Home / Chùm thơ chọn lọc / Trọn bộ những bài thơ hay nhất của nhà thơ Yến Lan phần 2

Trọn bộ những bài thơ hay nhất của nhà thơ Yến Lan phần 2

Trọn bộ những bài thơ hay nhất của nhà thơ Yến Lan phần 2

Yến Lan mà một thi sĩ sở hữu một ngòi bút tinh tế và tài hoa. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm ở quê hương và theo suốt chặng đường văn học bằng giọng điệu thơ cực kỳ đặc sắc. Sống giản dị, khiêm cung nhưng tài năng thi ca của ông phát lộ sớm và giữ được độ bền chặt, sâu đậm. Yến Lan là một trong những nhà thơ khởi xướng thơ tứ tuyệt. Cùng chúng tôi theo dõi những trang thơ của ông nhé!

Bình Định 1947

Mùa trở dạ, vườn tơ chờ trái đỏ.

Nắng lên đồi đỉnh tháp đứng chăn đê.

Đường dây thép chim về khao lúa trổ.

Dọc đường dài bụi đỏ phất mui xe.

Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám.

Trăng mái đường về hội nghị cơ quan.

Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám.

Bao đứa con xiêu lạc trở làng.

Chiều đại hội ráng lồng trên biếu ngữ.

Đời căng buồm vè xứ sở tự do.

Đường cách mạng thơm từng trang lịch sử.

Trong nhớ thương sông núi bớt mơ hồ.

Chim trắng lượn giàn, lá đang lát ngõ.

Mái hoa râm phường phố chục làm duyên.

Những hàng xén vừa nhún nha đến chợ.

Tin dữ bay về gương lược đổ nghiêng.

Cù lao Yến én bồng con chạy tổ.

Họng ca-nông ừng ực bãi Qui Nhơn.

Đường “Mười chín” cầu A dưng gãy đổ.

Móm giày đinh đến sục sạo chợ Đồn.

Người băng nẻo tuông qua lòng Bình Định.

Rứt quê hương như rứt tóc, rứt da.

Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh.

Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga.

Người treo chiếu trên cành đa rễ phụ.

Người dìu cha nơi dịch xá lộ thiên,

Người vắt sữa lau mắt con gái ngủ.

Người đứng ngã ba úp mặt xin tiền.

Người khoả cát tính đoạn đường trụ số

Người ngóng chồng trong bát cháo tàn hơi,

Người thờ thẩn nhìn ánh đèn trong phố.

Người lạ lùng trước một quả vông rơi.

Người gối lưới mơ màu xanh nước biển

Người nằm rơm nhớ bụi mía chòi dưa

Người khâu giép tiếc mũi khoan bàn tiện.

Người nhẫm tiếng quà rao ngọt đường trưa.

Người ngồi nhắc nhịp đồng hồ quả lắc.

Người tưởng chuông, làm dấu hiệu Ba Ngôi,

Người nhớ sách, người nhớ hương, nhớ nhạc

Người nhớ người, người nhớ một làn môi.

Và Bình Định nằm thương em nhớ chị,

Ôm phố phường quấn quýt sắc trời xanh.

Một viên sỏi cũng cộm thành ý nghĩ.

Sáng trên đường chờ chận bước hôi tanh.

Gò lóc thịt đắp thêm nền chướng ngại.

Dứt đốt xương cầu lịm xuống dòng sông.

Chim tìm tổ dưới ngôi nhà đổ mái.

Chân ngựa còn quyến luyến cỗ xe long.

Tin hoả tốc bạt thếp đèn cửa quán.

Lửa mài gươm sáng rực xóm Lò-rèn,

Mẹ binh sĩ lòng khâu theo túi đạn.

Phòng tuyển binh người áo vải chân chen

Mõ lốc cốc, chó không còn tiếng sủa.

Quân lên đường chân đất bước như ru.

Quạnh hơi thở trong những nhà đóng cửa.

Cha mẹ phà đường, bà chúa tản cư.

Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thuỷ,

Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.

Gái quạt trấu cũng hoá thànhdũng sĩ,

cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng.

Đời co lại từng vắt cơm, nắm muối,

Hơi thở theo hồi kẻng, bóng đôi bồ.

Lòng Bình Định như go chèn chi rối,

Dệt lòng tin qua từng gút âu lo.

Tôi sống những ngày thân cò lặn lội.

Gánh gạo phá thành, đốt đuốc dời kho.

Cùng xứ sở chong ngọn đèn le lói,

Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù.

Lan can đổ theo vọng lâu ba cửa.

Trăng đầu hôm im tựa trụ cờ cao.

Vườn gòn rộng như gian phòng goá bụa.

Dơi lạc đường về, thành luỹ đi đâu!

Hồn tôi trải: đây lầu chuông xóm Đạo.

Đây cây me Ty Niết, góc sân banh.

Đây từng ụ đất trơ màu hoang đảo.

Đem nhớ thương đỡ dậy những tâm tình.

Bài thơ nhỏ gửi qua tay bạn trẻ,

Tôi viết bên bia gãy nắng ngang đầu.

Từng nét chữ vùng lên hồn sóng bể;

Hải cảng lòng tôi chờ giặc đến chìm tàu.

Chân đi giữa những phố phường trống trải.

Xẻng cuốc người về áo lạnh hơi sương.

Trong bụi bậm những buổi chiều phá hoại.

Tôi ngạc mùi than khói ngất công trường.

Phấn vôi rã đã bay về chín hướng.

Rải căm hờn qua bãi thẳm rừng cao.

Ôi Bình Định khi thành quan ngã xuống,

Mắt con người thêm rộng nẻo tìm sao.

Bữa cơm đợi tàu

Bữa cơm đợi tàu một ga con Thanh Hoá:

Ơn đất nước cho tôi còn trọn bữa:

Rau chấm tương, đậu rán, tôm kho,

Quá mức bình thường nhà giáo làm thơ

– Trường Nhật đóng – tiêu pha đang dè dặt…

Bữa cơm đợi tàu – quán tranh nên đất

Khay gỗ vuông, đũa trúc, bát sành.

Đôi quả ớt vườn, một lát mỏng chanh,

Bát nước vối thoảng thơm mùi hoa mộc.

Thanh đạm thế, nhưng bao nhiêu mời mọc

Cô quán khăn thao khôn đón được thêm người.

Khi ngoài kia, trên hai ngả ngược xuôi:

Gồng gánh, ẵm bồng, sân ga chật ních.

Từng tốp người đi, áo nâu bạc rách,

Tiếng thở dài hơn tầm mắt ngửng trông.

Đường chưa qua đã là bước đường cùng

Mà đất cũ không còn nên chốn ở,

Ôi mảnh đất khi xới lên từng thớ,

Nhìn chưa phai máu thịt của cha ông.

Chân trời kia, mắt họ ngùi trông.

Bóng nắng, giọt mưa đều còn xa lạ.

Họ đứng đó, nhớ từng gốc rạ,

Mà giữa lòng trống trải một lưng cơm.

Ngày mai,

Ngày mai trôi đến trốn xa hơn,

Trải năm, tháng chắc gì kiếm được!

Bữa cơm đợi tàu gượng nhai gượng nốt.

Tôi đứng lên dù chưa ấm chỗ ngồi.

Khi vé cầm tay bống lại sợ tiếng còi.

Xé thêm rách nhũng cuộc đời xơ xác.

Nhà giáo ngày xưa nay chuyên sáng tác.

Xuôi ngược đường vui, tuy áo chửa bạc màu,

Bỗng chiều nay lại đến đợi tàu

Căn quán nhỏ sân ga đầu xã

Trong bóng nắng hàng cây xanh nào lạ?

Nhưng vẫn đang còn đậu rán, tôm kho.

Cơm xới bát sành, khay gỗ đũa so;

Mùi vị cũ của miền quê Thanh Hoá.

Và rộn rịp từ đường thôn các ngã,

Khách đến ngồi chật ních quanh tôi:

Kẻ xới bát ăn, người gác chén mời.

Tay nải nhắc lên, ba lô đặt xuống,

Cái nhìn khẽ hay đôi môi ngập ngừng..

Vui đáy lòng dồn lên mỗi làn mi.

Để chuyến trở về thêm ngày vui mới;

Những nghiệm cho vụ mùa sắp tới.

Những cách chân nuôi ấm tổ, đông đân;

Những bài học hay làm êm đẹp xóm làng;

Những màu sắc cho cuộc đời trẻ lại…

Muốn dài mãi cảnh chiều nay chờ đợi,

Giữa đám người như chồi sáng, bóng râm.

Bữa cơm đợi tàu sau mấy mươi năm,

Nhai chậm rãi sao mà ngon thế.

Đón cốc nước từ tay anh bạn trẻ,

Tôi mỉm cười nhìn mái tóc đang xanh.

Giữa hai tôi – những bạn đồng hành.

Không cùng tuổi nhưng chung đồng một lứa

Cánh màn trong nắng

Mẹ lên tầng sân thượng

Phơi màn nôi cho con.

Rung dây nắng động mùa thu xuống

Bóng ngã giàn su phủ lá tròn.

Mái ngói quanh vùng nhấp nhô sóng đổ

Gác mẹ như thuyền – màn con buồm nhỏ..

Phút mơ màng thoáng hiện giữa làn mi,

Lòng đơn sơ cũng chợt nhớ điều chi.

Nhớ cánh màn thưa xưa từng gấp, mở

Mang cả xế chiều đè bao hơi thở,

Cánh so le miếng vá miếng chằm;

Năm lứa con chung một tấm màn

Trong tiếng mõ sưu, bên tràng súng giặc…

Vú mẹ thiếu cơm: núm mòn sữa tắt.

Con nằm nhay nát màn nâu…

Dưới giàn su cây lá bỗng thì thào,

Như thức dậy cùng đứa con thứ sáu.

Qua ánh trưa vàng giọng con như sáo,

Bay đi tìm mẹ quanh nôi.

Từ bên trên như nhìn thấy nụ cười,

Mẹ nghiêng xuống đùa con chiếc bóng.

Gác mẹ nắng xao – thuyền cỡi sóng,

Trắng nõn màn con – lộng cánh buồm.

Xem thêm:  Mây (1943) – Tuyển tập thơ Vũ Hoàng Chương hay đặc sắc nhất phần đầu

Cầm chân em, cầm chân hoa

Em đến xin hồng, hồng mới nụ

Đêm nay hồng nở, bóng em xa

Cầm em bữa trước, em không ở

Giờ biết làm sao cầm được hoa?

Chạy mưa

Trống làng còn giục hội xuân,

Nhớ nong tằm chín dời chân em về.

Nắng đeo theo đuôi tóc thề,

Tiếc xuân, chậm bước theo lề đường trưa.

Qua đồi, trời bỗng đổ mưa.

Chạy vào cổng miếu thì vừa gặp nhau.

Cởi khăn thấm nước mái đầu.

Mờ môi anh hé tiếng chào nào hay.

Đôi ta áo mỏng mưa dày.

Bước đi thì ướt, đứng đây ngại ngùng.

Ban đầu ngoảng mặt, xây lưng,

Mưa xiên, mái dột nên cùng chạm vai.

không ngờ anh nắm bàn tay.

Mắt em muốn cắt đuôi mày của anh.

Giăng đàn qua phiếm cây xanh.

Mưa hòa khúc nhạc, đôi mình so giây.

Tạnh rồi vẫn ráng ngồi ngây

Lòng em dưới trận mưa dày trỗ hoa.

Về nhà bủa đã lên tơ.

Lứa lằm xuân ấy vàng nơ ân tình.

Cùng xuân chân bén cỏ xanh.

Cánh đồng, bờ giếng, bóng hình theo nhau.

Anh khen em thắm môi trầu.

Đôi vai gánh dịu, đường khâu chi đều.

Lòng em như cành cây xiêu.

Kiểng chân anh hái đã nhiều đọt non.

Vượt qua tai ngóng miệng đồn,

Đôi đầu đến lúc trăng lòn so đôi.

Những ngày áo rách, cơm khoai,

Hai ta sớm đứng trưa ngồi khó khăn!

Canh gà rúc lạnh chiếu chăn,

Ngọn đèn không thắp tình thân đêm dài.

Chúng mình đôi hại trấu xay,

Xác xơ thân rác cả ngày gà bươi,

Nỗi hờn nước mắt không trôi,

Vách thưa khó kín những hồi xót đau.

Hôm nào em đi hái rau,

Nửa nia thóc giống phơi sau chái nhà,

Bất ngờ một trận mưa sa.

Chạy về, anh mắng anh la đủ điều.

Vạch từ manh chiếu, mẻ niêu,

Cộng rơm trong bếp, cánh bèo ngoài ao.

Đôi ta nào phải thớt dao,

Dã không có cá, làm nhau tội tình?

Ra vườn vạch lá duối xanh,

Trông đồi xuân cũ, nhớ tình buổi xưa.

Trách trời sao lắm cơn mưa,

Cơn làm sum họp, cơn đưa rã rời!

Trách thân rồi lại trách người,

Rưng rưng giọt lệ, lau rồi lại sa.

Đêm sương lạnh áo, lạnh nhà.

Anh còn ngồi đó xót xa khác nào!

Vợ chồng, cái giận không lâu,

Xuân từ nghĩa trước, tình sau vẫn còn.

Đôi ta, chim lạc sương rừng,

Bình minh trở lại trông chừng đường xa.

Bây giờ em mới nghĩ ra:

Vì đời chật chội nên ta hẹp hòi.

Đời ta sắp đẹp lên rồi,

Xuân này mở hội bên đồi nắng thưa,

Giá trời lại đổ cơn mưa,

Chân đất – tay người

Đất có chân mà đất không đi

Đất lưu luyến bàn tay chăm chút

Ôi cái thuở mưa trôi đồi trọc

Hòn sỏi cộm đau lên thấu vai cày.

Người có tay nên bám vững đất này

Chiu chắt phân mùn lọc lên giống ngọt

Khoai nung núc và đậu vừng óng mượt

Gió bay lên hương vị của mùa màng.

Câu ca dao: “Múc đổ trăng vàng…”

Em lại hát giữa ngày nắng lộng

Hoa lạc nở dọc hàng xoan toả bóng

Con bê lồng, gió động phấn ngô bay

Dưa gối đầu ngang bãi ngủ say

Gà nhảy ổ – cả xóm thôn cục tác

Thôi mỏi cánh những đàn ong tìm mật

Lời võng ru chao bóng nhãn quanh vườn.

Lũng nhắn đồi, đồi nhắn ruộng nương

Hạt tách mộng theo vòng quay đất xới

Cả núi nữa, cũng xuê xoang sắc núi.

Từ trong xa soi đỉnh xuống gương hồ.

Máy quay phim trâu kéo lắc lư

Đá ong ửng đường chiều ỉo sẫm

Bầy chim ngói như những nắm cơm gạo cẩm.

Sà xuống đường nhặt hạt lại bay lên

Không gian tròn như bát ngửa hơi men

Chị

Khế chua chị nấu lá mùng tơi

Em ước cùng ăn đến trọn đời

Tang mẹ mãn rồi, bà mối dục

Chị đi, bát đũa cũng mồ côi.

Chiếc quả sơn

Mẹ rằng:

Xưa khi sắm sửa lấy chồng

Có người bạn gái Hà-Đông

Đã dời chốn ngụ cư

tìm đến tặng món quà xứ sở

Chiếc quả sơn mài nho nhỏ

Lênh đênh từ miền Bắc xa xôi

Vượt qua những chân trời

Trên chuyến thuyền buôn

buồm giong gió bấc

Ra cửa sông Hồng tím ngắt

Mái chèo còn thấm phù sa

Giữa lòng khoan chưa tắt tiếng dân ca

Trong những xóm làng sương bay lúa trỗ.

Chiếc quả quang dầu sơn đỏ

Viền nhũ kim

nét bút thảo đề thơ

Khiến gật gù mấy cụ đồ nho

Gợn mơ ước những làn mắt biếc

Đám cứơi nhà nghèo

trống trải tường vôi mới quét

Màu quả vun lên như nốt ruồi son

Trên làn da e lệ gái tân hôn

Đêm ấy cùng chồng

câu chuyện có bóng hình của bạn…

Mẹ ơi

Con nhớ mãi những đêm xuân trăng sáng

Sắp hương hoa trong vật cũ vừa lau

Quê bạn ở đâu

Mẹ nào bước đến

Nhưng kể con nghe sao đầy lưu luyến

Sao nồng nàn những mối tình quê

Như chính mẹ đi

về

Trên xứ sở đã quen đường thuộc lối

Đây chân dép quai cong vào cửa ô Hà Nội

Đây màu chàm

“ai lên xứ Lạng cùng anh…”

Đây canh dài quan họ Bắc Ninh

Đây tà áo tứ thân lỏng dây xà tích

Mối lạt đỏ bánh cốm xanh

mùa xuân cổ tích

Hát trầu văn ru ngủ hội đền chùa

Những câu Kiều rúc trong giấc ngủ trưa

Những cành lộc lên đồng chiêm bát ngát

Ôi, quên sao được bao niềm khao khát

Miền ngoài kia

thành nỗi vấn vương

Như chuỗi ngọc tình thương

Như mâm vàng ý nhớ

Gần bốn mươi năm bao lần đổi thay chỗ ở

Đặt trên quang gánh kềnh càng

Từng mối dây mẹ cột mẹ ràng

Lòng cứ sợ sơn phai nhựa nhả

Tình cảm mẹ như cuộn tròn giữa quả

Mỗi lần mở nắp: xông hương

Qua một mùa xuân

thêm ít nắng sương

Vài giọt lệ

dăm trận cười sáng sủa

Dù thời gian xoá dần ánh đỏ

Bụi đời cuốn hết bài thơ

Nhưng màu quả xưa như mặt nhật mây mờ

Ngày ngày chiếu trên bến lòng của mẹ

Thương gậy trúc nay dò đường quạnh quẽ

Sau những ngày giặc đốt quê nhà

Chiếc quà không còn

con phải đi xa

Chỉ còn lại những bóng hình tin tưởng

Chắc lòng mẹ hằng theo mây nhìn xuống.

Gót con đi trên đất mẹ thương yêu

Sau những buổi chiều

Trong phòng họp con xưa

ngọn đèn không cháy

Con đi giữa thủ đô

trong một chiều tháng bảy

Trước hạn ngày ký kết hiệp thương

Giữa ba mươi sáu phố phường

Trên mỗi nét răn reo con đều nhìn thấy mẹ,

Con đều thấy mặt người gái trẻ

Người Phượng lâu ở tỉnh Hà Đông

Bốn chục năm xưa

khi mẹ lấy chồng

Gói tình bạn trong món quà mìền Bắc

Mang những nhớ thương dào dạt

Lòng chảy về hàng Lọng hàng Khay

Con bước vào ếây hiệu sơn mài

Mua chiếc qủa đem về tặng mẹ

Mắt theo tia từng mà sơn nét vẽ

Cảnh Hồ Gươm

Chùa Một Cột

Ba Đình

Một điệu múa xoè múa nón

một hình ảnh hoà bình

Một cảnh công trường

đống sắt ánh lên màu kiến thiết

Một đàn trẻ áo hoa mắt biếc

Một lá cờ che chiếc thẻ đồng xanh

Một tầng than ôm chặt bãi thuyền mành.

Hay một cảnh gì

đã nói đến những đổi thay

giữa ngày vui đất nước

Bên cạnh vai con

có những chuyên gia Trung Quốc

Liên Xô Tiệp Khắc Ba Lan…

Cũng đang chọn mẫu hàng

Kỷ niệm Việt Nam

quà tặng bà con quê quán…

Tháng bảy qua rồi

giờ đây phía trời trong mây rạng

Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Liên Xô…

Những chiếc quả Việt Nam đã dạo các thủ đô

Về dưới mái nhà thân

không nóng lòng chờ đọi

Những chiếc quả của con

Cho đến hôm nay rộn ràng xuân mới

Chưa về thăm được mẹ miền Nam

Chiếc quả của con

như một giọt máu bầm

Đang đọng cứng dưới lưỡi dao chia cắt.

Xem thêm:  Bài thơ Tây Nguyên tháng ba – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Chiều

Chiều nghe chuông chở rét qua sông

Chiều mong lời vui ở cánh đồng

Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh

Chợ tàn tiễn khách với lều không

Ai nhại dùm ta tiếng võng đưa

Của bao người mẹ tự bao giờ

Những chiều năm xửa năm xưa ấy

Trong lúc ngoài trời “lén đổ mưa”

Nắng chiều nay bặt tiếng xuân tiêu

Thôi hát cùng em điệu hát chiều

Thôi tiễn cùng em người lữ khách

Bạn về đợi bạn chốn đìu hiu

Hoa chiều đã nhạt cả mùi hương

Nhạt cả lời chim ở vệ đường

Em nhớ anh ơi, mười tám tuổi

Những người mười tám phải lang thang

Chiều nay anh ở đâu

Cành xoan lá bỗng thưa.

Lạnh từ trong kẽ vách.

Gió tháng chạp đang lùa.

Tin xuân chim đã mách.

Nhớ ngày này năm ấy.

Đường chiều máu đã ghi.

Giặc châm ngòi lửa cháy.

Anh bỏ làng ra đi.

Chiều nay anh ỏ đâu?

Dang đến mùa cơm mới.

Trên đồi xưa đá sỏi.

Khoai sắn đã chen mầu.

Chiều nay anh ở đâu?

Con mương dài lại chảy.

Trắng men bờ ruộng cấy.

Hò giã gạo canh thâu.

Lớp bình dân đèn mọc,

Thoi vải chuyền trên khung.

Con nằm ngủ giữa lòng.

Mẹ ngập ngừng tiếng đọc.

Cán bộ xa về nhà.

Câu chào xao rặng trúc.

Lửa phật phồng tiếng loa.

Xóm làng đang cứu quốc.

Chiều nay anh ở đâu?

Bụi phá đường chẳng quyến.

Đêm liên hoan vắng tiếng.

Buổi bình nghị không vào.

Chiều nay anh ở đâu?

Súng đèo xa nổ dội.

Đoàn dân công, bộ đội.

Rừng thẳm lá che đầu.

Trông anh rèm lòng lạc.

Nhớ anh chiếu trễ giường.

Đèn leo lét đêm sương.

Mâm cơm thừa đũa bát.

Tin anh lấm bụi đường..

Hay núp trong rừng lá.

Kháng chiến vùng xa lạ.

Địch hậu hay tiền phương!…

Tin anh lạc trong thành.

Tin anh đang bị bắt.

Không bao giờ tin anh

Cầm súng canh đồn giặc.

Chiều qua Châu Thuận

Đến đây còn ấm nắng ngàn

Đồi son khướu hót cơ quan lá gài.

Sách thơm tủ kính mới bày,

Sân trường cô Thái giảng bài tiếng Kinh.

Thành cầu bóng nước rung rinh.

Bàn xa chiếc cáng hộ sinh trầy về.

Cửa hàng lâm sản mây che.

Ngựa thồ nối bước bên lề bướm bay.

Gặp người bạn cũ cầm tay,

Chỉ qua dốc núi: mai này lên cao,

Tiếng anh lẫn giữa tiếng chào

Kẻ qua sông mã, người vào Điện Biên;

Đôi bồ chị gái Hưng Yên.

Chiếc rương cành kiến cô em Thái Bình

Tiếng cười bản Thái dồn quanh,

Màu khăn “piêu” đã hoá thành niềm vui.

Tá chào người ngược, ta xuôi.

Giữa hoa ban trắng núi đồi miền Cao.

Trên đường “sóng chụ sôn sao”

Miền xuôi thêm những môi đào gởi lên.

Dốc cao vẳng một tiếng khèn

Chàng trai Mèo tự Pha Din đến gần.

Qua đây trùng điệp núi ngàn.

Nghe rung là biếc âm vang tiếng người

Chơi xuân

Gửi bạn vào xuân, hương cúc thoảng

Thung sâu bặt tiếng búa son tràng

Quyên đôi rỉa cánh chòm mai nhún

Câu đối trưng lên ánh nhũ vàng.

Ông lục thơ xưa trong sách cũ

Cháu tìm khoe áo với đàn anh

Ngoài sân lơ lửng nêu xe tóc

Lạc ngựa luồn trong ngõ trúc quành

Chùa bên vẳng lại tiếng chuông ngân

Ẩn hiện bờ lau cát trắng ngần

Đò chở sang sông hai quả bánh

Của người thôn nữ viếng tình nhân

Giải khăn cô gái bay trong gió

Khúc khích cười sau vạt áo bà

Lúc nãy lên chùa dâng lễ phật

Vô tình để ố vết chu sa.

Người cũ năm nay đâu hút bóng

Ngõ thôn vòm trúc vẫn che ngang

Ta đi nhặt cánh tầm xuân rớt

Của khách chơi hoa rải dọc đàng.

Chuyện trong đồng cỏ

Cỏ gợn, đồi dâng sóng nhẹ

Sương mai gió lộng màu xanh.

Xóm thôn như nổi thuyền ven bể,

Một góc Ba Vì nắng chớm hanh.

Cô em xua bò

Ăn men lũng núi,

Cởi nón ngồi đan lá dứa tơ.

Nghe máy nông trường quay nước suối,

Anh chàng đội mũ nhà binh,

Ngược gió rồ ga máy kéo,

Rút khăn lau nửa nụ cười tình,

Nhìn đất lật lên từng thớ dẻo.

Cỏ xanh tiếp cỏ – xanh một màu

Mơ trong lòng người mơ khác nhau.

Em đã thành xã viên hợp tác,

Mơ được lái cày thay sức trâu,

Anh vỡ tiếp đồi chè bát ngát,

Mơ mẹ miền Nam ra kén dâu.

Xanh xanh cỏ một màu,

Con mắt nhìn nhau, nối ý nhau:

Thế rồi… Tiệc cưới – Tuần trăng mật

Bò em ăn gửi ngựa nông trường…

Thế rồi… nghỉ phép sau mùa lạc

Anh đến nhà em kê chiếc rương…

Câu chuyện đang còn mơ có thế,

Đơn sơ như cỏ ven đồi,

Nhưng suốt bao nhiêu thế hệ,

Bắt đầu đây xanh những ngày vui,

Cổ độ

Em đi bờ bãi cũng theo đi

Sóng lặng trường giang trải phẳng lỳ

Từ ấy lòng anh làm cổ độ

Câu thơ chờ đợi hoá chòm si.

Dẫn bướm

Nhà năm sáu mái lẫm trong mây

Vách núi âm vang một nhịp chày

Đàn bướm ra ràng chưa thuộc lối

Theo anh địa chất dẫn đường bay

Đất cằn

Mô gò cằn mấy bụi dứa hoang

Nơi hằng ngày ghé nghỉ Phan Dương

Một lưỡi rựa cùn mắc trên gánh củi

Quen thuộc quá với những lời than tủi

Người đã nghèo, gò cũng chẳng giàu hơn

Chỉ nhìn nhau thầm lặng, héo hon.

Bỗng một sáng gò nghe anh khẽ hát

Ôi tiếng hát rợp màu tươi mát

Cỏ nương ngô lay rung phấn cờ

Cỏ đồng khoai cuộn vồng củ, nhấp nhô

Cỏ ruộng nước uốn cần câu lúa mẩy

Anh bạn nghèo ơi, có gì vui vậy

Trên mảnh quê này bao lớp ông cha

Cuốc vào đâu cũng gặp đất gan gà

Tiếng sỏi sạn cộm vào gan ruột?

Nhưng

Buổi sáng ấy cái nghèo đã hát

Bên đôi ky thế gánh củi cành

Và lưỡi cuốc han thay lưỡi rựa trành

Ấy bởi Phan Dương đã một đêm nghĩ kịp

Đất nghèo, đất kiệt

Đất cũng như người

Phải thay đổi cuộc đời

Từ trong hòn đất

Một gánh củi không nuôi ba ngày công chặt

Cả giải đất cằn không nuôi số người sống chật

Đời cha xưa đất hút hết mồ hôi

Con cháu giờ đây phải xoay lại thế bồi

Từ đấy, trên mô ngày ngày đến trải

Những gánh nặng lặc lè trong nắng cháy

Đất – ô hay, đâu thiếu đất trên gò?

Không – Đất mùn đen lẫn đất đỏ phù sa

Đất sực mùi sình, đất ngầu nước hến

Ôi, đất, đất như người thương đã đến

Mặt gò cằn bỗng rạo rực hơi men

Cánh ong nào theo mật dõi bay lên.

Rồi tay trồng trọt nối theo tay bồi đắp

Gò nằm nghe gió lay tược bắp

Dòng nhựa con chuyến nhẹ vồng khoai

Chồi hạt non he hé tách mày.

Bè bạn, xóm giềng thương anh lận đận.

Giúp chiếc nón, nhưng che sao hết nắng

Khắp mặt gò cơn hạn cũng lần sang

Nỗi tai ương của cả mùa màng.

*

Nhưng đôi vai vẫn dày công gánh vác

Nước xa quá, sòng không khau tát,

Ôi Phan Dương như gà trống nuôi con

Vừa tục, vừa bươi, vừa sẻ rộng cánh tròn.

Và gà bố đã thấy bầy con lớn

Nhưng biết trước sẽ có ngày ươn ốm

Còn gì đâu bồi dưỡng cho nbau

Mảnh đất này thiêu cả bãi phân trâu.

Tay gác trán, tay lần ra đầu mối

Sao mướp lại sai trên hầm lấp chuối

Sao vỉa rừng lá ủ, cỏ xanh hơn

Sao nấm dày đơm trên những bài tranh mùn

Sao? Sao, sao… với ngang trời Bắc đẩu

Qua mái dột hiện lên từng dấu

Phân xanh, phân xanh, nào mất tiền mua

Bờ bãi ơi, cho ta tự bao giờ

Nay mới biết, phải nhanh tay tìm nhận

Cảm ơn, cảm ơn, bãi bờ lênh láng

*

Đã nghe chim se sẽ gọi bầy

Đàn ong về tìm mật tận nơi đây

Người bạn láng giềng ngồi lảy ngô anh biếu

Nghe bếp anh thơm mùi khoai dìu dịu

Biết mùa sau anh có bát cơm đầy

Lây niềm vui, thúc đẩy đến nghìn tay

Màu tươi mát đang vun cao gò đất

Phải được một ngày chuyền nhau rải khắp.

Rồi một hôm mò gò lại lắng nghe

Tiếng hát vang lừng lên khắp đồng quê

Át cả làng xa hơi bom đạn giặc

Ôi tiếng hát rợp màu tươi mát

Có nương ngô lay rung phấn cờ

Cỏ dồn khoai cuộn vồng củ nhấp nhô

Cỏ ruộng nước uốn cần câu lúa mẩy

Như từ buổi sáng hôm nào ấy

Tiếng Pha Dương giữa đôi bụi dứa cằn

Hát, nhằm vào giặc đói tiến quân.

Xem thêm:  Dù sao - Đặng Vương Hưng

Đêm Trường Sơn

I

Ama T’rang-lơng – Ama T’rang-lơng

Trên đỉnh nào chon von

Tiếng hãy còn gọi thét

Đêm nay, đêm Trường Sơn

Lá lên màu lửa thiếc

Người có nghe suối đàn

Và âm vang đá nhịp

Thành nỗi vui mừng

Chào đoàn du kích.

Đêm nay: Đêm Trường-Sơn

Đêm trước ngày sấm sét

Ama T’rang Lơng – Ama T’rang Lơng

Đang về với cháu con

Theo cụ Hồ giết giặc

Có phải Người gọi tên:

Gia-Rai

Vâng, Gia-Rai có mặt

Từ phía hừng đông

Đến phơng trời tắt

Rẫy chồm qua tiếng cồng

Buôn hút mờ tầm mắt

Đất rộng, người đông

Chông dài, giáo sắc

Có phải Người gọi tên:

Ê-đê

Vâng, Ê-đê xin thưa

Khắp Cao Nguyên Đắc Lắc

Rừng già ken trận mưa

Suối dài tung bọt thác

Gió vướng tiếng chiêng khua

Trời quay theo mũi mác

Cung nỏ luôn sẵn chờ

Căm thù không thể tắt

Có phải Người gọi lên:

Ba-na

Vâng, Ba-na chẳng chậm

Người đi rền bước sấm

Từ miền xanh lá nhao

Xuôi về miền cỏ ấm

An Khê ngăn đèo cao

Người vòng qua vực thẳm

Ná bền, khiên nặng

Lời thề khắc sâu.

Có phải Người gọi tên

Kìa như núi mọc

Xê-đăng – Ka-tu

Mơ-nông – Cơ-ho…

Rắp rắp cung tên

Ùn ùn khiên mộc

Đội lên rừng xanh

Bao nhiêu dòng ngành

Hoà chung tiếng nói

Kết chung mối tình

Nhằm thù lao tớ.

II

Đêm nay, đêm Trường Sơn

Đêm ngày mai đất sét.

Đêm còn nóng hơi bom

Tiếng Ngô Mây đang thét.

*

Đêm phát rẫy ngoài buôn

Lưng còng trong gió hút

Hai tháng mẹ nuôi quân

Chờ lửa thiêu Tà-mực.

*

Đêm trườn qua Hải Vân

Gài mìn trên đá trợt

Bao đoàn tàu giặc lăn

Dưới tầm tay Bùi Chát.

*

Đêm quắc mắt lửa giăng

Ama Hân nhìn giặc

Này lá phổi, buồng gan

Bắn đi quân tàn ác

Đừng hòng phỉnh bàn chân

Nhích lên dù nưa tấc

Ảnh Cụ, đầu tao nâng

Chân tao không thể đạp.

*

Đêm đỏ núi Chư-lây

Tạo ra anh hùng Núp

Thoát dân khỏi rào vây

Dời làng theo mạch nước

Moi rẫy vẹt đầu tay

Nhịn muối vàng con mắt.

Mười ba bận dựng làng

Nghìn ngày chờ bộ đội

Đá ơi mày biết lăn

Hãy chặn đường giặc tới.

Lúa ơi, đừng sợ Giàng

Ta cùng gieo mùa mới

Lô-pang, a! lô-pang

Cơm mặn rồi vị muối

Suối ơi, ta gài đàn

Gảy cho rừng vui với.

Nơi cán bộ cụ Hồ

Bày anh em đánh Pháp

Nuôi đỏ bếp Hà Ro

Biến nương thành ruộng ngập.

Vót nhọn núi Tơ Ngo

Quyết làm nên bão táp.

Có những bàn tay

Có những bàn tay nhẹ tưởng mây

Run run đưa gửi, cũng giờ này

Một vài ý nghĩa theo lời địch

Không biết về đâu lắm khắp cây

Thấy những bàn tay như đóa hoa

Trong bao thần thoại ở muôn xa

Không tìm ai cả, trong như ngọc

Thả những chiêm bao nhà lại nhà

Có những bàn tay mang ngón tay

Lạc loài như một cánh chim bay

Mùa đông vèo gió qua bao ngón

Như tủa vào đau hạn vạn ngày

Bàn tay tôi – cả những bàn tay

Đã trải hồn sang bể mộng đầy!

Đã sống ngày hoa, vườn ngát rộng!

Đã mang trời nhạt, hứng mưa bay

Nhưng chẳng cùng chàng một tối êm

Dìu nhau say những phút trang nghiêm

Bàn tay khờ khạo vô duyên quá

Chỉ muốn tin nhau những nỗi niềm!

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn những trang thơ đầy ấn tượng của nhà thơ Yến Lan. Đây là một thi sĩ nổi tiếng với những bài thơ tình cảm sâu sắc khiến bạn đọc mê mẩn và vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Mời các bạn đón xem phần 3 cùng những bài thơ đặc sắc hơn nữa nhé! Thân Ái!

Xem Thêm: Trọn bộ những bài thơ hay nhất của nhà thơ Yến Lan phần 1

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …