och släcks av moln som flyger fram,

som bara när de skymmer ljusen röjer

sin existens, likt det förflutnas moln

som jagar kring i själarna. När jag

passerar stallväggen hörs genom dånet

den sjuka hästens stamp därinifrån.

Och det är uppbrottet i stormen, vid

en trasig grind som slår och slår, en lykta

som slänger från en hand, ett djur som kacklar

förskräckt i berget. Uppbrott när det mullrar

som åskan över fähustaken, brummar

i telefontrådarna, visslar gällt

i tegelpannorna på nattens tak

och trädet hjälplöst kastar sina grenar.

Det lösgör sig en ton av säckpipor!

En ton av säckpipor som tågar fram,

befriande. En procession. En skog på marsch!

Det forsar kring en stäv och mörkret rör sig,

och land och vatten färdas. Och de döda,

som har gått under däck, de är med oss,

med oss på väg: en sjöresa, en vandring

som inte är ett jagande men trygghet.

Och världen river ständigt upp sitt tält

på nytt. En sommardag tar vinden fatt

ekens rigg och slungar Jorden framåt.

Näckrosen paddlar med sin dolda simfot

i tjärnens mörka famn som är på flykt.

Ett flyttblock rullar bort i rymdens hallar.

I sommarskymningen ses öar lyfta

vid horisonten. Gamla byar är

på väg, drar in i skogarna alltlängre

på årstidernas hjul med skatans gnissling.

När året sparkar av sig stövlarna,

och solen klänger högre, lövas träden

och fylls av vind och seglar fram i frihet.

Vid bergets fot står barrskogsbränningen,

men sommarns långa, ljumma dyning kommer,

drar genom trädens toppar sakta, vilar

ett ögonblick och sjunker åter undan –

avlövad kust står kvar. Och slutligen:

Guds ande är som Nilen: översvämmar

och sjunker i en rytm som har beräknats

i texterna från skilda tidevarv.

Men Han är också oföränderlig

och därför sällan observerad här.

Han korsar processionens väg från sidan.

Som fartyget passerar genom dimman,

utan att dimman märker något. Tystnad.

Lanternans svaga ljussken är signalen.

Dịch

Nước Thuỵ Điển là một tàu thuỷ

mà người ta đã kéo lên đất liền, bỏ hết buồm chão

Cột buồm ghi gay go nét vẽ lên nền trời chạng vạng

Hoàng hôn kéo dài hơn cái ban ngày

con đường dẫn đến nó rì rào đầy sỏi

:chỉ vào trưa ánh sáng mới đến

các kiện hàng mùa đông ưỡn dậy trong ráng mây kỳ quái

Bỗng khói từ các làng xóm bay lên trắng toát làm chóng mặt

Mây trời cao ngất

Gần các đám rễ cây, sóng biển xới cày lơ đãng

dường đâu có muốn lắng nghe chẳng biết cái gì

(Vô hình, một con chim bay ngang qua

trên nửa tối đen và quanh co của tâm hồn

và bằng tiếng kêu, nó gọi người ngủ say thức dậy

Đoạn cái lăng kính khúc xạ quay quanh trụ đứng

tìm cách vớ lấy một thời đại khác

và bỗng đã mùa hè: các núi non gào rống, no nê ánh sáng

con suối nâng tia nắng mặt trời lên bằng bàn tay trong mờ

Nhưng tất cả sẽ mất đi

như phim ảnh bị gãy vỡ trong bóng tối)

là lúc sao hôm đi vào trong đám mây

Cây cối, nhà cửa, cổng rào trở nên phình to

mọc lên trong ngọn thác tối tăm, đổ tan hoang trong im lặng

Dưới ánh sao, dần dần người ta trông thấy rõ hơn cái phong cảnh giấu kín

nó đưa mình đến với các đường biên của tấm phim chụp điện về ban đêm

Một bóng đen kéo xe trượt tuyết giữa các dãy nhà

Các dãy nhà đang chờ đợi

Và gió thổi đến lúc 18 giờ

Nó phi ngựa ồn ào trên đường làng

trong tranh tối tranh sáng như một tốp kị binh

Mong rằng những cảm kích u ám ấy có thể rống to lên trước khi tan biến

Đây nhà văn bị cầm tù trong một vũ hội lặng im

trong sự inh ỏi như giữa cảnh chiêm bao

Một trận gió sau một trận gió khác chạy ngoài bến tàu

cho đến lúc triều cường phả sóng vào đêm

Trong không gian, tinh tú thắp lên

tắt đi khi các đám mây tiến đến

và chỉ chứng minh sự tồn tại của chúng

khi ánh sáng được lấp che

như đám mây của quá khứ

rảo bay trên bao tâm hồn

Khi tôi đi dọc theo các chuồng ngựa, thấy sét

dẫm đạp lên thân một con ngựa đau

Và bão táp ra hiệu lên đường

sát kề một chắn gỗ đã gãy hư đang đập mạnh

kề một đèn lồng lay lắt, kề một con gì

đang kinh hồn cục tác trong núi cao

Lên đường gầm gừ một thứ gì như

mưa rào bão tố trên các chuồng bò

khi các dây điện thoại kêu vo vo

khi tiếng gió rít chối tai

khi cây bối rối vứt rã cành

Một tiếng bốc lên từ những kèn bỏ túi!

Tiếng kèn bỏ túi nối tiếp nhau, tiếng kèn giải phóng

Một đám rước đi qua. Một rừng cây tiến bước!

Mọi thứ đều bốc lên từ chiếc tàu bị đắm và bóng tối tăng dần

đất đai và nước biển ngao du

Những người đã qua đời bị chèn giữ lại, họ có mặt với chúng ta

cùng trên đường với chúng ta: một hành trình trên biển

cuộc viễn du không bị ngăn cản, lại yên lòng

Và vũ trụ không ngừng chuyển trại

Một ngày hè, gió chiếm đoạt buồm chão, cây sồi

và phóng đất ra đằng trước

Vụng trộm, hoa súng chèo với bộ chân có màng của nó

trong sức ôm lặng lẽ của một đầm ao đang chạy trốn

Cái khối tảng lăn trôi giạt vào các gian buồng của thinh không

Vào hoàng hôn mùa hè, người ta thấy các hòn đảo tách rời ra ở chân trời

Các ngôi làng cổ đã lên đường, chìm sâu, xa mãi, vào rừng cây

trong vòng bánh xe các mùa vụ với tiếng xào xạc của chim ác là

Khi với một cái đá, niên đại tháo ủng ra

và mặt trời còn leo lên nữa, cây đã phủ đầy lá

đã phồng lên tràn gió và bơi thuyền một cách tự do

Ở chân núi đá trồi lên làn sóng dồi lại của rừng thông

song đợt sóng lừng ấm áp của mùa hè đã báo trước

vang nhẹ nhàng lên các ngọn cây

nghỉ ngơi trên đó chốc lát, rồi rút lui

bấy giờ chỉ còn lại một bờ biển bị vặt lá

Hiển nhiên, tinh thần thiêng liêng quả giống dòng sông Nin:

dồn lên lũ lụt và cạn thấp xuống

theo một nhịp điệu có tính toán trước

tuỳ từng thời đại khác nhau trong kinh sách

Nhưng Việc Ấy cũng phi thời gian

do vậy người ta rất ít khi gặp nó ở đây

Nó cắt ngang con đường đi của cuộc diễu hành một cách gián tiếp

Như con tàu băng qua sương mù

không từng chú ý. Im lặng

Ánh mờ của đèn hiệu là thông báo của nó

Lụt hồng thuỷ trên các vùng đất

Regnet hamrar på bilarnas tak.

Åska mullrar. Trafiken går saktare.

Lyktorna tänds mitt på sommardagen.

Röken slår ner i skorstenarna.

Allt levande kurar ihop sig, blundar.

En rörelse inåt, känn livet starkare.

Sjöns yta är spänd. Åskhimlen viskar

ner genom näckrosorna till dyn.

Skogens fönster öppn nar sig långsamt.

Men åskan slår direkt ur stillheten!

En dövande skräll. Och sedan tomrum

där de sista dropparna dalar.

I tystnaden hör han ett svar komma.

Bortifrån. En sorts grov barnröst.

Det stiger ett råmande från berget.

Ett gny av sammanväxta toner.

En lång hes trumpet ur ärnåldern.

Kanske från inne ihonom själv.

Xem thêm:  Top 20 Bài thơ hay viết nhân ngày quốc tế thiếu nhi

Dịch

Mưa nện trần xe

Bão gầm. Đường cái đánh dấu từng bước một

Người ta bật đèn pha lên ngay giữa ngày hè

Khói rập xuống lò sưởi

Mọi cái gì sống đều tự vùi mình, khép lại

Một cử động bên trong xe, cảm thấy cuộc đời gần lại

Chiếc xe gần như mù quáng. Nó ngừng

thắp ngọn lửa riêng và hút thuốc

dọc các cửa kính nước vẫn chảy như suối khe

Một lối mòn trong rừng, tách ra uốn ngoằn ngoèo

gần cái hồ hoa súng

dãy đồi dài mờ đi dưới mưa

Trên cao yên nghỉ những chồng đá lưu niệm

thời đại đồ sắt, trong khi ở đây đã từng có

nhiều cuộc chiến tranh bộ lạc, một Công-gô giá buốt hơn nhiều

Nguy biến từng lùa các đàn súc vật và những con người

góc gách đầy những tiếng thầm thì yên ổn sau vách đá

yên ôtn trong cây ngấy gai và trong hang đỉnh núi

Một sườn dốc tối tăm, một kẻ nào đó tiến lên

leo vụng về kéo cái khiên trên lưng

cũng là điều mà anh nghĩ trong chiếc xe đứng lại

Ban ngày hiện lên, anh vặn cửa kính xuống

Như tiếng sáo thổi, con chim nói một mình

dưới cơn mưa dần dần càng mỏng manh

Mặt hồ nước dãn ra. Giữa bầy hoa súng

trời gió bão nói thầm với bùn đen

Rừng hé mở từ từ các cánh cửa

Sâms rơi thẳng xuống phút giây tạm lắng

Một tiếng rú đanh tai rồi đến khoảng trống không

những giọt mưa cuối cùng đặt mình xuống êm ả

Anh ta lắng nghe trong lặng im câu trả lời lả tả

Từ xa. Như một giọng to của trẻ nhỏ

Một tiếng bò rống lên từ dãy đồi

Âm vang của những tiếng kêu kết dính

Một tiếng còi khan khản thời kỳ đồ sắt

Có lẽ cũng từ trong sâu thẳm đáy lòng anh ta

Mặt nhìn mặt

I februari stod levandet still.

Fåglarna flög inte gärna och själen

skavde mot landskapet så som en båt

skaver mot bryggan den ligger förtöjd vid.

Träden stod vända med ryggen hitåt.

Snödjupet mättes av döda strån.

Fotspåren åldrades ute på skaren.

Under en presenning tynade språket.

En dag kom någonting fram till fönstret.

Arbetet stannade av, jag såg upp.

Färgerna brann. Allt vände sig om.

Marken och jag tog ett språng mot varann.

Dịch

Tháng hai cuộc sống dường ngừng

Chim bay miễn cưỡng với hồn nhân gian

Cuộc sống nạo rách cảnh quan

Như thuyền cọ đứt neo thang nối bờ

Cây quay lưng lại bơ vơ

Tuyết dày sớm tối thầm đo cỏ tàn

Dấu chân già khọm trên băng

Gặp nhau chuyện vãn, úa vàng văn phong!

Cái gì đó, đến cửa phòng!

Tạm nghỉ công việc, sáng lòng nhìn xa

Lại về… màu sắc nở hoa

Sung sướng nhảy, đất và ta nhịp nhàng

Một đêm đông

Stormen sätter sin mun till huset

och blåser för att få ton.

Jag sover oroligt, vänder mig, läser

blundande stormens text.

Men barnets ögon är stora i mörkret

och stormen den gnyr för barnet.

Båda tycker om lampor som svänger.

Båda är halvvägs mot språket.

Stormen har barnsliga händer och vingar.

Karavanen skenar mot Lappland.

Och huset känner sin stjärnbild av spikar

som håIler väggarna samman.

Natten är stilla över vårt golv

(där alIa förklingade steg

vilar som sjunkna löv i en damm)

men därute är natten vild!

Över världen går en mer allvarlig storm.

Den sätter sin mun till vår själ

och blåser för att få ton. Vi räds

att stormen blåser oss tomma.

Một nghệ sĩ phương Bắc

Jag Edvard Grieg rörde mig som en fri man bland

människor.

Jag skämtade flitigt, läste aviserna, reste och for.

Jag ledde orkestern.

Auditoriet med sina lampor darrade av triumf som tågfärjan

just när den lägger till.

Jag har dragit mig upp hit för att stångas med tystnaden.

Min arbetsstuga är liten.

Flygeln har det lika skavande trångt därinne som svalan

under tegelpannan.

De vackra branta sluttningarna tiger för det mesta.

Det finns ingen passage

men det finns en lucka som öppnas ibland

och ett märkvärdigt sipprande ljus direkt från trollen.

Reducera!

Och hammarslagen i berget kom,

kom

kom

kom in en vårnatt i vårt rum

förklädda till hjärtats slag.

Året innan jag dör ska jag sända ut fyra psalmer för att

spåra upp Gud.

Men det börjar här.

En sång om det som är nära.

Det som är nära.

Slagfält inom oss

där vi Dödas Ben

slåss för att bli levande.

Dịch

Tôi, Edvard Grieg, tôi thay đổi chỗ như một con người tự do

Tôi luôn thích đùa giỡn, đọc báo, thích du lịch

và tôi đi

Tôi chỉ huy dàn nhạc

Cử toạ với chùm đèn rung rinh khi thành công

giống như chiếc phà khi cập bến

Tôi được đưa lên đây để đấu gươm với sự im lặng

Xưởng nhỏ sửa giày của tôi chật hẹp

Chiếc dương cầm cũng nằm ép ở đó như con chim én

dưới ngói mái nhà

Những bức vách đẹp thẳng đứng trên bờ biển thường ngày

vẫn im ắng

Không có lối qua nào

nếu không phải một cửa sổ cánh trượt đôi khi được mở

một ánh sáng thóc mách từ cõi ma luồn thẳng vào

Đơn giản làm sao!

Những búa tạ của núi đã

động

động

động vào trong phòng chúng tôi một đêm xuân

thay đổi thành tiếng đập của trái tim

Một năm trước khi tôi qua đời tôi sẽ gửi bốn khúc Thánh ca lên tìm Chúa

Việc đó bắt đầu ở đây

Một bài hát về những gì gần chúng ta nhất

Những gì gần chúng ta nhất

Chiến trường nội tâm

Xương Cốt của Người Chết

chúng ta đấu tranh để đến với cuộc đời

Một người nước Benin

(Om et fotografi af et broncerelief fra 1500-tallet fra negerriget Benin forestillende en portugisisk jøde)

Da mørket faldt på var jeg stille

men min skygge hamrede

på håbløshedens trommeskind.

Da slagene begyndte at dø bort

så jeg billedet af et billede

af en mand der trådte frem

på den side af det tomme

der lå opslået.

Som at gå forbi et hus

forlængst forladt

og en viser sig i vinduet.

En fremmed. Han var lodsen.

Han syntes opmærksom.

Kom nærmere uden et skridt.

I en hat som kubede sig efterlignende vor hemisfære

med bræmmen ved ækvator.

Håret delt i to finner.

Skægget hang kruset

som veltalenhed om munden.

Han holdt høje arm bøjet.

Den var smal som et barns.

Den falk der skulle have haft sin plads

på hans arm voksede frem

i hans ansigtstræk.

Han var ambassadøren.

Afbrudt midt i en tale

som stilheden fortsætter

med endnu stærkere magt.

Tre stammer tav i ham.

Han var tre folks billede.

En jøde fra Portugal,

bortsejlet med de andre,

de drivende og ventende,

den sammenkrøbne flok

i karavellen, der var

deres gyngende træmoder.

Landsteget i en fremmed duft

som gjorde luften lodden.

Iagttaget på markedspladsen

af negeren – gydekunstneren.

Genfødt i metallets race:

“Jeg er kommet for at møde

den der løfter op sin lygte

for at se sig selv i mig.”

Dịch

(Nhân một tấm ảnh chụp hình nổi bằng đồng thế kỷ XVI của Vương quốc da đen Bénin, về một người Do thái Bồ Đào Nha)

Khi ban đêm xuống, tôi đứng im

bóng của tôi liền đập mạnh

trên mặt trống của niềm vô vọng

Rồi nhịp trống nhạt dần

tôi thấy vẽ lên hình ảnh bâng khuâng

một con người xuất hiện

trên một trang giấy trắng

người ta đã mở ra

Tôi đi dọc ngôi nhà

từng bỏ hoang

qua cửa sổ có người ra mắt

Một người nước ngoài

Người hướng dẫn của tôi:

Anh đưa mắt chăm chỉ

xích lại gần một tý

Anh đội chiếc mũ uốn cong

nhại cái bán cầu trời sáng tạo

vành mũ như nằm trên xích đạo

Chia làm hai mái, tóc rẽ ra

Râu quai nón sóng gợn mượt mà

dưới môi, như người hùng biện

Anh gấp cánh tay phải

như của trẻ con, vì gày guộc

Chim cắt có thể giấu chỗ này

ta đoán chừng như vậy

không trông nét mặt anh áy náy

Cũng là một sứ giả đó sao?

Ngừng giữa một hồi lại thao thao

sự yên lặng sau đó

càng tăng cường độ

Đều im, ba bộ lạc trong anh

Hình ảnh ba dân tộc rành rành

Một người Do thái Bồ Đào Nha

xuống thuyền cùng các bạn anh

họ đi không rõ ràng hướng bước

có thể một tốp người lạc gốc

trong mộty chuyến thuyền buồm

thuyền trở thành người mẹ bằng gỗ luôn

Bến thuyền và các mùi hương lạ

không khí bỗng như có lông lá

Chú ý ở chợ bên

một nghệ sĩ xưởng đúc

Tuổi bốn mươi, khi nhìn nét mặt

Từ kim loại gốc, anh hồi sinh:

“Tôi đến đây dự cuộc gặp gỡ

của người sẽ nâng ngọn đèn hiệu

để tự thấy được mình ngay nơi tôi”

Trên đây, Thuvientho.com đã cập nhật và dành tặng quý độc giả những bài thơ dịch đặc sắc và hấp dẫn của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Hy vọng qua bài viết các bạn sẽ yêu thích những bài thơ cũng như bài viết này của chúng tôi. Cảm ơn các bạn đã theo dõi!

Xem Thêm : Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 2

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …