Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến được đánh giá rất cao bởi ông đã nói hộ tiếng lòng của biết bao người dân. Và cũng có thể nói qua các sáng tác này đã thể hiện được phần nào chí hướng của chính ông. Đó cũng chính là một điểm nhấn trong thơ ca của ông. Bởi ông viết dành riêng cho những nỗi niềm của chính lòng mình. Dưới đây là những bài thơ chữ Hán hay mà chúng tôi muốn chia sẻ và giới thiệu với bạn.
Phong tranh
風箏
冰肌竹骨瑩無塵,
得力漂然迥不群。
仿弗大鵬趨碧漢,
咿稀管樂響雲黃。
青輕有路天無磑,
石角多情曲喟分。
企此咻言蹉智巧,
鴻風取會樂芳殷。
Phong tranh
Băng cơ trúc cốt oánh vô trần,
Đắc lực phiêu nhiên quýnh bất quần.
Phảng phất đại bằng xu bích hán,
Y hy quản nhạc hưởng vân hoàng.
Thanh khinh hữu lộ thiên vô ngại,
Thạch giốc đa tình khúc vị phân.
Xí thử hưu ngôn tha trí xảo,
Hồng phong thủ hội lạc phương ân.
Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm
過郡公阮有度生祠有感
樓臺此地何巍巍,
第一郡公之生祠。
公在四時集冠帶,
得豫者喜不豫悲。
公去冠帶不復集,
香火寂寂禾離離。
但見第二無名公,
朝夕攜杖來于斯。
塵間興廢等閒事,
不知九泉誰與歸。
Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm
Lâu đài thử địa hà nguy nguy,
Đệ nhất quận công chi sinh từ.
Công tại tứ thì tập quan đới,
Đắc dự giả hỉ bất dự bi.
Công khứ quan đới bất phục tập,
Hương hoả tịch tịch hoà ly ly.
Đãn kiến đệ nhị vô danh công,
Triêu tịch huề trượng lai vu tư.
Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,
Bất tri cửu tuyền thuỳ dữ quy.
Dịch nghĩa
Lâu đài chốn này nguy nga biết chừng nào!
Đó là sinh từ của ông “thứ nhất quận công”.
Khi ông còn thì áo mũ, cân đai bốn mùa tấp nập,
Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn.
Sau khi ông mất, không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,
Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.
Chỉ thấy có ông “thứ nhì không tên”,
Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy.
Ở đời có lúc thịnh lúc suy, đó là việc thường,
Không biết dưới chín suối bây giờ ai về cùng ông?
Quan hoạch
觀穫
暑氣炎蒸夏日長,
儒家田事太紛忙。
每愁有粟多生熱,
又恐無禾且乏糧。
薪飯兼收連本穀,
庾囷只在及肩墻。
世間萬事能如願,
風欲盈門粟滿堂。
Quan hoạch
Thử khí viêm chưng hạ nhật trường,
Nho gia điền sự thái phân mang.
Mỗi sầu hữu túc đa sinh nhiệt,
Hựu khủng vô hoà thả phạp lương.
Tân phạn kiêm thu liên bản cốc,
Dữu khuân chỉ tại cập kiên tường.
Thế gian vạn sự năng như nguyện,
Phong dục doanh môn túc mãn đường.
Dịch nghĩa
Hơi nắng nóng nực ngày mùa hè dài
Mùa màng đến nhà nho rất là bận rộn
Cứ buồn vì có thóc thì sinh nhiều hơi nóng
Lại sợ không có lúa thì sẽ thiếu lương ăn
Để có cả cơm ăn và rơm thổi khi gặt phải cắt cả gốc lúa
Họi là kho với vựa chỉ ở trong bức tường thấp ngang vai
Muôn việc trên đời nếu cứ mong là được
Thì ta mong gió đầy cửa, thóc đầy nhà
Quặc ngư
攫魚
余性素嗜酒,
有酒恨無殽。
一朝得墨魚,
歸來烹且炰。
溫熟置盤俎,
飲興將為毫。
不知誰家貓,
潛來竊之逃。
走入屋樑上,
超遠難鞭犒。
顧余有傲色,
引類聲嗥嗥。
若為已真有,
安知我心勞。
揚杯一微醉,
此不知爾曹。
Quặc ngư
Dư tình tố thị tửu,
Hữu tửu hận vô hào.
Nhất triêu đắc mặc ngư,
Quy lai phanh thả bào.
Ôn thục trí bàn trở,
Ẩm hứng tương vi hào.
Bất tri thuỳ gia miêu,
Tiềm lai thiết chi đào.
Tẩu nhập ốc lương thượng,
Triệu viễn nan tiên khao.
Cô dư hữu ngạo sắc,
Dẫn loại thanh hào hào.
Nhược vi dĩ chân hữu,
An tri ngã tâm lao.
Dương bôi nhất vi tuý,
Thử bất tri nhĩ tào.
Dịch nghĩa
Tính ta vốn thích uống rượu
Nhièu khi bực mình có rượu lại không có thức nhắm
Một hôm kiếm được con cá mực
Đem về vừa nấu vừa xào
Chín rồi để lên trên mâm
Sắp sửa hào hững ngồi đánh chén
Không biết con mèo nhà ai
Lẻn vào cướp lấy rồi chạy trốn
Nó nhảy lên tân trên xà nhà
Xào cao lắm roi vọt không tới
Nó nhìn tar a vẻ nạo nghễ
Cất tiếng ngao ngao gọi bạn
Nó làm như thể của nó thực
Biết đâu là lòng ta bực dọc
Đành cất chén uống say gọi là
Rõ thực: ông thua chúng bay!
Sất xỉ
叱齒
昔我強壯與爾親,
凡有飲食無不均。
我今衰老且多病,
爾將臲卼謀脫身。
胡為欲去不便去,
空使一顰復一顰。
行哉莫飭雌黃口,
似爾從違不乏人。
Sất xỉ
Tích ngã cường tráng dữ nhĩ thân,
Phàm hữu ẩm thực vô bất quân.
Ngã kim suy lão thả đa bệnh,
Nhĩ tương niết ngột mưu thoát thân.
Hồ vi dục khứ bất tiện khứ,
Không xử nhất tần phục nhất tần.
Hành tai mạc sức thư hoàng khẩu,
Tự nhĩ tòng vi bất phạp nhân.
Dịch nghĩa
Thuở trai trẻ ta rất thân với mày
Phàm miếng ăn, miếng uống đều san sẻ cùng nhau
Bây giờ ta đã già lại hay ốm
Mày sắp lỏng lẻo tìm đường thoát thân
Đã muốn đi, sao không đi ngay cho rảnh
Cứ bắt tội người ta phải đòi cơn nhăn nhó làm gì
Thôi tếch đi, đừng múa mép nữa
Đời chẳng thiếu gì kẻ như mày: theo nhau đấy lại bội bạc ngay đấy
Sơ chí Đà tấn phụng tống đương sự chư quân
初至沱汛奉送當事諸君
回首觚稜淚暗澘,
鶴書昨夜到松關。
當年豈乏中興佐,
聖世能容積病閒。
未死艱難愁白髮,
此生懶散愛青山。
故園忍負黃花約,
願放淵明三徑還。
Sơ chí Đà tấn phụng tống đương sự chư quân
Hồi thủ cô lăng lệ ám san,
Hạc thư tạc dạ đáo Tùng quan.
Đương niên khởi phạp trung hưng tá,
Thánh thế năng dung tích bệnh nhàn.
Vị tử gian nan sầu bạch phát,
Tử sinh lão tán ái thanh san.
Cố viên nhẫn phụ hoàng hoa ước,
Nguyện phóng Uyên Minh tam kính hoàn.
Dịch nghĩa
Ngoảnh nhìn lại góc cung điện giọt lệ thầm rơi
Tờ chiếu đêm nọ đã đến cửa Tùng
Hiện nay há thiếu người giúp sự nghiệp trung hưng
Đời thánh quân có thể dung cho kẻ ốm lâu được nghỉ
Chưa chết nhưng gian nan buồn đến bạc đầu
Cuộc sống thế này bệnh lười phát sinh chỉ yêu thích núi xanh
Nỡ phụ lời ước hoàng hoa với mảnh vườn cũ
Những muốn như Uyên Minh lại trở về với ba luống cúc
Sơ hạ
初夏
昨夜池邊生嫩荷,
晨窗不覺夏初過。
半空風引鳶吟笛,
幾處枝藏鴦弄歌。
邑婦相爭言語俗,
鄰鰥不寐性情多。
悠然扶杖欲乘興,
滿眼塵埃奈爾何?
Sơ hạ
Tạc dạ trì biên sinh nộn hà,
Thần song bất giác hạ sơ qua.
Bán không phong dẫn diên ngâm địch,
Kỷ xứ chi tàng ương lộng ca.
Ấp phụ tương tranh ngôn ngữ tục,
Lân quan bất mị tính tình đa.
Du nhiên phù trượng dục thừa hứng,
Mãn nhãn trần ai nại nhĩ hà?
Dịch nghĩa
Đêm qua, bên ao búp sen đã nhú,
Buổi sáng bên cửa sổ, không biết đã chớm sang hè.
Lưng trời, gió đưa tiếng sáo diều vẳng tới,
Đây đó, khuất trong cành cây chim chóc ríu ran.
Mấy bà nhà quê cãi nhau, lời qua tiếng lại tục tĩu,
Bác hàng xóm goá vợ không ngủ được, trong lòng bao nỗi ngổn ngang.
Muốn nhân hứng lâng lâng chống gậy dạo chơi,
Nhưng đầy mắt là bụi bặm, biết làm sao được?
Sơn trà
山茶
春來客贈我山茶,
醉裏曚曨不辨花。
白髮蒼顏吾老矣,
紅袍金帶子真耶。
尋常細雨驚穿葉,
蕭瑟晨風怨落茄。
近日相看惟以鼻,
了無香氣一呵呵。
Sơn trà
Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,
Tuý lý mông lung bất biện hoa.
Bạch phát thương nhan, ngô lão hĩ,
Hồng bào kim đới, tử chân da?
Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,
Tiêu sắt thần phong oán lạc già.
Cận nhật tương khan duy dĩ tỵ,
Liễu vô hương khí nhất kha kha
Dịch nghĩa
Xuân đến có người cho ta một cây sơn trà,
Trong cơn say, mắt lờ mờ chẳng nhận rõ là hoa gì.
Tóc bạc, mặt xanh, ta đã già rồi!
Áo đỏ đai vàng, quả thật là người đó a?
Mưa nhỏ tầm thường cũng sợ xuyên qua lá,
Gió sớm hiu hắt càng oán nó làm rụng mất đài hoa.
Gần đây ta chỉ xem bằng mũi,
Chẳng thấy một chút hơi thơm nào, phì cười khà khà.
Tái vi nhân đại nghĩ ký công bi văn cánh vô sở đắc nhân phú dĩ thị
再為人代擬記功碑文更無所得因賦以示
碑文不似祭文焚,
鑿鑿流傳未易云。
長短已難千里度,
是非猶有百年聞。
近來學殖多荒落,
況值時艱太泯紛。
君且歸來當日得,
皇都不少頌功文。
Tái vi nhân đại nghĩ ký công bi văn cánh vô sở đắc nhân phú dĩ thị
Bi văn bất tự tế văn phần,
Tạc tạc lưu truyền vị dị vân.
Trường đoản dĩ nan thiên lý đạc,
Thị phi do hữu bách niên văn.
Cận lai học thực đa hoang lạc,
Huống trị thời gian thái dẫn phân.
Quân thả quy lai đương nhật đắc,
Hoàng đô bất thiểu tụng công văn.
Dịch nghĩa
Văn bia không đốt đi như văn tế
Ghi rành rành để lưu truyền mãi về sau không phải là việc dễ
Dài hay ngắn đã khó mà đo được nghìn dặm
Phải hay trái còn có người trăm năm sau biết
Gần đây sự học đã hoang phí nhiều
Huống chi gặp buổi đời khó khăn lắm sự rối ren
Anh hãy trở về tìm lấy thì sẽ được
Thứ văn tán tụng công đức kinh đô không thiếu!
Tam Điệp sơn
三疊山
清華山水帝王州,
書劍重來是故吾。
三疊峰頭初縱目,
九龍江外一回頭。
岩迷樹色千青落,
海入雲邊片白浮。
擬把予情訂泉石,
不知泉石信予不。
Tam Điệp sơn
Thanh Hoa sơn thuỷ đế vương châu,
Thư kiếm trùng lai thị cố ngô.
Tam Điệp phong đầu sơ túng mục,
Cửu Long giang ngoại nhất hồi đầu.
Nham mê thụ sắc thiên thanh lạc,
Hải nhập vân biên phiến bạch phù.
Nghĩ bả dư tình đính tuyền thạch,
Bất tri tuyền thạch tín dư phầu.
Dịch nghĩa
Núi sông Thanh Hoá vốn là đất đế vương
Vẫn chính là ta ngày trước lại đeo gươm cắp sách đến đây
Trên đỉnh núi Tam Điệp vừa buông tầm mắt
Ngoảnh đầu đã thấy Cửu Long giang ở đắng xa
Sườn núi lẫn mầu cây nơi nơi xanh ngắt
Chân mây liền mặt bể một làn trắng dập dềnh
Những toan đêm nối lòng mà hẹn với suối đá
Chẳng hay suối đá có tin mình không?
Tặng đồng hương Lê tú tài nguyên Nho Quan bang biện tái vãng Nam Định tuỳ phái
贈同鄉黎秀才原儒關邦辨再往南定隨派
山關今又轉江城,
囊橐年來上覺輕。
妻妾三人群子幼,
田園數畝一牢耕。
為賓為佐名難定,
無髮無鬚老未形。
昨日聞君欲歸去,
忽忙扶杖勸君行。
Tặng đồng hương Lê tú tài nguyên Nho Quan bang biện tái vãng Nam Định tuỳ phái
Sơn quan kim hựu chuyển giang thành,
Nang thcs niên lai thượng giác khinh.
Thê thiếp tam nhân quân tử ấu,
Điền viên sổ mẫu nhất lao canh.
Vi tân vi tá danh nan định,
Vô phát vô tu lão vị hình.
Tạc nhật văn quần dục quy khứ,
Hốt mang phù trượng khuyến quân hành.
Dịch nghĩa
Trước ở Sơn quan nay lại đổi xuống giang thành
Gần một năm lại đây túi đẫy còn cảm thấy nhẹ
Thê thiếp ba người thêm một bầy con nhỏ
Ruộng vườn vài mẫu chỉ có một bò cày
Là khách hay là quan giúp việc khó mà định tên
Không râu không tóc chưa ra vẻ già
Bữa nọ nghe nói ông muốn cáo về
Vội vàng chống gậy khuyên ông cứ đi
Tây kỹ
西伎
天籩使部上車回,
數十西嬙解剖來。
若恨生平知我少,
且相懷抱為君開。
洪荒世遠誰為此,
烈國文繁有是差。
更守牙疏香匣去,
澌毛滌垢未曾差。
Tây kỹ
Thiên biên sứ bộ thướng xa hồi,
Sổ thập Tây tường giải bội lai.
Nhược hận sinh bình tri ngã thiểu,
Thả tương hoài bão vị quân khai.
Hồng hoang thế viễn thuỳ vi thử,
Liệt quốc văn phồn hữu thị tai?
Cánh thủ nha sơ hương hạp khứ,
Tư mao địch cấu vị tằng sai.
Dịch nghĩa
Bên trời sứ bộ sắp lên xe về
Vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến
Chừng giận lúc bình nhận ít người biết đến
Hãy đem cái ôm ấp phô song với khách
Đời hồng hoang đã xa ai lại làm thế
Văn vẻ phồn tạp các nước vốn như vậy chăng?
Còn vơ lấy chiếc lược ngà và lọ nước hoa
Chải lông rửa ghét chẳng sượng sung gì
Thạch Hãn giang
石澣江
石澣江流一棹橫,
夕霞晻曖遠山明。
西風何處吹塵起,
不以年前徹底清。
Thạch Hãn giang
Thạch Hãn giang lưu nhất trạo hoành,
Tịch hà yểm ái viễn sơn minh.
Tây phong hà xứ xuy trần khởi,
Bất dĩ niên tiền triệt để thanh.
Dịch nghĩa
Trên dòng sông Thạch Hãn một mái chèo khua ngang
Ráng chiều lấp loáng soi sáng ngọn núi xa
Gió tây từ đâu xua cát bụi đến
Làm cho dòng sông không còn trong suốt như năm trước nữa
Thái viên
菜園
一年今又一年過,
貧病安知有歲華。
佐酒兒常供鳳豆,
望春客有贈龍茶。
千山明暗疑無狀,
獨鶴縱橫未有家。
只有小園蔥芥秀,
不勞灌溉自婆娑。
Thái viên
Nhất niên kim hựu nhất niên quá,
Bần bệnh an tri hữu tuế hoa.
Tá tửu nhi thường cung phụng đậu,
Vọng xuân khách hữu tặng long trà.
Thiên sơn minh ám nghi vô trạng,
Độc hạc tung hoành vị hữu gia.
Chỉ hữu tiểu viên thông giới tú,
Bất lao quán khái tự bà sa.
Dịch nghĩa
Một năm đến lại một năm qua
Đã nghèo lại ốm còn biết ngày tháng là gì
Giúp cho hứng rượu con thường dâng món đậu phụng
Mừng xuân đến khách lại tặng thứ chè long
Ngàn trái núi mờ tỏ tưởng như kém tươi đẹp
Một con hạc bay lương dọc ngang chưa biết đâu là nhà
Chỉ có mảnh vườn hành cải tốt
Không cần vun tưới khó nhọc nó vẫn rườm rà
Thanh Giang tự tỵ thử
青江寺避暑
不到青江寺,
至今幾二年。
夏日苦煩熱,
扶杖來參禪。
涸井水容壅,
新松枝及肩。
消息有如是,
俯仰徒茫然。
寺僧見吾至,
拾果羅吾前。
未辨色空界,
但求人世憐。
何處小風引,
額手塼床眠。
一鐘叩殘夢,
歸來明月天。
Thanh Giang tự tỵ thử
Bất đáo Thanh Giang tự,
Chí kim kỷ nhị niên.
Hạ nhật khổ phiền nhiệt,
Phù trượng lai tham thiền.
Hạc tỉnh thuỷ dung ủng,
Tân tùng chi cập kiên.
Tiêu tức hữu như thị,
Phủ ngưỡng đồ mang nhiên.
Tự tăng kiến ngô chí,
Thập quả la ngô tiền.
Vị biện sắc không giới,
Đãn cầu nhân thế liên.
Hà xứ tiểu phong dẫn,
Ngạch thủ chuyên sàng miên.
Nhất chung khấu tàn mộng,
Quy lai minh nguyệt thiên
Dịch nghĩa
Không đến chùa Thanh Giang
Tới nay đã gần hai năm
Hè này nóng bức rất khó chịu
Lại cống gậy đến thăm chùa
Giếng cạn nước chỉ còn một hũ
Cây thông mới mọc cành mới ngang vai
Sự hao lớn là cơ trời như thế
Cúi ngủa cũng chỉ mơ hồ không thể biết được
Sư chùa thấy ta đến
Đem quả bày ra trước mặt ta
Chưa phân biệt thế nào là sắc là không
Hãy cầu được người đời thương đến
Cơn gió nhẹ từ đâu thoảng qua
Nằm trên nền gạch vắt tay lên trán ngủ
Bỗng một tiếng chuông khua tỉnh giấc mộng
Khi trở về đã đầy trời trăng sáng
Các sáng tác thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến được đánh giá rất cao. Và đây cũng chính là bộ phận thơ ca chiếm đại đa số trong những sáng tác của ông. Nếu như những bài thơ Nôm thiên về phong cảnh ngụ tình thì các bài thơ chữ Hán lại dành phần đa để dành cho những nỗi niềm của chính mình. Đừng quên đón đọc các bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay nhất bạn nhé!
Xem thêm:Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 8
Theo Thuvientho.com