Home / Chùm thơ chọn lọc / Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 5

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 5

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 5

Những tập thơ dịch của Sanh luôn được quý độc giả đón nhận và yêu thích. Qua đó ngòi bút của ông được bộc lộ rõ nét khiến người ta phải trầm trồ ngưỡng mộ khả năng và vốn hiểu biết ngôn ngữ xuất sắc của nhà thơ. Không chỉ vang danh với những bài thơ giàu tình cảm và cao cả những bài thơ dịch của nhà thơ Tomas Tranströmer được nhiều bạn đọc quan tâm. Cùng đón xem những thi phẩm còn lại trong trang thơ này nhé!

Thuộc về đêm Nocturne

Jag kör genom en by om natten, husen stiger fram

i strålkastarskenet – de är vakna, de vill dricka.

Hus, lador, skyltar, herrelösa fordon – det är nu

de ikläder sig livet. Människorna sover:

en del kan sova fridfullt, andra har spända anletsdrag

som om de låg i hård träning för evigheten.

De vågar inte släppa allt fast deras sömn är tung.

De vilar som fällda bommar när mysteriet drar förbi.

Utanför går vägen länge mellan skogens träd.

Och träden träden tigande i endräkt med varann.

De har en teatralisk färg som finns i eldsken.

Vad deras löv är tydliga! De följer mig ända hem.

Jag ligger och ska somna, jag ser okända bilder

och tecken klottrade sig själva bakom ögonlocken

på mörkrets vägg. I springan mellan vakenhet och dröm

försöker ett stort brev tränga sig in förgäves.

Dịch

Đi qua làng ban đêm – bỗng nhà cửa hiện ra

trong ánh đèn pha – chúng bừng thức dậy và khát nước

Những ngôi nhà, lẫm lúa, biển tín hiệu, xe không chủ:

bây giờ Cuộc Sống của chúng mới trở thành xun xoe

Người ta ngủ: một số thanh bình, một số nét mặt căng lên

có vẻ họ mệt nhọc tập tành đi vào

Họ ngủ say nhưng không dám buông lỏng cái gì

Và yên nghỉ, như mọi cổng chắn đều khép lại khi một điều huyền bí đi qua

Phía sau làng, tiến dài giữa vô số cây rừng. Cây đều đồng tình im lặng

Chúng có cái vẻ biểu diễn trên sân khấu như người ta thường trông thấy qua các ngọn lửa

Ôi các lá cây có mặt đúng lúc làm sao! Chúng đi theo tôi cùng về nhà

Tôi nằm và thiu thiu ngủ, mơ thấy nhiều tượng hình và nhiều tín hiệu không quen biết

Chúng tự ghi khắc vào sau mi mắt của tôi trên bức tường đêm

Một phong bì to thử luồn vào khe kẽ

giữa giấc mơ và sự tỉnh dậy, không lọt vào đó được

Tình cảm Espresso

Det svarta kaffet på uteseveringen

med stolar och bord granna som insekter.

Det är dyrbara uppfångade droppar

fyllda med samma styrka som Ja och Nej.

Det bärs fram ur dunkla kaféer

och ser in i solen utan att blinka.

I dagsljuset ett punkt av välgörande svart

som snabbt flyter ut i en blek gäst.

Det liknar droppar av svart djupsinne

som ibland fångas upp av själen,

som ger en välgörande stöt: Gå!

Inspiration att öppna ögonen.

Dịch

đen phụ vụ trên sân thượng

Có ghế có bàn ân cần duyên dáng

Các giọt nước quý giá trong những ly trong

đều có quyền uy như một Có một Không

Người ta lấy rượu ra từ đáy hầm sâu hàng quán

không nháy mắt nó chằm chằm nhìn mặt trời sán lạn

Trong ánh ngày, một chấm đen thầm ban ơn

đến rất nhanh với một tân khách nhợt nhạt lan dồn

Hắn rất nhớ những giọt nước sáng suốt tối đen

trí óc y từng ngoạm chất men

Các giọt rượu đã cho chúng ta một cái hích cứu nạn: hãy đến đó!

Một sự khích lệ làm chúng ta mở mắt để trông thấy rõ

Trầm tư phẫn nộ

En storm för kvarnens vingar att vilt gå runt

i nattens mörker, malande intet.- Du

hålls vaken utav samma lagar.

Gråhajens buk är din svaga lampa.

Diffusa minnen sjunker till havsens djup

och stelnar där till främmande stoder. – Grön

av alger är din krycka. Den som

vandrar till havs vänder styvnad åter.

Xem thêm:  Lời thưa - Hữu Thỉnh

Dịch

Bão táp giận dỗi quay các cánh cối xay gió

trong đêm đen xay cái hư không

Đó là những quy luật làm cho anh mất ngủ

Cái bụng của con cá mập xám là ngọn đèn mờ của anh

Những ký ức lộn xộn rơi xuống đáy đại dương

để tại đó đông lại thành những bức tượng kỳ lạ

Các tảo biển đã làm xanh lại cái nạng chống của anh

Những người lên đường ra khơi có thể đôi khi trong tâm trạng bàng hoàng

Trên châu thổ sông Nin I Nildeltat

Unga frun grät rätt ner i sin mat

på hotellet efter en dag i staden

där hon såg de sjuka som kröp och låg

och barn som måste dö för nöds skull.

Hon och mannen gick upp på sitt rum

där man stänkt vatten för att binda all smuts.

De gick i var sin säng utan många ord.

Hon föll i en tung sömn. Han låg vaken.

Ute i mörkret rann ett stort larm förbi.

Sorl, tramp, rop, vagnar, sång.

Det gick i nöd. Det höll aldrig upp.

Och han somnade in krökt i ett nej.

Det kom en dröm. Han var på en sjöresa.

I det grå vattnet uppstod en rörelse

och en röst sa: “Det finns en som är god.

Det finns en som kan se allt utan att hata”

Dịch

Người vợ trẻ khóc ngay trên đĩa đồ ăn khách sạn

sau nửa ngày đi viếng thăm châu thành

chị gặp các người ốm bò trên đất kêu than

những đứa trẻ sắp qua đời vì khổ hạnh

Chị đi với chồng lên phòng nghỉ

trước đó người ta đã phun nước rửa sạch nền

Mỗi người ngả lưng mỗi giường và không trò chuyện

Chị ngủ một giấc say. Còn anh vẫn thao thức

Bên ngoài, trong bóng đêm, những tiếng ồn lan rộng

Tiếng ầm ào, tiếng chân bước, tiếng kêu, tiếng xe, tiếng hát

Cái ấy trong cơn hoảng loạn. Cái ấy không ngừng

Đoạn nó dịu đi, xếp vào một sự chối-từ khó hiểu

Một giấc mơ lại đến. Anh du hành trên biển

Nước màu xám sôi nổi lên

một tiếng ai đó nói với anh: “Có một người nào đấy tốt

Người ấy biết nhìn mọi thứ cũng chẳng bao giờ căm ghét chúng ta”

Trích nhật ký du lịch Châu Phi

På den kongolesiske hötorgsmålarens tavlor

Rör sig gestalterna tunna som insekter, berövade sin

människokraft.

Det är den svåra passagen mellan två sätt att leva.

Den som är framme har en lång väg att gå.

En ung man fann utlänningen som gått vilse bland hyddorna.

Han visste inte om han ville ha honom som vän eller

som föremål för utpressning

.Tveksamheten gjorde honom upprörd. De skildes i

förvirring.

Europeerna håller sig annars kring bilen som vore den

Mamma.

Cikadorna är starka som rakapparater. Bilen kör hem

Snart kommer det sköna mörkret som tar hand om

smutskläderna. Sov.

Den som är framme har en lång väg att gå.

Det kanske hjälper med ett flyttfågelsträck av

handskakningar.

Det kanske hjälper att släppa ut sanningen ur böckerna.

Det är nödvändigt att gå vidare.

Studenten läser i natten, läser och läser för att bli fri.

Och efter examen förvandlas till ett trappsteg för näste man.

En svår passage.

Den som är framme har en lång väg att gå.

Dịch

Trên tranh một hoạ sĩ Công-gô

rộn ràng bóng dáng thanh tao như những côn trùng bị tước hết sinh lực của con người

Một ngách giữa hai cung cách tồn tại

Con đường còn dài cho những ai ở xa phía trước kia

Người trai trẻ tóm được khách nước ngoài lạc giữa các túp lều

Cậu ta không biết sẽ biến người kia thành bạn

hay thành một người bị doạ đe để lấy của

Sự không nhất quyết làm rối trí cậu

Họ ngượng nghịu rời xa nhau

Nếu không, những người Châu Âu đứng tụm lại xung quanh chiếc xe con

như xung quanh Mẹ họ

Tiếng ve kêu cũng sắc như lưỡi dao cạo

Và chiếc xe lại lên đường

Rồi một đêm dịu dàng đến chăm lo cho các bộ áo quần bẩn

Giấc ngủ

Con đường còn dài cho những ai ở xa phía trước kia

Có thể chúng ta ăn những cái nắm tay mới gom lại của lũ chim di trú

Có thể chúng ta làm bật dậy các chân lý của sách vở

Rất cần phải đi xa

Cậu sinh viên đọc trong đêm, đọc và đọc vì tự do

sau cuộc thi, trở thành bậc cầu thang cho người đến sau

Một ngách khó vượt

Con đường còn xa cho những ai ở phía trước

Xem thêm:  Chùm Thơ Viết Về Sài Gòn Hay Và Lãng Mạn Nhất Không Nên Bỏ Qua

Trong rừng Genom skogen

En plats som kallas Jakobs kärr

är sommardagens källare

där ljuset surnar till en dryck

som smakar ålderdom och slum.

De svaga jättarna står snärjda

tätt så ingenting kan falla.

Den knäckta björken multnar där

i upprätt ställning som en dogm.

Från skogens botten stiger jag.

Det ljusnar mellan stammarna.

Det regnar över mina tak.

Jag är en stupränna för intryck.

I skogsbrynet är luften ljum. –

Stora gran, bortvänd och mörk

vars mule gömd i jordens mull

dricker skuggan av ett regn.

Dịch

Góc này gọi: đầm ao Jacob

như hầm rượu của ngày mùa

nơi ánh trời làm rượu trở chua

khẩu vị tuổi cao quả rất hợp

Các vị sức yếu, trí rối mù

vẫn không có gì làm gục được

Cây bạch dương gẫy vì mối mọt

vẫn trang nghiêm, như một tấm minh thư

Tôi leo lên núi rừng thanh vắng

Ánh sáng nảy giữa nhánh cây già

Mưa đổ xuống trên các mái nhà

Tôi, con người vốn cũng đa cảm

Ở bìa rừng, dịu lại khí trời

Tùng bách lớn, lá um, tất bật

gốc vẫn phủ trong mùn của đất

đớp bóng thầm những trận mưa rơi

Tuyết tan ban trưa Dagsmeja

Morgonluften avlämnade sina brev med frimärken som glödde

Snön lyste och alla bördor lättade – ett kilo vägde 700 gram inte mer.

Solen fanns högt över isen flygande på stället både varm och kall

Vinden gick fram sakta som om den sköt en barnvagn framför sig.

Familjerna gick ut, de såg öppen himmel för första gången på länge

Vi befann oss i första kapitlet av en mycket stark berättelse.

Solskenet fastnade på alla pälsmössor som frömjöl på humlorna

och solskenet fastnade på namnet V I N T E R och satt kvar där tills vintern var över.

Ett stilleben av timmerstockar på snön gjorde mig tankfull. Jag frågade dem:

“Följer ni med till min barndom?” De svarade “ja”.

Inne bland snåren hördes ett mummel av ord på ett nytt språk:

vokalerna var blå himmel och konsonanterna var svarta kvistar och det

talade så sakta över snön.

Men reaplanen nigande i sitt dåns kjolar

fick tystnaden på jorden att växa i styrka.

Dịch

Không khí buổi sớm gửi các bức thư dán con tem cháy bỏng

Tuyết và các kiện hàng bông dường như nhẹ nhõm – một kilo cân thành 700 gam và không cao hơn nữa

Mặt trời rải trên băng, có vẻ đứng im trên đường bay, ấm nóng hơn là lạnh

Gió thổi dịu dàng, tưởng như đang đẩy chiếc xe trẻ con

Các gia đình đi ra khỏi nhà, thấy trời quang đãng lần đầu tiên sau nhiều thời gian

Chúng ta đang mở chương đầu một câu chuyện kỳ lạ

Tia nắng mặt trời bám vào chiếc mũ không vành bằng lông thú như đám phấn hoa bám vào các mầm cây

và tia nắng mặt trời bám vào cụm từ MÙA ĐÔNG để có mãi mặt ở đó cho đến khi mùa đông chấm dứt

Tôi đứng trầm ngâm trước thiên nhiên chết của các phiến gỗ nằm trong tuyết. Tôi hỏi chúng:

“Chúng bay có đi theo ta trong tuổi bé không?”. Chúng trả lời: “Có”

Trong mớ các cây gai, người ta nghe thủ thỉ những từ của một ngôn ngữ mới

mà nguyên âm là màu xanh da trời và phụ âm, vài cành nhánh tí xíu nhẹ nhàng bập bẹ đôi lời dưới ánh tuyết

Một chiếc phi cơ được trả lương đã bày tỏ lời chào từ biệt trên các chiếc váy vang như sấm

làm cho sự im lặng trở nên thấm sâu hơn

Từ núi cao Från berget

Jag står på berget och ser över fjärden.

Båtarna vilar på sommarens yta.

”Vi är sömngångare. Månar på drift.”

Så säger de vita seglen.

”Vi smyger genom ett sovande hus.

Vi skjuter sakta upp dörrarna.

Vi lutar oss mot friheten.”

Så säger de vita seglen.

En gång såg jag världens viljor segla.

De höll samma kurs – en enda flotta.

”Vi är skingrade nu. Ingens följe.”

Så säger de vita seglen.

Dịch

Từ núi cao tôi nhìn vịnh biển

Tàu nghỉ ngơi trên nước mùa hè

“Ta: ngái ngủ. Trăng: đi chệch đường”

Buồm trắng nói thế với riêng tôi

“Ta vào nhà thiu thiu ngủ

Nhẹ nhàng đưa tay đẩy cửa

Chúng ta tựa vào tự do”

Buồm trắng nói thế với riêng tôi

“Hãy giữ cho ý chí thế gian cùng đi một đường

Chỉ có một con tàu

Hướng tới mai sau”

Buồm trắng nói thế với riêng tôi

Xem thêm:  Cảm nghĩ cùng than - Trần Thị Giang

Út trưởng C-dur

När han kom ner på gatan efter kärleksmötet

virvlade snö i luften.

Vintern hade kommit

medan de låg hos varann.

Natten lyste vit.

Han gick fort av glädje.

Hela staden sluttade.

Förbipasserande leenden –

alla log bakom uppfällda kragar.

Det var fritt!

Och alla frågetecken började sjunga om Guds tillvaro.

Så tyckte han.

En musik gjorde sig lös

och gick i yrande snö

med långa steg.

Allting på vandring mot ton C.

En darrande kompass riktad mot C.

En timme ovanför plågorna.

Det var lätt!

Alla log bakom uppfällda kragar.

Dịch

Khi anh gặp lại con đường

sau cuộc gặp gỡ tình duyên

tuyết rơi quay vòng trong gió

Vậy là mùa đông đến

họ siết chặt ôm nhau

Một đêm trắng chói sáng

Anh bước mau, bước vui

Cả thành phố

dường xuôi con đường thoai thoải

Những nụ cười trao cho

ai cũng vui vẻ

sau cổ áo đứng của mình

Đó là tự do!

Và những dấu hỏi hát ca

chào sự có mặt Thượng đế

Phải chăng anh nghĩ vậy?

Một điệu nhạc thoát lên

để đi những bước dài

vào với cơn bão tuyết

thảy đều quy tụ vào nốt do

Một giờ vượt qua sự đau khổ

Mọi thế đều thấy dễ

Mọi người đều mỉm cười

sau cổ áo đứng của mình

Vào sáng sớm Morgon och infart

Havstruten, solskepparen, styr sin väg.

Under honom är vattnet.

Nu slumrar ännu världen som en

mångfärgad sten i vattnet.

Outtydda dag. Dagar-

som aztekernas skrivtecken!

Musiken. Och jag står fångad

i dess gobeläng, med

höjda armar-lik en figur

ur allmogekonsten.

Dịch

Chim mòng biển mặc áo khoác đen

người thuỷ thủ ấy của mặt trời canh giữ đất mũi

Dưới nó là biển sóng

Thế gian yên giấc ngủ

như một tảng đá muôn màu nằm nghỉ ngơi trên mặt nước

Một ngày khó giải thích

Những ngày giống tựa chữ viết của người A-dơ-tếch!

Nhạc nổi lên. Tôi là tù nhân

trong hàng rào gỗ cao

đôi cánh tay giơ lên – hẳn là một hình tượng của nghệ thuật dân gian

Syros, đảo Hy Lạp Syros

I Syros hamn låg överblivna handelsfartyg i väntan.

Stäv vid stäv. Förtöjda sedan flera år:

CAPERION, Monrovia

KRITON, Andros

SCOTIA, Panama

Mörka tavlor på vattnet, man har hängt undan dem.

Som leksaker från vår barndom som vuxit till jättar

och anklagar oss

för det vi aldrig blev.

XELATROS, Pireus

CASSIOPEJA, Monrovia.

Havet har läst färdigt dem.

Men när vi första gången kom till Syros, det var om natten,

vi såg stäv vid stäv vid stäv i månskenet och tänkte:

vilken mäktig flotta, lysande förbindelser!

Dịch

Các tàu hàng bị bỏ quên còn nằm chờ trong cảng Syros

Một sống mũi tàu sát bên sống mũi khác. Tàu neo đã nhiều năm

CAPERION, Monrovia

KRITON, Andros

SCOTIA, Panama

Những bức tranh thấm đen trong nước, người ta đã tháo móc ra rồi

Như các đồ chơi của chúng ta, từ nay chúng ta đã khôn lớn

Chúng tố cáo chúng ta

về những gì mãi mãi chúng ta không thể trở thành được

XELATROS, Pireus

CASSIOPEJA, Monrovia.

Đại dương đã kết thúc việc đọc tên chúng ta

Khi chúng ta đến Syros lần đầu, trời lại tối

các sống mũi tàu nằm sát cái này với cái khác dưới ánh trăng làm chúng ta suy tưởng:

đoàn tàu sao mà to lớn, và bao nhiêu nét dáng đều đặn vây ta!

Tháng mười một, ánh phản chiếu của các bộ áo da lông quý tộc

Just det att himlen är så grå

får marken själv att börja lysa:

ängarna med sitt skygga gröna,

den paltbrödsmörka åkerjorden.

Det finns en ladas röda vägg.

Och det finns marker under vatten

som blanka risfält i ett Asien –

där stannar måsarna och minns.

Disiga tomrum mitt i skogen

som klingar sakta mot varann.

Inspiration som lever skymd

och flyr i skogen som Nils Dacke.

Dịch

Bởi da trời trở thành màu xám mỏng

mà trái đất hoá ánh chói chang

các bãi cỏ e thẹn những màu xanh

đất cày biến đen như máu đóng

Tại đó các tường hồng lẫm lúa

đất bị nước lụt phủ đầy

như các đám ruộng long lanh Châu Á

nơi đây hải âu hạ cánh và đắm say

Những hốc sương mù giữa rừng cây che

cũng dịch lại gần nhau dịu ngọt

Cảm hứng thường sống trong

trốn tít ở rừng con như Nils Dacke

Trên đây, Thuvientho.com đã dành cho bạn trọn bộ những bài thơ dịch của Nguyễn Xuân Sanh cực hấp dẫn và sâu sắc. Một lần nữa nhà thơ đã khẳng định vị thế của mình trên văn đàn . Hãy đồng hành cùng chúng tôi để chia sẻ những bài viết đặc sắc nhất nhé!

Xem Thêm: Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh cùng trang thơ dịch đặc sắc của nhà thơ Tomas Tranströmer phần 4

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …