Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến khá đồ sộ với hơn 170 bài. Đây là những sáng tác hay và độc đáo. Ở đó ta cảm nhận được một tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống này. Và ông cũng chính là một người rất gần gũi và gắn bó với thiên nhiên và người dân. Chính những điều này đã là cảm hứng sáng tác cho nhà thơ. Hãy cùng theo dõi các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến hay mà chúng tôi chia sẻ dưới đây bạn nhé!
Dục Thuý sơn
浴翠山
萬古青山在,
何年浴翠名。
孤城千仞落,
一寺半江平。
慧遠今何處,
升庵尚有銘。
斜陽懷古意,
三兩暮禽聲。
Dục Thuý sơn
Vạn cổ thanh sơn tại,
Hà niên Dục Thuý danh.
Cô thành thiên nhận lạc,
Nhất tự bán giang bình.
Tuệ Viễn kim hà xứ,
Thăng am thượng hữu minh.
Tà dương hoài cổ ý,
Tam lưỡng mộ cầm thanh.
Dịch nghĩa
Non xanh có từ muôn thuở xưa,
Tên Dục Thuý năm nào mới đặt?
Toà thành đứng trơ vơ trên cao ngàn thước,
Một ngôi chùa nhô ra giữa dòng sông.
Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu?
Ông Thăng Phủ vẫn còn bia khắc đó.
Bóng tà gợi lên những ý tình hoài cổ,
Thánh thót đôi ba tiếng chim chiều.
Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn
與本縣尹阮,原尹陳同飲,即席書餞
一別琴聲十五年,
中間消息兩茫然。
更知後會為何日,
忽漫相逢是別筵。
送客重吟江上句,
憂時難補劍南扁。
吾儕行止猶如是,
休怪青蛾不值錢。
Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn
Nhất biệt cầm thanh thập ngũ niên,
Trung gian tiêu tức lưỡng mang nhiên.
Cánh tri hậu hội vi hà nhật,
Hốt mạng tương phùng thị biệt diên.
Tống khách trùng ngâm “Giang thượng” cú,
Ưu thời nan bổ Kiếm Nam thiên.
Ngô thời hành chỉ do như thị,
Hưu quái thanh nga bất trị tiền.
Dịch nghĩa
Xa cách tiếng đàn đã mười lăm năm
Trong thời gian ấy tin tức hai bên đều mờ mịt
Còn biết đâu cuộc họp sau này là ngày nào
Bỗng chốc gặp nhau lại ở trên tiệc tiễn biệt
Đưa khách lại một lần ngâm câu “Giang thượng”
Lo đời nhưng khó nối tiếp được tập thơ Kiếm Nam
Bọn chúng ta đi hay ở mà còn như thế
Thì trách gì khách mày ngài không đáng đồng tiền nữa
Dữ hữu nhân Đồng Tốn dạ thoại
與友人同巽夜話
一別書齋四十年,
如今相對已皤然。
源流益遠知誰是,
策塞相爭各自賢。
身健喜看君有母,
眼花愁嘆我無天。
將相把盞頹然醉,
不覺窗前枕藉眠。
Dữ hữu nhân Đồng Tốn dạ thoại
Nhất biệt thư trai tứ thập niên,
Như kim tương đối dĩ bà nhiên.
Nguyên lưu ích viễn tri thuỳ thị,
Sách tái tương tranh các tự hiền.
Thân kiện hỉ khan quân hữu mẫu,
Nhãn hoa sầu thán ngã vô thiên.
Tương tương bả trản đồi nhiên tuý,
Bất giác song tiền chẩm tạ miên.
Dịch nghĩa
Từ khi xa nhà học tính đã bốn mười năm
Ngày nay lại ngồi cùng nhau thì đầu đã bạc phơ
Nguồn và dòng ngày càng xa nhau biết ai là phải
Người đọc sách, người đánh cờ tranh cãi nhau ai cũng cho mình là hơn
Mừng bác còn mẹ già sức vẫn mạnh khoẻ
Ngán cho tôi mắt loà chẳng biết trời đâu
Cùng nhau đánh chén say ngả nghiêng
Thành ra gối lên nhau ngủ trước cửa sổ mà không biết
Đại mại sơ
玳瑁梳
奇珍產出里山洲,
巾笥追隨二十秋。
此物自從歸我手,
一生祇合上人頭。
黃塵掃蕩歸殘齒,
白髮蓬鬆獨隱憂。
祇此貞心堪共賞,
何惟文彩似明珠。
Đại mại sơ
Kỳ trân sản xuất Lý Sơn châu,
Cân tứ truy tuỳ nhị thập thu.
Thử vật tự tòng quy ngã thủ,
Nhất sinh kỳ hợp thướng nhân đầu.
Hoàng trần tảo đãng quy tàn xỉ,
Bạch phát bồng tùng độc ẩn ưu.
Kỳ thử trinh tâm kham cộng thưởng,
Hà duy văn thái tự minh châu.
Dịch nghĩa
Vật quý lạ sinh ra tù cù lao Lý Sơn
Được theo liền vói khăn với trap của ta đã hai mươi năm
Vật này từ lúc thuộc về tay ta
Suốt đời riêng được nâng lên trên đầu người
Bụi vàng quét sạch còn lại đám răng cùn
Tóc bạc lồng bồng riêng những âm thầm trong dạ
Chỉ kể tấm lòng bền bỉ đó đã đáng được mọi người ưa chuộng
Lựa là văn vẻ tựa như viên ngọc minh châu
Đạo thất đạo
盜失盜
盜向人家穿取錢,
盜人又向盜家穿。
嬴輸遷轉無常局,
出入循環若夙緣。
化乏彥方休賜帛,
荇非王素莫投椽。
利途到底渾如是,
奚獨穿牆盜乃然。
Đạo thất đạo
Đạo hướng nhân gia xuyên thủ tiền,
Đạo nhân hựu hướng đạo gia xuyên.
Doanh thâu thiên chuyển vô thường cục,
Xuất nhập tuần hoàn nhược túc duyên.
Hoá phạp Ngạn Phương hưu tứ bạch,
Hạnh phi Vương Tố mạc đầu chuyên.
Lợi đồ đáo để hỗn như thị,
Hề độc xuyên tường đạo nãi nhiên.
Đảo vũ
禱雨
迎神已三日,
不雨神又歸。
前者張翠蓋,
後者奉明粢。
民怒責諸神:
『神非民何依?
不雨何不告,
使民勞且饑?』
神曰:『來汝民:
此非我所知!
吾惟嗜飲食,
雨非吾能為』。
神今且如此,
於民復奚疑?
Đảo vũ
Nghinh thần dĩ tam nhật,
Bất vũ thần hựu quy.
Tiền giả trương thuý cái,
Hậu giả phụng minh ty.
Dân nộ trách chư thần:
“Thần phi dân hà y?
Bất vũ hà bất cáo,
Sử dân lao thả ky?”
Thần viết: “Lai nhữ dân:
Thử phi ngã sở tri!
Ngô duy thị ẩm thực,
Vũ phi ngô năng vi”.
Thần kim thả như thử,
Ư dân phục hề nghi?
Dịch nghĩa
Rước thần đến đã ba ngày rồi,
Không thấy mưa lại rước thần về.
Người đàng trước giương lọng xanh,
Kẻ đàng sau đội xôi trắng.
Dân giận mới trách thần rằng:
“Nếu không có dân thì thần nương tựa vào ai?
Không có mưa, sao thần không kêu cầu cho,
Khiến dân vừa vất vả vừa đói?”
Thần rằng: “Dân ơi, lại đây ta bảo:
Việc ấy ta không được biết!
Ta chỉ thích ăn uống thôi,
Còn mưa thì ta không làm được”.
Thần ngày nay còn như thế,
Thì dân khổ còn nghi ngờ gì nữa?
Đăng Ngũ Hành sơn lưu đề
登五行山留題
五行秀色鬱岧嶢,
海上三神定不遙。
日月九天迴洞口,
波濤萬里蕩山腰。
晴空石壁生寒雨,
夜半鐘聲落嫩潮。
覽此江山奇勝絕,
生教塊礧一時消。
Đăng Ngũ Hành sơn lưu đề
Ngũ Hành tú sắc uất thiều nghiêu,
Hải thượng tam thần định bất dao.
Nhật nguyệt cửu thiên hồi động khẩu,
Ba đào vạn lý đãng sơn yêu.
Tình không thạch bích sinh hàn vũ,
Dạ bán chung thanh lạc nộn triều.
Lãm thử giang sơn kỳ thắng tuyệt,
Sinh giao khối lôi nhất thì tiêu
Dịch nghĩa
Vẻ đẹp núi Ngũ Hành rậm rạp tít trên cao
Ba vị thần trên biển yên vị không xa
Bầu trời bao la ngoài cửa động mặt trăng mặt trời chạy vòng quanh
Nghìn dặm sóng bát ngát vỗ bên sườn núi
Trời quang vách đá sinh mưa lạnh
Nửa đêm tiếng chuông rơi xuống ngọn triều mới lên
Ngắm cảnh non sông đẹp tuyệt kỳ nơi đây
Bỗng chốc mọi uất kết trong lòng đều tan biến
Đấu xảo ký văn
鬥巧記聞
鬥巧場開百物陳,
噫何巧也巧而新。
近來誰鑿乾坤空,
到此方知宇宙春。
遠國服裝真詭異,
深林鳥獸絕奇珍。
尋常敝邑無他巧,
聊作冠裳木偶人。
Đấu xảo ký văn
Đấu xảo trường khai bách vật trần,
Y hà xảo dã xảo nhi tân.
Cận lai thuỳ tạc càn khôn khống,
Đáo thử phương tri vũ trụ xuân.
Viễn quốc phục trang chân quỷ dị,
Thâm lâm điểu thú tuyệt kỳ trân.
Tầm thường tệ ấp vô tha xảo,
Liêu tác quan thường mộc ngẫu nhân.
Dịch nghĩa
Cuộc đấu xảo mở ra trăm thứ được đem trưng bày
Ôi! Sao khéo thế? Khéo mà lại mới nữa
Không biết gần đây ai đã khoét trời đất ra thành lỗ?
Có đến tận đây mới biết cảnh xuân của vu trụ
Nào là cách ăn mặc của các nước phương xa trong rất lạ lung
Nào là chim muông trong rừng sâu rất hiếm có
Xứ tôi tầm thường không có gì khéo cả
Gọi là tạc pho tượng gỗ có đủ mũ xiêm đem ra trưng bày vậy
Đề ảnh
Ngô nhiễn ngô diện bì,
Ngô tâm ngô phất trị.
Nhật nguyệt tu thiêm bạch,
Phong trần sắc tiệm tuy.
Bách bôi hình tặng ảnh,
Thiên tả ngã vị tuỳ.
Ngưỡng phủ phất hà tưởng,
Yên ba vô tận kỳ.
Đề Trung Liệt miếu
題忠烈廟
一簇崇祠古,
千家雲樹中。
鬼神泣壯烈,
日月懸孤中。
氣與大化合,
地因新邑隆。
九原熟為作,
惟是狄梁公。
Đề Trung Liệt miếu
Nhất thốc sùng từ cổ,
Thiên gia vân thụ trung.
Quỷ thần khấp tráng liệt,
Nhật nguyệt huyền cô trung.
Khí dữ đại hoá hợp,
Địa nhân tân ấp long.
Cửu kinh thục vi tác,
Duy thị Địch Lương Công.
Dịch nghĩa
Một toà đền cao đã cổ
Ở giữa nghìn nhà cây phủ mây che
Chí khí tàng liệt làm quỷ thần phát khóc
Tấm gương cô trung treo cao như mặt trăng mặt trời
Chí khí cùng với cõi trời hoà một
Mặt đất có làng mới lập mà phồn thịnh thêm
Dưới chín suối hỏi ai là người trỗi dậy (để sánh cùng)
Hoạ chỉ có một mình Địch Lương Công thôi
Điền gia tự thuật
田家自述
上皇崩乃老,
迄今歷五考。
閒居恥素餐,
而食亦求飽。
所以田爾田,
惟是寶吾寶。
深耕以起土,
易耨以除草。
糞之澤如膏,
芸之淨如掃。
晝夜不遑休,
心力無遺巧。
猶慮天雨淋,
猶慮河水早。
發苞畏風逆,
立苗恐旱槁。
幸而四時調,
方望新穀好。
安知新穀好,
又爲碩鼠咬。
勉哉盡當爲!
饑寒不可保。
Điền gia tự thuật
Thượng hoàng băng nãi lão,
Hất kim lịch ngũ khảo.
Nhàn cư sỉ tố xan,
Nhi thực diệc cầu bão.
Sở dĩ điền nhĩ điền,
Duy thị bảo ngô bảo.
Thâm canh dĩ khởi thổ,
Dị nậu dĩ trừ thảo.
Phấn chi trạch như cao,
Vân chi tịnh như tảo.
Trú dạ bất hoàng hưu,
Tâm lực vô di xảo.
Do lự thiên vũ lâm,
Do lự hà thuỷ tảo.
Phát bao uý phong nghịch,
Lập miêu khủng hạn cảo.
Hạnh nhi tứ thời điều,
Phương vọng tân cốc hảo.
An tri tân cốc hảo,
Hựu vị thạc thử giảo.
Miễn tai tận đương vi!
Cơ hàn bất khả bảo.
Dịch nghĩa
Vua cha băng hà thì ta cáo lão,
Tới nay đã trải năm lần xét công.
Ở rỗi thì xấu hổ về nỗi ngồi ăn không,
Mà ăn cũng cần được no bụng.
Cho nên ngươi cày ruộng của nhà,
Chỉ là báu cái báu vật của mình.
Cày sâu để xới đất,
Bừa nhẹ để trừ cỏ.
Bón phân cho đất phì nhiêu màu mỡ,
Làm cỏ cho đất sạch như quét.
Ngày đêm không kịp nghỉ ngơi,
Tâm lực khôn khéo bao nhiêu dốc ra hết.
Còn lo nỗi trời mưa dầm,
Còn lo nỗi nước sông lên sớm.
Lúa trổ đòng sợ gặp gió trái,
Khi đâm bông sợ bị nắng khô.
May mà được tiết trời điều hoà,
Mới mong lúa mới được tốt.
Nào hay lúa mới tốt,
Lại bị nạn chuột cắn.
Ôi, cố gắng làm hết phận sự mình,
Vẫn khó mà giữ được khỏi đói rét.
Điền gia tức sự ngâm
田家即事吟
隔家田舍翁,
家中夫婦子。
其子獃且癡,
其婦嗸而吱。
終日無用心,
惟其利是巿。
其翁力溝壑,
以供婦子爾。
一日田間回,
婦人不得意,
執杖仗其夫,
夫懼走鄰裏。
執杖婦逐之,
東西無不至。
子見心忙然,
奪杖及母臂。
母痛無奈何,
扯夫而之子。
執子牽子歸,
告師請師值。
師質盡傎末,
徒笑難紛是。
哀哉一家中!
何以之如此?
父子夫婦間,
豈不識倫理。
只爲衣食謀,
所以生妒忌。
Điền gia tức sự ngâm
Cách gia điền xá ông,
Gia trung phu, phụ, tử.
Kỳ tử ngai thả si,
Kỳ phụ ngao nhi chi.
Chung nhật vô dụng tâm,
Duy kỳ lợi thị thị.
Kỳ ông lực câu hác,
Dĩ cung phụ, tử nhĩ.
Nhất nhật điền gian hồi,
Phụ nhân bất đắc ý,
Chấp trượng trượng kỳ phu,
Phu cụ tẩu lân lý.
Chấp trượng phụ trục chi,
Đông tây vô bất chí.
Tử kiến tâm mang nhiên,
Đoạt trượng cập mẫu tý.
Mẫu thống vô nại hà,
Xả phu nhi chi tử.
Chấp tử khiên tử quy,
Cáo sư thỉnh sư trị.
Sư chất tận điên mạt,
Đồ tiếu nan phân thị.
Ai tai nhất gia trung!
Hà dĩ chi như thử?
Phụ tử, phu phụ gian,
Khởi bất thức luân lý.
Chỉ vị y thực mưu,
Sở dĩ sinh đố kỵ.
Dịch nghĩa
Hàng xóm có một nhà làm ruộng,
Nhà gồm có chồng, vợ và con.
Con thì vừa ngốc vừa ngây,
Vợ đã lắm mồm lại còn ác.
Cả ngày không chú ý làm ăn,
Chỉ nhăm nhăm vào điều lợi.
Chồng ra sức lặn lội trong lạch ngoài ngòi,
Để kiếm cái ăn cho vợ, cho con.
Một hôm, chồng ở ngoài ruộng về,
Chị vợ có điều không vừa ý,
Liền vác gậy đánh người chồng,
Chồng sợ, chạy sang hàng xóm.
Vợ cầm gậy đuổi theo,
Không đâu là không sục tới.
Con thấy thế, vội vã,
Giật gậy phang vào tay mẹ.
Mẹ đau, không biết làm thế nào,
Buông chồng mà đuổi theo con.
Bắt lấy con dắt về,
Mách với thầy, nhờ thầy trị tội.
Thầy hỏi hết đầu đuôi,
Chỉ cười mà khó bề phân xử.
Thương thay, trong một nhà!
Làm sao lại đến nỗi thế?
Giữa cha con, vợ chồng,
Họ há không biết gì đạo lý,
Chỉ vì chuyện áo cơm,
Mà sinh ra ghét bỏ nhau.
Điền tẩu
田叟
吾村一田叟,
家有三十笱。
暮下晨發之,
魚蝦得五斗。
若不勞爾身,
何以糊爾口。
賣魚買米歸,
食罷又奔走。
Điền tẩu
Ngô thôn nhất điền tẩu,
Gia hữu tam thập cú.
Mộ hạ thần phát chi,
Ngư hà đắc ngũ đẩu.
Nhược bất lao nhĩ thân,
Hà dĩ hồ nhĩ khẩu.
Mại ngư mãi mễ quy,
Thực bãi hựu bôn tẩu.
Dịch nghĩa
Ông làm ruộng ở xóm tôi
Nhà có ba chục cái đó
Chập tồi đi đơm sáng sớm đi đổ đó
Được độ dăm đấu tôm cá
Nếu không chịu vất vả cái thân
Thì lấy gì nuôi cái miệng
Bán cá đong gạo về
Ăn rồi lại tất tả đi làm
Điệu lạc dăng
悼落蠅
睡起窗開酒半傾,
青蠅何事又營營。
所求一粒能充腹,
何必如簧柞巧聲。
憐爾祗堪倚樊棘,
欺人不覺落藜羹。
天工生化真多事,
避暑驅氛意未平。
Điệu lạc dăng
Thuỵ khởi song khai tửu bán khuynh,
Thanh dăng hà sự hựu doanh doanh.
Sở cầu nhất lạp năng sung phúc,
Hà tất như hoàng tạc xảo thanh.
Liên nhĩ chi kham ỷ phiền cức,
Khi nhân bất giác lạc lê canh.
Thiên công sinh hoá chân đa sự,
Tỵ thử khu phân ý vị bình.
Dịch nghĩa
Ngủ dậy vẫn còn dở say, mở cửa sổ
Cớ gì rồi xanh nhiều thế
Cái nó tìm là một hạt gì để no bụng
Chẳng phải dùng nhạc khí để tạo âm thanh khéo
Thương ngươi chỉ quen ở bụi cây đám cỏ
Lừa người, không ngờ rơi xuống nồi canh
Sự sinh ra và biến đổi của thợ trời thật lắm vẻ
Tránh cái nắng, đuổi uế khí chưa được yên
Điệu nội
悼內
巾櫛追隨五十年,
倚槐一夢已成眠。
白駒忽忽有如是,
青塚纍纍誰不然。
淨土安知非爾樂,
塵途未必望人憐。
若教我壽如彭祖,
八百春秋幾泣懸。
Điệu nội
Cân trất truy tuỳ ngũ thập niên,
Ỷ hoè nhất mộng dĩ thành miên.
Bạch câu hốt hốt hữu như thị,
Thanh trủng luy luy thuỳ bất nhiên.
Tịnh độ an tri phi nhĩ lạc,
Trần đồ vị tất vọng nhân liên.
Nhược giao ngã thọ như Bành Tổ,
Bát bách xuân thu kỷ khấp huyền.
Dịch nghĩa
Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm,
Một giấc mộng tựa cây hoè đã thành giấc ngủ dài.
Bóng câu trắng vùn vụt, nhanh như thế đó!
Mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà.
Tĩnh thổ, biết đâu chẳng là nơi mình vui,
Đường trần gian chưa chắc đã mong người khác thương.
Nếu để tôi sống lâu được như ông Bành Tổ,
Thì tám trăm năm, biết bao lần phải khóc vợ.
Trên đây là các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến hay độc đáo mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như góc nhìn vấn đề thông qua con mắt, cảm quan của một nhà thơ. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng tìm hiểu và cảm nhận các sáng tác thơ chữ Hán hay của Nguyễn Khuyến bạn nhé!
Theo Thuvientho.com