Home / Chùm thơ chọn lọc / Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 4

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 4

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 4

Nguyễn Xuân Sanh được biết đến là một nhà thơ đồng thời là một dịch giả nổi tiếng của làng thơ ca . Ông xuất thân tại một vùng miền trung nhưng lại cất tiếng khóc chào đời tại một miền sương mù bao phủ. Ông vang danh cùng những bài thơ tuyệt vời được trao tặng giải thưởng ngoại hạng của Hội văn nghệ Việt Nam 1951-1952 cấp cho tập thể các nhà văn đã viết về anh hùng và chiến sĩ thi đua (tác giả viết về anh hùng Trần Đại Nghĩa). Ngay bây giờ, mình hãy cùng nhau đi khám phá những thi phẩm dịch xuất sắc của ông nhé!

Năm khúc thơ cho Thoreau

Ännu en har lämnat den tunga stadens

ring av glupska stenar. Kristallklart salt är

vattnet som slår samman kring alla sanna

flyktingars huvud.

I en långsam virvel har tystnad stigit

hit från jordens mitt, att slå rot och växa

och med yvig krona beskugga mannens

solvarma trappa.

Foten sparkar tanklöst en svamp. Ett åskmoln

växer stort vid randen. Likt kopparlurar

trädens krökta rötter ger ton och löven

skingras förskrämda.

Höstens vilda flykt är hans lätta kappa,

fladdrande tills åter ur frost och aska

lugna dagar kommit i flock och badar

klorna i källan.

Trodd av ingen går den som sett en geysir,

flytt från stenad brunn som Thoreau och vet att

så försvinna djupt i sitt inres grönska,

listig och hoppfull.

Dịch

Đây cũng là kẻ đã vượt bức tường thành đầy khát vọng của các đô thị nặng nề

Nước thì trong veo và mặn

khi nó đổ xuống đầu những kẻ bị lưu đày’

Bằng những đường vòng chậm rãi, sự thanh bình đã lên đến đây

nơi trung tâm trái đất, để bắt rễ, mọc lên

và bằng tán lá dày của nó phủ bóng cho cầu thang của con người được mặt trời

Không hề có suy nghĩ gì, bàn chân vấp gặp một tai nấm

Một đám mây bụi lớn dần bên bờ. Như những chiếc kèn đồng

các cuộn rễ gập lại đã tỏ bày giọng điệu của cây và lá của nó tung bay, sợ hãi

Sự chạy trốn cuống cuồng của mùa thu chính là cái áo khoác nhẹ nhàng của nó

khi nó cuộn sóng cho đến lúc bằng một cuộc nổi dậy vô , các ngày đêm thắm dịu hơn

phục sinh từ sương giá và từ tro than để đến tắm các móng vuốt nó trong nước hiền lành của suối khe

Và kẻ nào đã trông thấy một mạch nước phun mà mọi người đều không tin trước đó

đã thoát khỏi một giếng nước đầy như Thoreau từng làm

và anh ta biết tự vùi sâu vào bãi cây xanh nội tâm, yêu đời và láu lỉnh

Ngủ trưa Siesta

Stenenes pinse. Og med sprudende tunger…

Byen uden vægt i middagstimens rum.

Begravelse i sydende lys. Trommen der overdøver

den indelåste evigheds hamrende næver.

Ørnen stiger og stiger over de sovende.

Søvn hvormøllehjulet vendersig som tordenen.

Tramp fra hestenmed bindforøjnene.

Den indelåste evigheds hamrende næver.

De sovende hænger som lodder i tyrannernes ur.

Ørnen driver dødi solensstrømmende hvide fos.

Og genlydende i tiden–som iLazarus’ kiste

den indelåste evigheds hamrende næver

Dịch

Lễ Chúa hạ trần của các mỏm đá. Những tiếng nổ kêu lách tách…

Thành phố không trọng lượng trong không gian giữa trưa

Một lễ tang ở nghĩa địa trong ánh nắng chói chang

Một hồi trống lấp cảnh các nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu

Con chim đại bàng bay lên cao bên trên những người đã yên

Một giấc ngủ trong đó bánh xe cối xay gió trở thành giông tố

Nước phi của một con ngựa mà đôi mắt đã bị bịt che

Nhiều nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu

Những người đã yên giấc ngủ đeo như những vật nặng đeo vào chiếc đồng hồ của các tên bạo chúa

Con chim đại bàng, chết, chuyển động trong các lớp sóng dòng sông mặt trời chói rực

Trong thời gian vang lên – như tự quan tài của Lazare

nhiều nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu

Người được các bài hát trên các mái nhà đánh thức

Morgon, majregn. Staden är ännu stilla

som en fäbod. Gatorna stilla. Och i

himlen mullrar blågrönt en flygplansmotor. –

Fönsteret är öppet.

Drömmen där den sovande ligger utsträckt

blir då genomskinlig. Han rör sig, börjar

treva efter uppmärksamhetens verktyg –

nästan i rymden.

Dịch

Sáng sớm, mưa tháng năm. Thành phố vẫn còn im lặng

như một ngôi nhà gỗ trên núi cao. Đường phố cũng còn như vậy

Trên trời một động cơ máy bay rống lên tiếng màu xanh màu xám

Cửa sổ nhà được mở ra

Giấc mơ trên đó người ngái ngủ nghỉ ngơi

là trong sáng. Con người cựa quậy

lần mò tìm điểm chú tâm

gần như cả trong không gian vô tận

Nhân nói về lịch sử

I

En dag i mars går jag ner till sjön och lyssnar.

Isen är lika blå som himlen. Den bryter upp under solen.

Solen som också viskar i en mikrofon under istäcket.

Det kluckar och jäser. Och någon tycks ruska ett lakan

långt ute.

Alltihop liknar Historien: vårt NU. Vi är nedsänkta,

vi lyssnar.

II

Konferenser som flygande öar så nära att störta…

Sedan: en lång darrande bro av kompromisser.

Där ska hela trafiken gå, under stjärnorna,

under de oföddas bleka ansikten,

utkastade i tomrummet, anonyma som risgryn.

III

Goethe reste i Afrika 1926 förklädd till Gide och såg allt.

Några ansikten blir tydligare av allt de får se efter döden.

När dagsnyheterna från Algeriet lästes upp

framträdde ett stort hus där alla fönster var mörklagda,

alla utom ett. Och där såg man Dreyfus`ansikte.

IV

Radikal och Reaktionär lever tillsammans som i ett

olyckligt äktenskap,

formade av varann, beroende av varann.

Men vi som är deras barn måste bryta oss loss.

Varje problem ropar på sitt eget språk.

Gå som en spårhund där sanningen trampade!

V

Ute i terrängen inte långt från bebyggelsen

ligger sedan månader en kvarglömd tidning, full av

händelser.

Den åldras genom nätter och dagar i regn och sol,

på väg att bli en planta, ett kålhuvud, på väg att förenas

med marken.

Liksom ett minne långsamt förvandlas till dig själv.

Här var jag nära att omkomm, ut

på fel sida av vägen. De mötande bilarna –

deras lyktor – kom nära.

Xem thêm:  Bài thơ Cô gái hái sen – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Dịch

I

Một ngày tháng ba, tôi đi xuống hồ và lắng nghe

Các tảng băng đều xanh như bầu trời. Chúng nó mở ra cho mặt trời

Mặt trời thầm thì vào ống nói dưới các lớp nước đá

Tiếng kêu òng ọc và mầm cây. Đằng kia, xa xa, ai đó rũ chiếc khăn trải giường

Tất cả đều nhắc lại Lịch sử: THỜI SỰ của chúng ta

Chúng ta bị ngập, ta lắng nghe

II

Các bài nói chuyện giống như các hòn đảo bay, chúng gần như rơi xuống

Đoạn chiếc cầu dài vô tận rung lên với những thoả hiệp

Giao thông đã ngang qua nơi đâu, dưới các vì tinh tú

gương mặt nhợp nhạt các đứa con không được đẻ ra

chúng được vứt vào hư không cũng vô danh như những hạt gạo

III

Goethe đi Châu Phi năm 1926 mặc bộ áo quần của Gide

và ở đó nhà thơ thấy được tất cả

Một số gương mặt rõ ràng hơn,

nhân có miệt mài phân định,

sau cái chết

IV

Có những người cùng ở với nhau

như đôi không tương ứng đồng thanh

Họ hoá ra nhau, tuỳ thuộc vào nhau

Nhưng chúng ta là con của họ, nên cần cố gắng

Mỗi vẫn đề kêu lên trong ngôn ngữ riêng của nó

Hãy lên đường!

V

Nơi kia, trên một khoảnh đất khó xác định,

không xa các ngôi nhà

đã nhiều tháng rồi,

có một tờ báo bị quên, đầy tin tức

Nó già đi qua nhiều đêm, nhiều ngày nắng và mưa

đang trong thời chuyển thành cây, thành cải bắp, hoà hợp với đất

Giống như một kỷ niệm trong nội tâm ta dần dần được biến chuyển

Những bí mật trên đường

Dagsljuset träffade ansiktet på en som sov.

Han fick en livligare dröm

men vaknade ej.

Mörkret träffade ansiktet på en som gick

bland de andra i solens starka

otåliga strålar.

Det mörknade plötsligt som av ett störtregn.

Jag stod i ett rum som rymde alla ögonblick –

ett fjärilsmuseum.

Och ändå solen lika starkt som förut.

Dess otåliga penslar målade världen.

Dịch

Ánh sáng ban ngày đập vào khuôn mặt người đương ngủ

Anh còn mơ sôi sục hơn

nhưng không thức dậy

Bóng tối đập vào khuôn mặt người đương đi

giữa mọi người khác dưới các tia ánh sáng nóng lòng

từ mặt trời gay gắt

Bỗng bầu trời tối đi như trước một trận mưa rào

Tôi từng sống ở một nơi ôm nhiều khoảnh khắc

một bảo tàng sâu bọ cánh vảy

Dù mặt trời cũng mạnh như xưa

Các ngòi bút sốt ruột vẫn vẽ lên bộ mặt thế gian

Những ngôi nhà đơn chiếc Thuỵ Điển

Ett virrvarr av svarta granar

och rykande månstrålar.

Här ligger torpet sänkt

och det tycks utan liv.

Tills morgondaggen sorlar

och en åldring öppnar

– med darrande hand –

fönstret och släpper ut en uv.

Och i ett annat väderstreck

står nybygget och ångar

med lakanstvättens fjäril

fladdrande vid knuten

mitt i en döende skog

där förmultningen läser

genom glasögon av sav

barkborrarnas protokoll.

Sommar med linhåriga regn

eller ett enda åskmoln

över en hund som skäller.

Fröet sparkar i jorden.

Upprörda röster, ansikten

flyger i telefontrådarna

på förkrympta snabba vingar

över myrmarkernas mil.

Huset på en ö i älven

ruvande sina grundstenar.

En ständig rök – man bränner

skogens hemliga papper.

Regnet vänder i himlen.

Ljuset slingrar i älven.

Hus på branten övervakar

vattenfallets vita oxar.

Höst med en liga av starar

som håller gryningen i schack.

Människorna rör sig stelt

på lampskenets teater.

Låt dem känna utan ängslan

de kamouflerade vingarna

och Guds energi

hoprullad i mörkret.

Dịch

Cây lộn xộn dáng đen

Nhà ánh trăng bốc khói

Một chiếc lều trôi nổi

Ngỡ không sống lâu bền

Rì rào tiếng sương sớm

Cụ ông mở cửa ra

Run rẩy bàn tay già

Thả con chim cú lớn

Trên một sân gió khác

Khói bốc – mới nếp nhà

Vải khăn giường mới giặt

Phấp phới bay đung đưa

Giữa khu rừng hấp hối

Bằng con mắt nhựa cây

Sự phân huỷ trăn trối

Lời sâu bọ giãi bày

Hè mưa, lúa mì chín

Một đám mây xối dông

Con chó sủa trống không

Trong đất, hạt ẩn kín

Nhiều tiếng kêu ái ngại

Nhiều đàn chim bay cao

Trên đường dây điện thoại

Cánh tao tác trên ao

Nhà ven đảo dòng sông

Ấp ủ chồng đá mới

Gió mải ru làn khói

Nung dấu cũ rừng thông

Mưa lại trời

Ánh sáng luồn mặt nước

Nhà cheo leo trên vực

Đàn bò trắng, thác soi

Mùa thu với chim sáo

Thích thú hơn rạng đông

Những người bước đạo mạo

Dưới chụp đèn mờ sương

Làm cho lòng sục sôi

Nắm được điều bí ẩn

Tiếp nghị lực Chúa Trời

Cuộn tròn trong bất tận!

Xem thêm:  Tuyển tập thơ vè nói ngược, vè dân gian hay nhất

Những tảng đá Stenarna

Stenarna som vi kastat hör jag

falla, glasklara genom åren. I dalen

flyger ögonblickets förvirrade

handlingar skränande från

trädtopp till trädtopp, tystnar

i tunnare luft än nuets, glider

som svalor från bergstopp

till bergstopp tills de

nått de yttersta platåerna

utmed gränsen för varat. Där faller

alla våra gärningar

glasklara

mot ingen botten

utom oss själva.

Dịch

Những tảng đá chúng ta vứt xuống

tôi nghe tiếng chúng rơi trong như pha lê qua nhiều năm tháng

Những cử chỉ khó hiểu trong khoảnh khắc

rơi vào trong thung lũng kêu the thé trên ngọn cây này qua ngọn cây khác

rồi chúng dịu êm lại trong một cung cách lạ lùng hơn là cung cách của thời hiện tại

chúng trườn lướt qua như các con chim én từ đỉnh núi này qua một đỉnh núi khác

cho đến lúc chúng đáp được xuống cao nguyên cuối cùng ở biên cương của sự tồn tại

Tại nơi đó các hành vi của chúng ta lại rơi xuống trong như pha lê

trên các đáy sâu

khác các đáy sâu của chính tâm tưởng chúng ta

Những thể thức cuộc du hành (Đi đến vùng Balkan năm 55)

I

Et brus af stemmer efter plovmanden.

Han ser sig ikke om. De tomme marker.

Et brus af stemmer efter plovmanden.

En efter en gør skyggerne sig fri

og styrter indi sommerhimlens afgrund.

II

Der kommer fire okser under himlen

Intet stolt ved dem. Og støvet tæt som uld.

Insekternes penne skratter.

En vrimlen af heste, magre som

på grå allegorier over pesten.

Intet mildt ved dem.Og solen raser.

III

Den staldduftende landsby med tynde hunde

Partiets funktionær på markedstorvet

i den staldduftende landsbymed hvide huse.

Hans himmel følger ham: derer højt

og trangt som i en minaret.

Den vingeslæbende landsby, på bjergets side.

IV

Et gammelt hus harskudtsig for panden.

To drenge sparker bold i skumringen.

En sværm af hurtigeekkoer.–

Pludselig stjerneklart.

V

På vej i det lange mørke. Stædigt skinner

mit armbåndsur med tidens fangne insekt.

Den propfulde kupé er tæt af stilhed.

I mørket strømmer engene forbi.

Men skriveren er halvvejs i sit billede

og rejser der, på én gang muldvarp og ørn.

Dịch

I

Tiếng xì xầm sau lưng người dân cày

Anh không quay lại. Các cánh đồng đều hoang vắng

Tiếng xì xầm sau lưng người dân cày

Từng bước, các bóng tối được giải phóng

vung lên trong vực thẳm bầu trời mùa hạ

II

Bốn con bò tiến bước dưới bầu trời

Chả có gì đáng tự hào đây cả. Bụi đã có chiều dày của len dạ

Côn trùng đã làm cho chì của chúng kêu xào xạc

Một bầy ngựa cũng gầy còm

như trên bức hoạ phóng dụ xám xịt của dịch thổ tả

Chẳng có gì ngọt ngào trong ấy. Và mặt trời làm cho các đầu người phải quay đi quay lại

III

Một thôn làng đầy mùi chuồng ngựa và đầy chó gầy nhom

Một nhân viên trên một quảng trường chợ

trong một thôn làng đầy mùi chuồng ngựa và nhà cửa đều màu sắc hoe vàng

Bầu trời cứ trải theo thông làng, nó hẹp

và ở đất cao, như một tháp đền thờ Hồi giáo

Nó kéo cánh bay mình trên sườn núi

IV

Ngôi nhà cũ kỹ đã tự bắn vỡ cái sọ suy tư của nó đi rồi

Trong hoàng hôn, hai đứa bé đang đẩy lăn một quả bóng

Một đám vô số tiếng vang gấp gấp – Bỗng ánh sáng các vì sao

V

Lên đường cho một đêm dài. Khoảnh khắc chiếc đồng hồ

làm óng ánh con trùng tù phạm của thời gian

Một căn nhà đầy ắp mà sự im lặng làm cho dày thêm

Trong tranh tối tranh sáng, các bãi cỏ bị người ta dẫm đi lại lộn xộn

Thay vì nhà văn là một nửa của hình ảnh này

nhà văn chỗ trong cảnh quan này

vừa là đại bàng, vừa là chuột chũi

Nóc nhà Krön

Med en suck börjar hissarna stiga

i höghus ömtåliga som porslin.

Det blir en het dag ute på asfalten.

Trafikmärkena har sänkta ögonlock.

Landet en uppförsbacke mot himlen.

Krön efter krön, ingen riktig skugga.

Vi flyger fram på jakt efter Dig

genom sommaren i cinemascope.

Och på kvällen ligger jag som ett fartyg

med släckta lysen, på lagom avstånd

från verkligheten, medan besättningen

svärmar i parkerna där i land.

Dịch

Thở dài, cầu thang máy đi lên

Trong ngôi nhà chọc trời dễ vỡ như đồ sành sứ

Trên đường rải nhựa ban ngày oi nồng

Biển cửa hàng đã khép chặt các hàng mi

Đất dốc ngược lên trời

Một nóc rồi một nóc, tịnh không một bóng râm

Chúng tôi bay đi tìm Anh

Trong một mùa hè của màn ảnh rộng

Và đêm, tôi nghỉ ngơi như một con tàu

trong cảnh các ánh đèn tắt ngấm

phải chăng cùng với hiện thực

khi đoàn thuỷ thủ giỡn đùa trên các bãi cỏ quê hương

Oklahoma

I

Tàu hoả dừng xa dưới phương Nam. Tuyết ở New York

Tại đây có thể xắn tay áo sơ mi suốt đêm dài

Bên ngoài chẳng có ai. Chỉ có chiếc xe con

bay trong ánh đèn, những đĩa bay

II

“Chúng ta đây, chiến trường danh dự hết sức vui

vì các đồng đội đã hi sinh…”

một giọng ai nói với tôi khi tôi vừa tỉnh giấc

Sau quầy hàng của mình, anh ấy bảo:

“Tôi không thử bán chúng cho anh

không thử bán chúng cho anh

chỉ muốn cho anh nhìn thấy chúng”

Và xin anh cho tôi chiếc rìu của người dân Da đỏ

Người thanh niên nói với tôi:

“Tôi biết tôi có một thành kiến

song, thưa ngài, tôi muốn xoá bỏ đi

Ngài nghĩ như thế nào về chúng tôi?”

III

Khách sạn ô tô ấy là một cái vỏ lạ lùng. Với một chiếc xe thuê

(người trắng trẻo giúp việc đứng ngoài cánh cửa)

dường như chẳng có kỷ niệm gì và vô

cuối cùng tôi lao thẳng vào chỗ của tôi

Xem thêm:  Chọn Lọc 10 Bài Thơ Da Diết, Sâu Lắng Của Cao Xuân Tứ

Ostinato

Under vråkens kretsandepunkt av stillhet

rullar havet dånande fram i ljuset,

tuggar blint sitt betsel av tång och frustar

skum över stranden.

Jorden höljs av mörker som flädermössen

pejlar. Vråken stannar och blir en stjärna.

Havet rullar dånande fram och frustar

skum över stranden.

Dịch

Dưới cái điểm bất động của xác thuyền đắm giạt vào bờ,

đại dương vung vẩy và gầm lên trong ánh sáng

mù quáng gặm hết dãy hàng rào cỏ biển, và thổi phả

bọt sóng vào bờ

Mặt đất tự bao phủ mình bằng lớp dày bóng tối

đàn dơi bay đo chiều dài bằng tầm cánh bay

Xác thuyền đắm đứng im và tự biến thành ngôi sao

Đại dương tiến về phía trước vừa rú gầm vừa thổi bọt sóng vào bờ

Sau cái chết của ai

Det var en gång en chock

som lämnade efter sig en lång, blek, skimrande kometsvans.

Den hyser oss. Den gör TV—bilderna suddiga.

Den avsätter sig som kalla droppar på luftledningarna.

Man kan fortfarande hasa fram på skidor i vintersolen

mellan dungar där fjolårslöven hänger kvar.

De liknar blad rivna ur gamla telefonkataloger—

abonnenternas namn uppslukade av kölden.

Det är fortfarande skönt att känna sitt hjärta bulta.

Men ofta känns skuggan verkligare än kroppen.

Samurajen ser obetydlig ut

bredvid sin rustning av svarta drakfjäll.

Dịch

Một xúc động choáng váng

Sau đuôi dài sao chổi tái xanh và sáng

Nó cho ta lưu trú. Hình ảnh xôn xao vô tuyến truyền hình

Đặt những giọt lạnh lên không gian

Người ta trượt tuyết ngay trong ánh mặt trời vụ rét

Giữa những chòm cây đầy lá rơi bay

Nhắc những tờ ghi trên một niên lịch cũ đã hết

Mùa đông đã gặm mất tên những người mua

Còn dễ chịu khi thấy trái tim mình đang đập

Như thường cái bóng dường thật hơn chính cái thân hình ta

Người võ sĩ Nhật tưởng như là vô nghĩa

Bên cạnh những vảy rồng trong bộ áo giáp bầm đen

Sau cuộc tấn công Efter anfall

Den syge dreng.

Fas tlåst i et syn

medtungen stiv som et horn.

Han sidder med ryggen vendt mod billedet med kornmarken.

Bandagen om kæben fører tanken mod balsamering.

Hans briller er tykke som en dykkers.

Og alting er uden svar

og heftigt som når telefonen ringer i mørket.

Men billedet bagved: et landskab som giver ro

skønt kornet er en gylden storm.

Selangehovedblå himmel og drivende skyer.

Derunder i den gule bølgegang

sejler nogle hvide skjorter: høstfolk.

D kaster ingen skygger.

Der står en mand langt borte på marken

og synes at se herhen.

En bred hat skygger for hans ansigt.

Han synes at betragte den mørke skikkelse

her i værelset – vil måske hjælpe.

Umærkeligt begynder billedet at vide sig ud

og åbnes bagved den syge og hensunkne.

Det gnistrer og hamrer.

Hvert aks er tændt som for at vække ham!

Den anden – i kornet – giver et tegn.

Han har nærmet sig.

Ingen ser det.

Dịch

Người trai trẻ ốm đau

Bị giam hãm trong cảnh tượng này

ở đó lưỡi cũng cứng đờ đi như đoạn dây thừng

Nó ngồi, lưng quay lại phía bức tranh một cánh đồng lúa mì

Dải bịt cằm làm nghĩ đến một cuộc ướp xác

Kính đeo mắt của nó dày như kính người thợ lặn

Chẳng có tiếng trả lời:

cũng dữ dội như tiếng điện thoại trong đêm tối

Nhưng bức tranh sau lưng nó. Một cảnh quan yên ả

mặc dù lúa mì vàng ươm gợi chuyện bão tố

Một bầu trời độc như rắn lục và mây bay chệch đường

Dưới kia, trong lớp sóng lừng màu vàng

mấy chiếc áo sơ mi trắng trôi: những người cắt cỏ

họ không hề toả một chút bóng nào

Xa xa, trên cánh đồng, một kẻ nào đó có vẻ nhìn về phía này

Một chiếc mũ rộng vành che mất khuôn mặt

Dường như hắn quan sát cái hình bóng mờ trong gian buồng có thể giúp đỡ gì cho nó

Khó nhận thấy, bức tranh đã trải rộng ra và đã tự mở ra sau lưng người ốm

bị chìm trong mơ tưởng. Những tia lửa và những nhát búa

Mọi nhánh lúa mì đều chói sáng lên để đánh thức nó dậy

Con người kia – trong đám lúa mì – làm ra một dấu hiệu

Hắn dịch lại gần

Nhưng chả ai trông thấy hắn cả

Sự cố kết Sammanhang

Se det gråa trädet. Himlen runnit

genom dess fibrer ner i jorden –

bara en skrumpen sky är kvar när

jorden druckit. Stulen rymd

vrides i flätverket av rötter, tvinnas

till glömska. – De korta ögonblicken

av frihet stiger ur oss, virvlar

genom parcernas blod och vidare.

Dịch

Hãy trông cái cây màu xám này. Trời xanh đã len vào tới lòng đất qua các thớ gỗ của cây

chỉ còn một đám mây đầy vết nhăn khi đất không còn muốn uống thêm gì nữa

Không gian bị mất cắp quặn cong lại trong rễ dài tóc tết

quấn xoắn lại thành màu xanh đồng cỏ

Từng khoảnh khắc ngắn

sự tự do vào nảy nở trong tấm thân hình chúng ta

xoay quay cuồng trong các mạch máu của Thần Số Mệnh và chúng còn đi xa hơn nữa

Nguyễn Xuân Sanh là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ mới nước ta. Ông sở hữu một chùm thơ giá trị và đặc sắc đến ngày nay. Chiêm ngưỡng những thi phẩm đó chúng ta thêm phần thấu hiểu phong cách thơ sáng tạo của thi sĩ. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 3

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …