Home / Chùm thơ chọn lọc / Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần 4

Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần 4

Truyên thơ Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) hay đặc sắc phần 4

Truyện thơ Lục Vân Tiên là một trong những sáng tác tiêu biểu gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu. Ngay từ khi ra đời tập thơ này đã trở thành một phần của văn hóa, văn học của những người dân Nam Bộ. Và nó còn mở rộng ra khắp cả nước. Qua đó ta cũng hiểu được các giá trị văn hóa và các tư tưởng mà nhà thơ muốn chuyển tải trong tác phẩm của mình.

Hồi 15: Nguyệt Nga nhân có Lục ông, Kiều công mời qua, nghe tin Vân Tiên mất, buồn rầu khóc than

Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga,

Hà khê phủ ấy theo cha học hành,

Kiều công lên chức Thái khanh,

Chỉ sai ra quận Đông thành chăn dân.

Ra tờ khắp hết xa gần,

Hỏi thăm họ Lục těm lần đến nơi,

1271. Khiến quân đem bức thư mời,

Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền.

Kiều công hỏi Lục Vân Tiên,

Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.

Thưa rằng: “Nghe tiếng đồn vang,

“Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.

“Biệt tin từ ấy nhẫn nay,

“Phút nghe người nói châu mày lại thương!”

Kiều công trong dạ bàng hoàng,

Trở vào nói lại cùng nàng Nguyệt Nga:

1281. “Lục ông nói lại cùng cha,

“Duyên con rày đã trôi hoa dạt bèo.”

Riêng than chút phận tơ điều,

Hàn giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi!

Nàng rằng: “Phải thiệt như lời,

“Xin cha sai kẻ mời người vào trong.”

Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng.

Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.

Công rằng: “Nào bức tượng xưa?

“Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhěn.”

1291. Lục ông một buổi ngồi nhìn,

Tay chưn vóc vạc đều in con mình.

Chuyện trò sau trước phân minh,

Lục ông khi ấy sự tình mới hay:

“Thương con phận bạc lắm thay,

“Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu?”

Kiều công chi xiết nỗi sầu,

Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.

Kiếm lời khuyên giải với nàng:

“Giải cơnphiền não kẻo mang lấy sầu.

1301. “Người đời như bóng phù du,

“Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.

“Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,

“Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà.

“Cũng như cửa sổ ngựa qua,

“Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền?”

Nàng rằng: “Trước đã trọn nguyền,

“Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ.”

Công rằng: “Chút nặng tình xưa,

Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.

1311. Lục ông cáo tạ xin lui:

“Tôi đâu dám chịu của người làm chi?

“Ngỡ là con trẻ mất đi,

“Hay đâu cốt cách còn ghi tượng nầy.

“Bây giờ con lại thấy đây,

“Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?.”

Ngửa than: “Đất rộng trời cao,

“Tre còn măng mất lẽ nào cho cân.”

Lục ông từ tạ lui chân,

Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang.

1321. Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,

Năm canh luỵ ngọc xốn xang lòng vàng.

Nhớ khi thề thốt giữa đàng,

Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu.

Công đà chờ đợi bấy lâu,

Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.

Biết nhau chưa đặng mấy hồi,

Kẻ còn người mất, trời ôi là trời!

Thuở xưa giữ dạ ghi lời,

Thương người quân tử biết đời nào phai?

1331. Tiếc thay một dự anh tài,

Việc văn, việc võ nào ai dám bì?

Thương vì đèn sách lòng ghi,

Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!

Thương vì hai tám trên đầu,

Người đời như bóng phů du lỡ làng.

Thương vì chẳng đặng hiển vang,

Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh.

Thương vì đôi lứa chưa thành,

Vùa hương bát nước ai dành ngày sau?

1341. Năm canh chẳng ngớt giọt châu,

Mặt nhěn bức tượng ruột đau như dần.

Dương gian nay chẳng đặng gần,

Âm cung biết có thành thân chăng là?

Kiều công thức dậy bước ra,

Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.

Khuyên rằng: “Con chớ cưu mang,

“Gẫm trong còn mất là đường xưa nay.

“Đàn cầm ai khéo dứt dây,

“Chẳng qua con tạo đổi xây không thường.”

1351. Nàng rằng: “Khôn xiết nỗi thương,

“Khi không gãy cánh giữa đường ai hay.

“Nay đà loan phụng rẽ bầy,

“Nệm nghiêng gối chích phận nầy đã cam.

“Trăm năm thề chẳng lòng phàm,

“Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.

“Thân con còn đứng giữa trời,

“Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi.”

Xem thêm:  Mùi Sầu Riêng – Tập thơ ấn tượng nhất của nhà thơ Lê Đạt Phần 2

Kiều công trong dạ chẳng vui:

“Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?”

Hồi 16: Thái sư đi nói Nguyệt Nga cho con không được, nên oán mà xin vua đòi đi cống Hồ bên nước Ô Qua

1361. Có người sang cả ngôi cao,

Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.

Nghe đồn con gái Kiều công,

Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương,

Thái sư dùng lễ vật sang,

Mượn người mai chước kết đàng sui gia.

Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,

Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư.

Thái sư chẳng biết rộng suy,

Đem lòng oán hận sớm ghi vào lòng.

1371. Phút đâu giặc mọi làm hung,

Lung lăng nết dữ binh nhung dấy loàn.

Đánh vào tới ải Đồng Quan,

Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần.

Sao cho vững nước an dân,

Các quan ai biết mưu thần bày ra.

Thái sư nhớ việc cừu nhà,

Vội vàng quì xuống tâu qua ngai vàng:

“Thủa xưa giặc mọi dấy loàn,

“Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.

1381. “Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,

“Đưa con gái tốt giao hoà thời xong.

Nguyệt Nga là gái Kiều công,

“Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.

“Nàng đà có sắc khuynh thành,

“Lại thêm rất bậc tài tình hào hoa.

“Đưa nàng về nước Ô Qua,

“Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh,

Sở vương nghe tấu thuận tình,

Châu phê dạy sứ ra dinh Đông thành.

1391. Sắc phong Kiều lão Thái khanh:

“Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi.

“Nguyệt Nga nàng ấy nên người,

“Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ.”

Kiều công vâng lệnh nhà vua,

Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.

Nguyệt Nga trong dạ như bào,

Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.

Thất tình trâm nọ biếng cài,

Dựa mành bỏ xả tóc dài ngồi lo:

1401. “Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,

“Bởi ngươi Diên Thọ hoạ đồ gây nên.

“Hạnh Ngươn sau cũng khỏi miền,

“Bởi chưng Lư Kỷ cựu hiềm còn ghi.

“Hai nàng chẳng đă phải đi,

“Một là ngay chúa, một vì thảo cha.

“Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,

“Thương vua nhà Hớn, vốn đà quyên sinh.

“Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì Linh,

“Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.

1411. Tới nay phận bạc là ta,

“Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.

“Tình phu phụ, nghĩa quân thần,

Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.

Nghĩa tình nặng cả hai bên,

“Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.

“Sao sao một thác thời xong,

“Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.”

Kiều công nương gối đang lo,

Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.

1421. Kêu vào ngồi dựa trường tiền,

Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh.

“Chẳng hay là việc triều đěnh,

“Nào cha có muốn ép tình chi con?”

Nàng rằng: “Còn kể chi con,

“Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.

“Thương cha tuổi tác đã cao,

“E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.

“Tuổi già bóng xế nhành dâu,

“Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?”

1431. Công rằng chẳng xá việc nhà,

“Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.

“Hôm nay đã tới mồng mười,

“Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành.”

Nàng rằng: “Việc ấy đã đành.

“Còn lo hai chữ ân tình cho xong.

“Con xin sang lạy Lục ông,

“Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.

“Ngỏ cho nhân nghĩa vẹn tuyền

“Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau.

1441. Kiều công biết nghĩ trước sau,

Dạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi.

Lục ông ra trước một khi,

Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.

Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,

Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.

Mở ra bức tượng treo lên,

Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.

Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:

“Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay?”

1451. Bảy ngày rồi việc làm chay,

Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:

“Trông chồng mà chẳng thấy chồng,

“Đã đành một chữ má hồng vô duyên.

“Rày vua gả thiếp về Phiên,

“Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.

“Chẳng chi cũng gọi là dâu,

“Muốn lo việc nước, phải âu việc nhà.

“Một ngày một bước một xa,

“Của nầy để lại cho cha dưỡng già.”

1461. Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,

Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.

Các quan xe giá bộn bề,

Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.

Xem thêm:  Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ ( Thanh Hải ) – Bức tranh thiên nhiên tràn đầy sự sống

Hai mươi nay đă đến ngày,

Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.

Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,

Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.

1471. Nàng rằng: “Non nước cao sâu,

“Từ đây cách khỏi, khôn hầu thấy cha.

“Thân con về nước Ô Qua,

“Đă đă đành một nỗi làm ma đất người.

“Hai phương nam bắc cách vời,

“Chút xin gởi lại một lời làm khuây.

“Hiu hiu gió thổi ngọn cây,

“Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.”

Kiều công hạt luỵ nhỏ sa,

Các quan ai thấy cũng là tình thương.

1481. Chẳng qua việc ở quân vương,

Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.

Buồm trương, thuyền vội tách vời,

Các quan đưa đón, người người đứng trông.

Mười ngày đă tới ải Đồng,

Mênh mông biển rộng, đùng đùng sóng xao.

Hồi 17: Nguyệt Nga nhảy xuống sông, nhờ Quan Âm đem vô bờ; vào vườn gặp Bùi ông đem về nuôi, bị Bùi Kiệm dỗ ngon dỗ ngọt

Đêm nay chẳng biết đêm nào,

Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ.

Trên trời lặng lẽ như tờ,

Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.

1491. Than rằng: “Nọ nước kìa non,

“Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu?”

Quân hầu đều ngủ đă lâu,

Lén ra mở bức rèm châu một mình:

“Vắng người có bóng trăng thanh,

“Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.

“Vân Tiên anh hỡi có hay,

“Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng.”

Than rồi lấy tượng vai mang,

Nhắm chừng nước chảy vội vàng nhảy ngay.

1501. Kim Liên thức dậy mới hay,

Cùng quân thể nữ một bài đều lo,

Cùng nhau lặng chẳng dám hô,

Thầm toan mưu kế chẳng cho lậu tình.

Việc nầy là việc triều đình,

Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.

Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,

Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.

Trá hôn về nước Ô qua,

Ai mà vạch lá, ai mà tìm sâu?

1511. Tính rồi xong xả chước mầu,

Phút nghe thuyền đă đến đầu Ải quan.

Đốc quan xe giá sửa sang,

Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.

Nào hay tỉ tất Kim Liên,

Đặng làm Hoàng hậu nước Phiên một đời.

Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời.

Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.

Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,

Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày Âm cung.

1521. Xiết bao sương tuyết đęm đông,

Měnh nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay?

Quan âm thương đấng thảo ngay,

Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.

Dặn rằng: “Nàng hỡi Nguyệt Nga!

“Tìm đường nương náu cho qua tháng ngày.

“Đôi ba năm nữa gần đây,

“Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi.”

Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,

Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.

1531. Nên hư chưa biết làm sao,

Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?

Một mình luống những bâng khuâng,

Phút đâu trời đă rạng hừng vừng đông.

Một mênh mang bức tượng chồng,

Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.

Ông rằng: “Nàng ở hà phương?

“Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?

Nàng rằng trận gió thổi qua,

“Chìm thuyền nên nỗi mình ra thế nầy.

1541. “Tối tăm sẩy bước tới đây,

“Xin soi xét tới thơ ngây lạc đường.”

Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,

Chẳng phen đài các cũng phường trâm anh.

Đầu đuôi han hỏi sự tình,

Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.

Bùi ông mừng rước về nhà,

Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con:

“Ta cũng xinh một chồi non,

“Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở Kinh.

1551. “Trong nhà không gái hậu sinh,

Ngày nay lại gặp minh linh phước trời.”

Nguyệt Nga ở đă an nơi,

Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.

Một lo về nước Ô qua,

E vua bắt tội cha già rất oan.

Hai lo phận gái hồng nhan,

Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì.

Nguyệt Nga luống những sầu bi,

Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.

1561. Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,

Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.

Thấy nàng thờ bức tượng nhân,

Nghiệm trong tinh ý dần lân hỏi liền:

“Tượng nầy sao giống Vân Tiên?

“Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?”

Nàng rằng: “làm phận nữ nhi,

“Một câu chính tiết phải ghi vào lòng.

“Trăm năm cho trọn đạo tòng,

“Sống sao thác vậy một chồng mà thôi.”

1571. Kiệm rằng: “Nàng nói sai rồi,

Xem thêm:  Bài thơ Em muốn buông tay – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

“Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?

“Làm người trong cõi gió mưa,

“Bảy mươi mấy mặt người xưa thế nào?

“Chúa xuân còn ở vườn đào,

“Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.

“Chúa đông ra khỏi vườn xuân,

“Hoa tàn nhuỵ rữa như rừng bỏ hoang.

“Ở đời ai cậy giàu sang,

“Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.

1581. “Hay chi như vãi ở chùa,

“Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.

“Lênh đênh một chiếc thuyền tình,

“Mười hai bến nước biết mình vào đâu?

“Ai từng mặc áo không bâu,

“Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau?

“Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,

“Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình.”

Nàng rằng: “Xưa học sử kinh,

“Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.

1591. “Chẳng phen thói nước Trịnh đâu,

“Hẹn người tới cửa vườn dâu tư těnh.”

Kiệm rằng đă biết sử kinh,

“Sao không soi xét để měnh ngồi không.

“Hồ Dương xưa mới goá chồng,

“Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa.

“Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,

“Sớm đưa Doăn Phủ tối ngừa Trần quân.

“Hán xưa Lữ hậu thanh xuân,

“Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ky.

1601. Đường xưa Vő hậu thiệt gì,

“Di tông khi trẻ, Tam Tư lúc già.

“Cứ trong sách vở nói ra,

“Một đời sung sướng cũng qua một đời.

“Chính chuyên làm sự đổi dời,

“Lăng vân trắc nết hết đời cũng ma.

“Người ta chẳng lấy người ta,

“Người ta đâu lấy những lò tượng nhân?

“Cho nên tiếc phận hồng nhan,

“Học đňi Như Ý vẽ chàng Văn Quân.”

1611. Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân,

Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.

Bùi ông ngon ngọt trau dồi,

Muốn nàng cho đặng sánh đôi con měnh.

“Làm người chấp nhất sao đành,

“Hễ là lịch sự có kinh có quyền.

“Tới đây duyęn đă bén duyên,

“Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai?

“Nhớ câu xuân bất tái lai,

“Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn.

1621. “Làm chi thiệt mạng hồng nhan,

“Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.

“Vọng Phu xưa cũng trông chồng,

“Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

“Thôi thôi khuyên chớ thở ra,

“Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi.”

Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,

Thưa rằng: “Người có công nuôi bấy chầy.

“Tôi xin dám hỏi lời nầy,

“Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhân duyên.

1631. “Tôi vào lạy tạ Vân Tiên,

“Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung.”

Cha con thấy nói mừng lòng,

Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.

Cỗ đồ bát bửu mượn về chưng ra.

Chiếu hoa gối sách bộn bề,

Cỗ đồ bát bửu mượn về chưng ra.

Hồi 18: Nguyệt Nga trốn họ Bùi, lão bà gặp đem về nuôi

Xảy vừa tới lúc canh ba,

Nguyệt Nga lấy bút đề vài câu thơ.

Dán trong vách phấn một tờ,

Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.

1641. Hai bên bờ bụi rậm rì,

Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.

Lạ chừng đường sá bơ vơ,

Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.

Qua truông rồi lại lên đèo,

Dế kêu giắng giỏi, sương gieo lạnh lùng.

Dày sành đạp sỏi thẳng xông,

Vừa may trời đă vừng đông lố đầu.

Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,

Těm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chưn.

1651. Người ngay trời phật cũng vưng,

Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.

Hỏi rằng: “Nàng phải Nguyệt Nga,

“Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta.

“Khi khuya nằm thấy Phật bà,

Người đà mách bảo nên già phải đi.”

Nguyệt Nga bán tín bán nghi,

Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.

Bước vào thấy những đàn bà,

Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.

1661. Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,

Từ đây mới hết nổi trôi chốn nào.

Hỏi thăm qua chốn Ô sào,

Quan san mấy dặm đi nào tới nơi.

Truyện thơ Lục Vân Tiên dài và được chia làm nhiều hồi. Trên đây chúng tôi đã giới thiệu với bạn các phần tiếp theo trong tập truyện thơ này. Qua đó bạn sẽ nắm được tư tưởng mà nhà thơ muốn chuyển tải. Đó là văn dĩ tải đạo, bởi ở đây nhà thơ chủ yếu bàn về luân lý, cốt bàn đạo làm người. Đừng quên đón đọc các hồi cuối cùng của tập thơ Lục Vân Tiên bạn nhé!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …