Home / Chùm thơ chọn lọc / Victor Hugo – Với tập thơ Trừng Phạt – Les châtiments (1853)

Victor Hugo – Với tập thơ Trừng Phạt – Les châtiments (1853)

Victor Hugo – Với tập thơ Trừng Phạt – Les châtiments (1853)

Tập thơ Trừng phạt Les châtiments là một tập thơ nổi tiếng của Victor Hugo được sáng tác năm 1853. Tập thơ với nhiều bài thơ về nhiều chủ đề khác nhau thể hiện tâm hồn, tư tưởng đạo đức và chính trị của ông.

Bài ca (Chim mẹ đâu? đã chết rồi) Chanson (La femelle? elle est morte )

Chanson (La femelle? elle est morte )

La femelle? elle est morte.

Le mâle? un chat l’emporte

Et dévore ses os.

Au doux nid qui frissonne

Qui reviendra? personne.

Pauvres petits oiseaux!

Le pâtre absent par fraude!

Le chien mort! le loup rôde,

Et tend ses noirs panneaux;

Au bercail qui frissonne,

Qui veillera? personne.

Pauvres petits agneaux!

L’homme au bagne! la mère

À l’hospice! ô misère!

Le logis tremble aux vents;

L’humble berceau frissonne.

Que reste-t-il? personne.

Pauvres petits enfants!

Bản dịch

Chim mẹ đâu? Đã chết

Chim bố đâu? Mèo bắt

Xương thịt bị mèo nhai

Quay về với tổ chim

Đang rung rinh

Nào có ai!

Khổ thân đàn chim xinh!

Người chăn đã bỏ chuồn!

Chó canh chết! Sói hú luôn

Và đang giăng bẫy hiểm

Ai gác chuồng cừu non

Đang run run?

Không ai biết

Khổ thân lũ cừu non!

Bố bị giam xà lim

Mẹ đi nhà tế bần

Nhà lung lay trước gió

Chiếc nôi đang rung rinh

Căn nhà không người lớn

Khổ thân bầy trẻ con!

Bài ca (Kẻ đi đày nay nghĩ gì đây?) (trích) Chanson (A quoi ce proscrit pense-t-il?) (extrait)

Chanson (A quoi ce proscrit pense-t-il?) (extrait)

A quoi ce proscrit pense-t-il?

A son champ d’orge ou de laitue,

A sa charrue, à son outil,

A la grande France abattue.

Hélas! le souvenir le tue.

Pendant qu’on rente les Dupin

Le pauvre exilé souffre et prie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.

L’ouvrier rêve l’atelier,

Et le laboureur sa chaumière;

Les pots de fleurs sur l’escalier,

Le feu brillant, la vitre claire,

Au fond le lit de la grand-mère

Quatre gros glands de vieux crépin

En faisaient la coquetterie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.



Avec sa lime ou son maillet

On soutenait enfants et femme;

De l’aube au soir on travaillait

Et le travail égayait l’âme.

Ô saint travail! lumière et flamme!

De Watt, de Jacquart, de Papin,

La jeunesse ainsi fut nourrie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.

Les jours de fête, l’ouvrier

Laissait les soucis en fourrière;

Chantant les chants de février,

Blouse au vent, casquette en arrière,

Ou s’en allait à la barrière.

On mangeait un douteux lapin

Et l’on buvait à la Hongrie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.

Les dimanches le paysan

Appelait Jeanne ou Jacqueline,

Et disait: – femme, viens-nous-en,

Mets ta coiffe de mousseline!

Et l’on dansait sur la colline.

Le sabot et non l’escarpin,

Foulait gaiement l’herbe fleurie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.

Les exilés s’en vont pensifs.

Leur âme, hélas! n’est plus entière.

Ils regardent l’ombre des ifs

Sur les fosses du cimetière;

L’un songe à l’Allemagne altière,

L’autre au beau pays transalpin,

L’autre à sa Pologne chérie.

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.



«Je meurs de ne plus voir les champs

Où je regardais l’aube naître,

De ne plus entendre les chants

Que j’entendais de ma fenêtre.

Mon âme est où je ne puis être.

Sous quatre planches de sapin,

Enterrez-moi dans la prairie.»

– On ne peut pas vivre sans pain;

On ne peut pas non plus vivre sans la patrie.

bản dịch:

Kẻ đi đày nay nghĩ gì đây?

Về cánh đồng rau bãi lúa

Về cái cày, chiếc nông cụ cầm tay

Nghĩ cả về nước Đại Pháp già nua

Ký ức này đang giết anh ta

Ở trên đời, kẻ giàu được cấp, ban

Người đi đày khổ đau, cầu phúc

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được

Người thợ mơ xưởng máy

Dân cày mơ mái nhà

Lối cầu thang đặt những bình hoa

Đèn chiếu sáng, cửa gương trong suốt

Giường nằm của mẹ già ấm áp

Nơi diềm màn thêu những quả tua

Làm đỏm dáng cho thêm phong sắc

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được



Với cái giũa, cái vồ, cái cuốc

Người ta làm nuôi vợ nuôi con

Từ tinh mơ cho đến hoàng hôn

Lao động làm tâm hồn khuây khoả

Ôi lao động – ánh sáng, ngọn lửa

Của những ai sáng tạo công trình

Đã nuôi nấng cả thời tuổi trẻ

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được

Người thợ trong những ngày tết nhất

Được vơi dần mọi nỗi lo âu

Ca bài ca Tháng Hai bất khuất

Áo bung khuy, mũ trễ sau đầu

Họ cùng nhau bước tới hàng rào

Thịt một con thỏ con nhút nhát

Uống ngụm này mừng cho nước Hung

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được

Người nông dân, những ngày chủ nhật

Gọi con trai con gái của mình

Lời thân thiết anh ta bảo vợ:

“Đội mũ vào, hãy đi cùng anh”

Đi lên đồi họ cùng nhảy múa

Chẳng phải đôi giày mà đôi guốc gỗ

Đã lướt trên bãi cỏ xanh rờn

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được

Những người đi đày, trầm tư cất bước

Nào có ai được rỗi linh hồn

Họ nhìn lên bóng cây tùng bách

Trên miệng hố đào dọc nghĩa trang

Kẻ nghĩ về nước Đức kiêu căng

Người nghĩ sang dãy Alpe tuyệt đẹp

Người nghĩ tới Ba Lan mình thân thiết

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được



“Tôi chết chẳng còn nhìn thấy đất

Nơi tôi hằng gặp mặt trời lên

Chết chẳng còn được nghe tiếng hát

Tiếng hát từ cửa sổ nhà tôi

Hồn tôi quẩn nơi tôi không thể sống

Dưới bốn tấm gỗ thông, tôi yên nằm”

Hãy chôn tôi trong đồi cỏ mát

– Sống làm sao khi chẳng có ăn

Không Tổ quốc cũng không sống được

Bài ca (Uy thế y chói loà lịch sử) Chanson (Sa grandeur éblouit l’histoire)

Chanson (Sa grandeur éblouit l’histoire)

Sa grandeur éblouit l’histoire.

Quinze ans, il fut

Le dieu que traînait la victoire

Sur un affût;

L’Europe sous sa loi guerrière

Se débattit.

Toi, son singe, marche derrière,

Petit, petit.

Napoléon dans la bataille,

Grave et serein,

Guidait à travers la mitraille

L’aigle d’airain.

Il entra sur le pont d’Arcole,

Il en sortit.

Voici de l’or, viens, pille et vole,

Petit, petit.

Berlin, Vienne, étaient ses maîtresses;

Il les forçait,

Leste, et prenant les forteresses

Par le corset;

Il triompha de cent bastilles

Qu’il investit.

Voici pour toi, voici des filles,

Petit, petit.

Il passait les monts et les plaines,

Tenant en main

La palme, la foudre et les rênes

Du genre humain;

Il était ivre de sa gloire

Qui retentit.

Voici du sang, accours, viens boire,

Petit, petit.

Quand il tomba, lâchant le monde,

L’immense mer

Ouvrit à sa chute profonde

Le gouffre amer;

Il y plongea, sinistre archange,

Et s’engloutit.

Toi, tu te noiras dans la fange,

Petit, petit.

Bản dịch:

Uy thế y chói loà lịch sử

Mười lăm năm ròng rã

Y lê chiến thắng như ông thần

Trên giá súng tối tân

Châu Âu rên dưới luật chiến tranh

Giãy giụa biết bao lần

Ngươi, khỉ độc của y, bám gót

Tiểu nhân, tiểu nhân

Nã Phá Luân trong chiến trận

Uy nghi và thanh thản

Dẫn dắt qua làn đạn

Cánh đạ bàng đồng hun

Tiến qua cầu Arcole

Lui qua cầu Arcole

Vàng đây, mi tới cướp

Tiểu nhân, tiểu nhân

Berlin và Vienne, tình nhân của gã

Gã rắp tâm chiếm ráo

Pháo đài bị y hạ

Như tóm nơi cổ áo

Y triệt hàng trăm đồn

Vây hãm năm tháng ròng

Gái non cho mi đó

Tiểu nhân, tiểu nhân

Y vượt khắp bình nguyên, núi non

Cầm trong tay đủ loại

Nguyệt quế, sấm sét và cùm gông

Cho toàn nhân loại

Say sưa với vinh quang

Một thời đã dội vang

Máu đây, lại mà uống

Tiểu nhân, tiểu nhân

Y ngã xuống, phải buông thế giới

Từ đỉnh cao vòi vọi

Biển cả mênh mông

Ôi, vực thẳm khôn cùng

Nuốt chửng không thương tiếc

Thân gã tổng thiên thần

Còn mi, sẽ chết trong bùn nhớp

Tiểu nhân, tiểu nhân

Bài ca của những người đi biển Le chant de ceux qui s’en vont sur mer

Le chant de ceux qui s’en vont sur mer

(Air breton)

Adieu, patrie!

L’onde est en furie.

Adieu, patrie!

Azur!

Adieu, maison, treille au fruit mûr,

Adieu, les fleurs d’or du vieux mur!

Adieu, patrie!

Ciel, forêt, prairie!

Adieu, patrie,

Azur!

Adieu, patrie!

L’onde est en furie.

Adieu, patrie,

Azur!

Adieu, fiancée au front pur,

Le ciel est noir, le vent est dur.

Adieu, patrie!

Lise, Anna, Marie!

Adieu, patrie,

Azur!

Adieu, patrie!

L’onde est cri furie.

Adieu, patrie,

Azur!

Notre œil, que voile un deuil futur,

Va du flot sombre au sort obscur!

Adieu, patrie!

Pour toi mon cœur prie.

Adieu, patrie,

Azur!

Bản dịch:

(Theo điệu Brơ-ta-nhơ)

Vĩnh biệt, quê hương!

Biển khơi đang nổi giận

Vĩnh biệt, quê hương!

Trong xanh!

Vĩnh biệt, mái nhà, giàn nho quả mọng

Vĩnh biệt, hoa vàng trên tường rêu mốc!

Vĩnh biệt, quê hương!

Bầu trời, rừng cây, đồng cỏ!

Vĩnh biệt, quê hương

Trong xanh!

Vĩnh biệt, quê hương!

Biển khơi đang nổi giận

Vĩnh biệt, quê hương!

Trong xanh!

Vĩnh biệt, em yêu, vầng trán em thanh khiết

Gió lạnh buốt xương, mây đen nghìn nghịt

Vĩnh biệt, quê hương

Lise, Anna, Marie!

Vĩnh biệt, quê hương!

Trong xanh!

Vĩnh biệt, quê hương!

Biển khơi đang nổi giận

Vĩnh biệt, quê hương!

Trong xanh!

Mắt chúng tôi, mờ bóng tương lai sầu thảm

Nhìn từ sóng biển tối tăm đến phận mình u ám!

Vĩnh biệt, quê hương!

Lòng ta cầu nguyện cho Người

Vĩnh biệt, quê hương!

Trong xanh!

Chiếc áo bào Le Manteau impérial

Le Manteau impérial

Oh! vous dont le travail est joie,

Vous qui n’avez pas d’autre proie

Que les parfums, souffles du ciel,

Vous qui fuyez quand vient décembre,

Vous qui dérobez aux fleurs l’ambre

Pour donner aux hommes le miel,

Chastes buveuses de rosée,

Qui, pareilles à l’épousée,

Visitez le lys du coteau,

Ô sœurs des corolles vermeilles,

Filles de la lumière, abeilles,

Envolez-vous de ce manteau!

Ruez-vous sur l’homme, guerrières!

Ô généreuses ouvrières,

Vous le devoir, vous la vertu,

Ailes d’or et flèches de flamme,

Tourbillonnez sur cet infâme!

Dites-lui: «Pour qui nous prends-tu?

»Maudit! nous sommes les abeilles!

Des chalets ombragés de treilles

Notre ruche orne le fronton;

Nous volons, dans l’azur écloses,

Sur la bouche ouverte des roses

Et sur les lèvres de Platon.

»Ce qui sort de la fange y rentre.

Va trouver Tibère en son antre,

Et Charles neuf sur son balcon.

Va! sur ta pourpre il faut qu’on mette,

Non les abeilles de l’Hymette,

Mais l’essaim noir de Montfaucon!»

Et percez-le toutes ensemble,

Faites honte au peuple qui tremble,

Aveuglez l’immonde trompeur,

Acharnez-vous sur lui, farouches,

Et qu’il soit chassé par les mouches

Puisque les hommes en ont peur!

Xem thêm:  Bài thơ Tôi Đi Tìm Tôi – Nhà thơ Dương Hoàng

Bản dịch:

Ồ! các em mà lao động là vui

Các cô em không kiếm mồi nào khác

Ngoài hương thơm, hơi thở của trời

Tháng chạp về, các em đi trốn

Hổ phách của hoa, các em lấy trộm

Để làm mật ngọt cho người

Các cô em trong trắng hút sương mai

Ong ơi ong, giống cô dâu mới cưới

Ong đi thăm hoa huệ trên đồi

Là con của ánh dương phơi phới

Là em gái những cánh hoa đỏ chói

Rời bỏ áo bào, ong hãy xa bay!

Xông vào hắn đi, hỡi ong chiến sĩ

Ôi các cô thợ hảo tâm

Nghĩa vụ, các em, đức hạnh, các em

Bộ cánh vàng và mũi tên rực lửa

Hãy xoáy tít trên đầu thằng nhục nhã

Hãy bảo hắn: “Mi nghĩ ta là ai?

“Ta là ong! hỡi tên khốn kiếp!

Tổ của ta rợp bóng giàn nho

Làm đẹp cho các mí nhà nên thơ

Chúng ta bay, trong trời xanh, bừng nở

Trên miệng những đoá hồng hé mở

Vàg trên môi Platon

“Mi hãy tìm Charles IX trên ban công

Và đến với Tibère trong hang tối

Từ bùn thối, phải trở về bùn thối

Cần thêu lũ quạ đen Montfaucon

Chứ không phải bầy Hymette ong vàng

Trên áo mi màu đỏ tía!”

Hãy nhất tề đâm hắn đi, ong

Hãy làm cho những kẻ nhát gan xấu hổ

Hãy lăn xả vào, hung dữ

Hãy chọc mù tên lừa đảo nhớp nhơ

Hắn phải bị ong ruồi tống cổ đi

Bởi vì con người run sợ!

Con người ấy đã cười L’homme a riL’homme a ri

«M. Victor Hugo vient de publier à Bruxelles un livre qui a pour titre: Napoléon le petit, et qui renferme les calomnies les plus odieuses contre le prince-président.

«On raconte, qu’un des jours de la semaine dernière, un fonctionnaire apporta ce libelle à Saint-Cloud. Lorsque Louis Napoléon le vit, il le prit, l’examina un instant avec le sourire du mépris sur les lèvres; puis, s’adressant aux personnes qui l’entouraient, il dit, en leur montrant le pamphlet: “Voyez, messieurs, voici Napoléon-le-petit, par Victor Hugo-le-grand.”»

Journaux Elyséens, août 1852.

Ah! tu finiras bien par hurler, misérable!

Encor tout haletant de ton crime exécrable,

Dans ton triomphe abject, si lugubre et si prompt,

Je t’ai saisi. J’ai mis l’écriteau sur ton front ;

Et maintenant la foule accourt et te bafoue.

Toi, tandis qu’au poteau le châtiment te cloue,

Que le carcan te force à lever le menton,

Tandis que, de ta veste arrachant le bouton,

L’histoire à mes côtés met à nu ton épaule,

Tu dis: je ne sens rien! et tu nous railles, drôle,

Ton rire sur mon nom gaiement vient écumer;

Mais je tiens le fer rouge et vois ta chair fumer.

Bản dịch:

“Ông Victor Hugo vừa xuất bản một cuốn sách ở Bruxelles với tiêu đề: “Napoleon tiểu nhân” và đã có những lời vu khống kín đáo nhất chống lại Hoàng thân. Người ta nói rằng vào tuần trước đã có một sĩ quan mang tội phỉ báng này ở Saint-Cloud. Khi Louis Napoléon nhìn thấy bài văn vần đả kích, ngài cầm xem một lát với nụ cười khinh thị trên môi, rồi nói cùng những người đang vây quanh ngài: – Các ngài xem, đây là Napoléon tiểu nhân, do Victor Hugo đại nhân mô tả.”

A ha! Cuối cùng ngươi hú lên, tên khốn nạn!

Tuy còn hổn hển về tội danh tràn hận

Ta đã tóm khi ngươi thắng lẹ, bi thảm, hèn nhơ

Cáo trạng đã dán ngay trên chiếc trán dơ

Giờ quần chúng tới, muôn người phỉ báng

Ngươi bị đóng đinh trên giá treo trọng phạm

Gông cổ buộc mi phải ngẩng cằm

Giật toang cúc áo, cùng ta lịc sử lột trần

Đôi vai ngươi còn hằn tội ác

Ngươi nói: Ta không cảm thấy gì! ngươi khinh khi và khoác lác

Ngươi cười vui, nước bọt vấy tên ta

Nhưng ta cầm dùi đỏ, ngươi khói xám thịt da

Cuộc đối chất Confrontations

Confrontations

Ô cadavres, parlez! quels sont vos assassins?

Quelles mains ont plongé ces stylets dans vos seins?

Toi d’abord, que je vois dans cette ombre apparaître,

Ton nom? – Religion. – Ton meurtrier? – Le prêtre.

– Vous, vos noms? – Probité, Pudeur, Raison, Vertu.

– Et qui vous égorgea? – L’Église. – Toi, qu’es-tu?

– Je suis la Foi publique. – Et qui t’a poignardée?

– Le Serment. – Toi. qui dors de ton sang inondée?

– Mon nom était Justice. – Et quel est ton bourreau?

– Le juge. – Et toi, géant, sans glaive en ton fourreau,

Et dont la boue éteint l’auréole enflammée?

– Je m’appelle Austerlitz. – Qui t’a tué? – L’armée.

Bản dịch:

Hãy nói đi, những tử thi! Kẻ nào gây thảm sát

Bàn tay nào đâm nát ngực anh em?

Nói trước tiên, người ẩn hiện giữa đêm

Anh tên chi? – Tôn giáo – Kẻ giết anh? – Linh mục

– Còn các anh? , Liêm sỉ, Đức hạnh, Lương tri

– Ai cắt cổ các anh? – Nhà thờ. – Tên gì bạn kia?

– Ta là Lòng tin – Thế thì ai đâm bạn?

– Lời tuyên thệ. – Còn bạn đây, ngập ngụa máu đào?

– Ta là Công lý. – Vậy ai đã khai đao?

– Quan thẩm phán. – Thế còn ngươi, lẫm liệt chiền bào, nhưng lưỡi gươm đã mất

Và bùn nhơ dập tắt lửa hào quang?

– Ta là Austerlitz. – Ai đã giết ngươi?. – Quân đội bảo hoàng

Đêm C’est la nuit

C’est la nuit

C’est la nuit; la nuit noire, assoupie et profonde.

L’ombre immense élargit ses ailes sur le monde.

Dans vos joyeux palais gardés par le canon,

Dans vos lits de velours, de damas, de linon,

Sous vos chauds couvre-pieds de martres zibelines,

Sous le nuage blanc des molles mousselines,

Derrière vos rideaux qui cachent sous leurs plis

Toutes les voluptés avec tous les oublis,

Aux sons d’une fanfare amoureuse et lointaine,

Tandis qu’une veilleuse, en tremblant, ose à peine

Éclairer le plafond de pourpre et de lampas,

Vous, duc de Saint-Arnaud, vous, comte de Maupas,

Vous, sénateurs, préfets, généraux, juges, princes,

Toi, César, qu’à genoux adorent tes provinces,

Toi qui rêvas l’empire et le réalisas,

Dormez, maîtres… – Voici le jour. Debout, forçats!

Đêm. Tối đen, xạc xào và sâu lắng

Bóng mênh mông dang cánh phủ trần gian

Trong lâu đài vui gác bằng họng súng

Các quan ngài say giấc

Trên giường nhung vải hoa Damas

Dưới chăn lông chồn thứ đắt

Dưới làn mây bằng vải màu kem

Sau chấn song từng nếp gấp rèm

Đang che mọi thú vui và quên lãng

Trong tiếng kèn đồng diễm tình và xa thẳm

Lúc đèn đêm leo lét mờ soi rạng

Những trần nhà gấm vóc lụa là

Các ngài công tước Saint-Arnaud, bá tước Maupas

Các ngài tỉnh trưởng, nghị viên, hoàng tử, quan toà, tướng lĩnh

Ngươi, César, mà các chư hầu gối quỳ sùng kính

Ngươi mơ đế chế và từng thực hiện giấc mơ sừng sỏ

– Đứng lên, những người cùng khổ

Đây là lúc rạng tỏ

Đêm ấy trời mưa, nước triều dâng cao Cette nuit, il pleuvait, la marée était haute

Cette nuit, il pleuvait, la marée était haute

Cette nuit, il pleuvait, la marée était haute,

Un brouillard lourd et gris couvrait toute la côte,

Les brisants aboyaient comme des chiens, le flot

Aux pleurs du ciel profond joignait son noir sanglot,

L’infini secouait et mêlait dans son urne

Les sombres tournoiements de l’abîme nocturne ;

Les bouches de la nuit semblaient rugir dans l’air.

J’entendais le canon d’alarme sur la mer.

Des marins en détresse appelaient à leur aide.

Dans l’ombre où la rafale aux rafales succède,

Sans pilote, sans mât, sans ancre, sans abri,

Quelque vaisseau perdu jetait son dernier cri.

Je sortis. Une vieille, en passant effarée,

Me dit: « Il a péri ; c’est un chasse-marée. »

Je courus à la grève et ne vis qu’un linceul

De brouillard et de nuit, et l’horreur, et moi seul ;

Et la vague, dressant sa tête sur l’abîme,

Comme pour éloigner un témoin de son crime,

Furieuse, se mit à hurler après moi.

Qu’es-tu donc, Dieu jaloux, Dieu d’épreuve et d’effroi,

Dieu des écroulements, des gouffres, des orages,

Que tu n’es pas content de tant de grands naufrages,

Qu’après tant de puissants et de forts engloutis,

Il te reste du temps encor pour les petits,

Que sur les moindres fronts ton bras laisse sa marque,

Et qu’après cette France, il te faut cette barque!

Jersey, 5 tháng Tư 1853

Bản dịch:

Đêm ấy trời mưa, nước triều dâng cao

Miền bờ biển, sương đen nặng nề bao phủ

Sóng lớn gầm vang như chó sủa

Thổn thức u buồn hoà trời xám lệ trào

Khoảng vô tận xóc lên và hối hả

Trộn điệu quay rầu rĩ của vực sâu

Trong không gian, miệng đêm đen như thả sức gào

Bỗng từ biển vọng lên súng hiệu

Đoàn thuỷ thủ gặp nguy xin cấp cứu

Trong bóng đêm, cuồng phong nối cuồng phong

Không hoa tiêu, không nơi ẩn, không neo, không cả cánh buồm

Một con tàu tuyệt vọng kêu lần chót

Tôi đi ra. Một bà già sợ hãi nói cùng tôi, bất chợt:

– Nó đắm rồi. Một con ba cánh buồm

Tôi chạy qua bãi chỉ thấy khăn liệm buồn

Dệt toàn sương mù và đêm tối; còn nữa là tôi và niềm kinh hoảng

Ngọn sóng biển dâng cao trên vực thẳm

Giận dữ hú lên ngay cạnh tôi

Như xua đuổi chứng nhân về tôi ác ngàn đời

Chúa là ai? Chúa ghét ghen, gieo đoạ đày và khiếp sợ

Chúa của vực sâu, tan hoang và giông tố

Chưa ưng sao? Sau bao vụ đắm tàu

Sau bao người can trường, dũng mãnh bị dìm sâu

Dấu tay Người còn hằn trán dân hèn mọn

Sau nước Pháp đau thương, lại thêm con tàu mắc nạn

Đời vui (I) Joyeuse vie (I)

Joyeuse vie (I)

Bien! pillards, intrigants, fourbes, crétins, puissances!

Attablez-vous en hâte autour des jouissances!

Accourez! place à tous!

Maîtres, buvez, mangez, car la vie est rapide.

Tout ce peuple conquis, tout ce peuple stupide,

Tout ce peuple est à vous!

Vendez l’état! coupez les bois! coupez les bourses!

Videz les réservoirs et tarissez les sources!

Les temps sont arrivés.

Prenez le dernier sou! prenez, gais et faciles,

Aux travailleurs des champs, aux travailleurs des villes!

Prenez, riez, vivez!

Bombance! allez! c’est bien! vivez! faites ripaille!

La famille du pauvre expire sur la paille,

Sans porte ni volet.

Le père en frémissant va mendier dans l’ombre;

La mère n’ayant plus de pain, dénûment sombre,

L’enfant n’a plus de lait.

Bản dịch:

Được! hỡi lũ cướp, lũ mưu gian, lừa đảo, ngu ngốc, bạo quyền!

Lạc thú đây rồi, hãy vào bàn tiệc nhanh lên!

Ùa lại đây! chỗ dành cho tất cả!

Hỡi các chủ thầy, uống ăn đi, vì đời rất qua mau

Cả đám dân khuất phục này, cả lũ dân ngu

Dân chúng thuộc về bay tất cả!

Cứ bán nước! cứ chặt rừng! cắt túi!

Vét cạn kho, hút cho cạn nguồn, khô suối!

Thời cơ nay đã đến rồi

Đừng để một xu! lấy hết đi, dễ dàng, vui thú

Của nông dân ngoài đồng, của thợ thuyền giữa phố

Cứ lấy đi, cứ sống, cứ cười!

Vui linh đình, tốt lắm! Cứ yến tiệc! ăn chơi!

Mặc lũ nghèo trên ổ rạ tàn hơi

Nhà rách trước sau không cửa

Cha rẩy run trong bóng tối ăn mày

Mẹ chẳng có cơm xơ xác đoạ đày

Con nhỏ khô mồm hết sữa

Đời vui (V) Joyeuse vie (V)

Joyeuse vie (V)

Ah! quelqu’un parlera. La muse, c’est l’histoire.

Quelqu’un élèvera la voix dans la nuit noire.

Riez, bourreaux bouffons!

Quelqu’un te vengera, pauvre France abattue,

Ma mère! et l’on verra la parole qui tue

Sortir des cieux profonds!

Ces gueux, pires brigands que ceux des vieilles races,

Rongeant le pauvre peuple avec leurs dents voraces,

Sans pitié, sans merci,

Vils, n’ayant pas de cœur, mais ayant deux visages,

Disent: — Bah! le poëte! il est dans les nuages! –

Soit. Le tonnerre aussi.

bản dịch:

A! Có kẻ sẽ cất lời. tức là lịch sử

Có kẻ sẽ cất tiếng lên trong đêm bóng rủ

Lũ sát nhân vẽ mặt, cứ cười khà!

Có kẻ sẽ trả thù cho nước Pháp đau thương thảm thiết

Mẹ của ta ơi! sẽ có những lời như gươm chém giết

Từ trên trời thẳm vang ra

Xem thêm:  Sóng buồn - Hoàng Lan

Quân khốn kia, lũ cướp đường tệ hơn cả cướp ngày xưa

Đang đục ruỗng dân lành, với răng hau háu ngon ơ

Không một chút lòng thương xót

Lũ hèn hạ không tim, nhưng mặt lại có hai

Chúng nói: – Ối! thi sĩ ấy mà! anh ta ở trên mây!

– Phải. Mây có cả luồng sấm sét!

Gửi sự tuân thủ thụ động (I) À l’obéissance passive (I

À l’obéissance passive (I)

Ô soldats de l’an deux! ô guerres! épopées!

Contre les rois tirant ensemble leurs épées,

Prussiens, Autrichiens,

Contre toutes les Tyrs et toutes les Sodomes,

Contre le czar du nord, contre ce chasseur d’hommes

Suivi de tous ses chiens,

Contre toute l’Europe avec ses capitaines,

Avec ses fantassins couvrant au loin les plaines,

Avec ses cavaliers,

Tout entière debout comme une hydre vivante,

Ils chantaient, ils allaient, l’âme sans épouvante

Et les pieds sans souliers!

Au levant, au couchant, partout, au sud, au pôle,

Avec de vieux fusils sonnant sur leur épaule,

Passant torrents et monts,

Sans repos, sans sommeil, coudes percés, sans vivres,

Ils allaient, fiers, joyeux, et soufflant dans des cuivres

Ainsi que des démons!

La Liberté sublime emplissait leurs pensées.

Flottes prises d’assaut, frontières effacées

Sous leur pas souverain,

Ô France, tous les jours, c’était quelque prodige,

Chocs, rencontres, combats ; et Joubert sur l’Adige,

Et Marceau sur le Rhin!

On battait l’avant-garde, on culbutait le centre ;

Dans la pluie et la neige et de l’eau jusqu’au ventre,

On allait! en avant!

Et l’un offrait la paix, et l’autre ouvrait ses portes,

Et les trônes, roulant comme des feuilles mortes,

Se dispersaient au vent!

Oh! que vous étiez grands au milieu des mêlées, Soldats!

L’oeil plein d’éclairs, faces échevelées

Dans le noir tourbillon,

Ils rayonnaient, debout, ardents, dressant la tête;

Et comme les lions aspirent la tempête

Quand souffle l’aquilon,

Eux, dans l’emportement de leurs luttes épiques,

Ivres, ils savouraient tous les bruits héroïques,

Le fer heurtant le fer,

La Marseillaise ailée et volant dans les balles,

Les tambours, les obus, les bombes, les cymbales,

Et ton rire, ô Kléber!

La Révolution leur criait: – Volontaires,

Mourez pour délivrer tous les peuples vos frères! –

Contents, ils disaient oui.

– Allez, mes vieux soldats, mes généraux imberbes!

Et l’on voyait marcher ces va-nu-pieds superbes

Sur le monde ébloui!

La tristesse et la peur leur étaient inconnues.

Ils eussent, sans nul doute, escaladé les nues

Si ces audacieux,

En retournant les yeux dans leur course olympique,

Avaient vu derrière eux la grande République

Montrant du doigt les cieux!…

Bản dịch:

Ôi những chiến sĩ của năm thứ hai bất tử

Ôi chiến trận! anh hùng ca bất hủ

Chống lại các vương triều cùng tuốt kiếm

Quân Áo, Phổ, cùng mọi đô thành hoa lệ

Chống Sa hoàng phương Bắc, kẻ sát nhân

Mà theo sau là bầy chó bất nhân

Chống Châu Âu với khắp hàng tướng soái

Với bộ binh tràn ngập bình nguyên xa

Với tất cả các binh đoàn kỵ mã

Đang chồm lên như một con quái vật

Họ tiến lên, vang ca

Trên những đôi chân không giày

Và tâm hồn không mảy may run sợ

Sớm, chiều, khắp nơi từ bắc chí nam

Loảng xoảng trên vai những khẩu súng cũ càng

Không nghỉ ngơi, vượt núi cao, sông rộng

Không ngủ, không ngăn, khuỷu tay rách nát

Họ đi, vui, kiêu hãnh thổi kèn đồng

Như quỷ thần giáng hạ giữa thinh không

Với ý chí tự do làm tư tưởng

Họ xung phong cướp đoạt vạn chiến thuyền

Bước chân hùng xoá sạch muôn biên cương

Ôi, Pháp quốc, mỗi ngày một kỳ tích bất diệt

Xung đột, giao tranh, đụng độ rất quyết liệt

Sông A-đi, ngất trời sát khí, tướng Joubert

Và sông Rhin, ào ào vũ bão, tướng Marceau

Giáng sấm sét tan tác chim muông

Nước ngập nửa người, trong mưa tuyết triền miên

Họ đạp tan tiền quân và xô đẩy

Đạo trung quân, nhằm phía trước, tiến lên!

Và đối phương, kẻ cầu xin hoà nghị

Kẻ quy hàng mở cửa đón quân vào

Và ngai vàng rụng rơi như lá chết

Gió cuốn tung tan tác chẳng còn chi!

Ôi vĩ đại thay tầm vóc con người

Giữa chiến trường đang tả xung hữu đột

Mắt chớp lửa, mặt dãi dầu gió bụi

Trong cuồng phong gầm thét, khắp nơi nơi

Ngẩng cao đầu, họ toả chiếu cháy bỏng

Như mãnh sư lúc hoán vũ hô phong

Trong chiến trận hào hùng lôi cuốn họ

Như say mê trong sát khí mơ màng

Muôn vũ khí rợn người đang đụng độ

“Dáng quốc thiều” tung bay trong lửa đạn

Tiếng trống trận, đại bác, bom, não bạt

Tướng Kléber, giữa hàng quân xung trận

Cất tiếng cười, lúc đạn nổ, rền vang

Đáp lại lời hiệu triệu của Cách mạng:

“Vì tự do các dân tộc anh em

Tình nguyện quân, hãy quyết tử xông lên!

Thì đồng thanh họ tuyên bố sẵn sàng

“Hỡi các chiến sĩ già hãy tiến nhanh

Cùng các tướng lĩnh đang thời trai tráng!”

Và tuyệt vời những người chân đất ấy

Khiến toàn cầu loá mắt đến kinh hoàng!

Vì đại nghĩa, có bao giờ buồn, sợ

Và hẳn là họ chinh phục mây mờ

Nếu trong cuộc đua quyết liệt tranh giành

Những con người gan góc ấy, quay đầu lại

Được thấy nước Cộng hoà vĩ đại

Giơ cao tay, chỉ thẳng hướng trời xanh

Gửi sự tuân thủ thụ động (VIII) À l’obéissance passive (VIII)

À l’obéissance passive (VIII)

Ô Dieu, puisque voilà ce qu’a fait cette armée,

Puisque, comme une porte est barrée et fermée,

Elle est sourde à l’honneur,

Puisque tous ces soldats rampent sans espérance,

Et puisque dans le sang ils ont éteint la France,

Votre flambeau, Seigneur!

Puisque la conscience en deuil est sans refuge

Puisque le prêtre assis dans la chaire, et le juge

D’hermine revêtu,

Adorent le succès, seul vrai, seul légitime,

Et disent qu’il vaut mieux réussir par le crime,

Que choir par la vertu;

Puisque les âmes sont pareilles à des filles;

Puisque ceux-là sont morts qui brisaient les bastilles,

Ou bien sont dégradés;

Puisque l’abjection, aux conseils misérables,

Sortant de tous les cœurs, fait les bouches semblables

Aux égouts débordés;

Puisque l’honneur décroît pendant que César monte;

Puisque dans ce Paris on n’entend plus, ô honte,

Que des femmes gémir;

Puisqu’on n’a plus de cœur devant les grandes tâches,

Puisque les vieux faubourgs, tremblant comme des lâches

Font semblant de dormir,

Ô Dieu vivant, mon Dieu! prêtez-moi votre force,

Et, moi qui ne suis rien, j’entrerai chez ce corse

Et chez cet inhumain;

Secouant mon vers sombre et plein de votre flamme,

J’entrerai là, Seigneur, la justice dans l’âme

Et le fouet à la main,

Et, retroussant ma manche ainsi qu’un belluaire,

Seul, terrible, des morts agitant le suaire

Dans ma sainte fureur,

Pareil aux noirs vengeurs devant qui l’on se sauve,

J’écraserai du pied l’antre et la bête fauve,

L’empire et l’empereur!

Bản dịch:

Ôi Thượng đế, bởi giờ đây đội quân kia hành tung như vậy

Bởi giống như cánh cửa bị chắn ngang và đóng lại

Trước danh dự họ điếc ngây

Bởi tất cả binh lính kia đã rạp bò không còn trông đợi

Và bởi trong máu me nước Pháp bị họ dập tàn rồi

Bó đuốc của người, thưa Thượng đế!

Bởi lương tri tang tóc chẳng còn lối nương thân

Bởi vị linh mục trên diễn đàn, và quan toà

Bận đồ chế phục

Đều tôn thờ sự thành đạt, đích thực, nhận chân duy có một

Còn hơn là thất bại trắng trong

Bởi tâm hồn giống như bầy gái điếm

Bởi đã chết rồi những ai phá các ngục Baxti

Hoặc là họ đã đều sa đoạ

Bởi đê tiện tuôn lời khuyên hèn hạ

Từ mọi trái tim khiến mồm miệng khác nào

Lỗ cống đã ứ đầy tràn ngập

Bởi danh dự chột thui khi Xêda thăng trưởng

Bởi giữa Pari ôi sỉ nhục, chỉ còn nghe

Tiếng đàn bà rên rỉ

Bởi chẳng còn ai lòng đâu lo đại nghĩa

Bởi những ngoại ô cũ kỹ, run rẩy ươn hèn

Giả vờ như mê ngủ

Ôi lạy Chúa, người sinh thành, xin ban cho tôi sức mạnh

Và tôi, phận hèn, tôi sẽ tới tận chỗ gã Coocxơ kia

Và tại nhà tên vô đạo

Lay mạnh vần thơ âm thầm mang lửa Người tràn ngập

Tôi bước vào, lạy Chúa, với công lý trong tim

Và trong tay là roi vọt

Rồi, xắn ống tay tựa người trí thú

Đơn độc, dữ dằn nơi hồn ma vẫy lần khăn liệm

Trong cơn giận thánh thần

Tựa người rửa thù tăm tối buộc thiên hạ lùi xa

Tôi sẽ giẫm nát dưới bàn chân ổ hang và con thú độc

Đế chế này và cả bậc đế vương!

Hãy thổi vang, thổi vang, hỡi kèn đồng tư tưởng Sonnez, sonnez toujours, clairons de la pensée

Hãy thổi vang, thổi vang, hỡi kèn đồng tư tưởng Sonnez, sonnez toujours, clairons de la pensée

Bản dịch:

Hãy thổi vang, thổi vang, hỡi kèn đồng tư tưởng

Khi Josué trầm tư, đầu đội trời xanh

Đoàn thủ túc theo sau, nhà tiên tri tức giận

Kèn thổi quanh bốn mặt đô thành

Lần thứ nhất nhà vua cười rộ

Lần thứ hai, vẫn tiếp tục cười vang

Vua phán:” Ngươi tưởng phá được thành bằng hơi gió?”

Lần thứ ba, dẫn đầu là hòm pháp điển thiêng

Sau nhóm kèn, cả đoàn quân tiến bước

Và lũ trẻ hè nhau đến nhổ trên hòm

Và thổi ốc nhại tiếng kèn thôi thúc

Lần thứ tư, khinh thường con cháu Aaron

Đám đàn bà đến ngồi quay sợi

Giữa những ụ bờ thành già cỗi rỉ hoen

Và giễu cợt ném đá xuống đầu quân Hêbrơ phía dưới

Lần thứ năm, trên dải tường chiến luỹ tối đen

Đám tật nguyền đui què đến nơi hò hét

Chế nhạo tiếng kèn trầm uất dưới vòm mây

Lần thứ sáu, trên tháp đá cứng như sắt thép

Đến cả thần sấm sét cũng bó tay

Đại bàng về làm tổ trên đỉnh cao ngọn tháp

Vua cất tiếng cười ha hả giữa niềm vui:

“Đám Hêbrơ này cũng sính nghề âm nhạc!”

Chung quanh nhà vua hân hoan đoàn râu trắng mỉm cười

Những nguyên lão từng tối tối ngồi trong đền bàn bạc

Lần thứ bảy, thành trì sập nát

Lời cuối cùng (trích) Ultima verba (extrait)

Ultima verba (extrait)

Oh! tant qu’on le verra trôner, ce gueux, ce prince,

Par le pape béni, monarque malandrin,

Dans une main le sceptre et dans l’autre la pince,

Charlemagne taillé par Satan dans Mandrin;

Tant qu’il se vautrera, broyant dans ses mâchoires

Le serment, la vertu, l’honneur religieux,

Ivre, affreux, vomissant sa honte sur nos gloires;

Tant qu’on verra cela sous le soleil des cieux;

Quand même grandirait l’abjection publique

À ce point d’adorer l’exécrable trompeur;

Quand même l’Angleterre et même l’Amérique

Diraient à l’exilé: — Va-t’en! nous avons peur!

Quand même nous serions comme la feuille morte;

Quand, pour plaire à César, on nous renîrait tous;

Quand le proscrit devrait s’enfuir de porte en porte,

Aux hommes déchiré comme un haillon aux clous;

Quand le désert, où Dieu contre l’homme proteste

Bannirait les bannis, chasserait les chassés ;

Quand même, infâme aussi, lâche comme le reste,

Le tombeau jetterait dehors les trépassés;

Je ne fléchirai pas! Sans plainte dans la bouche,

Calme, le deuil au cœur, dédaignant le troupeau,

Je vous embrasserai dans mon exil farouche,

Patrie, ô mon autel! Liberté, mon drapeau!

Mes nobles compagnons, je garde votre culte

Bannis, la république est là qui nous unit.

J’attacherai la gloire à tout ce qu’on insulte

Je jetterai l’opprobre à tout ce qu’on bénit!

Je serai, sous le sac de cendre qui me couvre,

La voix qui dit: malheur! la bouche qui dit: non!

Tandis que tes valets te montreront ton Louvre,

Moi, je te montrerai, César, ton cabanon.

Devant les trahisons et les têtes courbées,

Je croiserai les bras, indigné, mais serein.

Sombre fidélité pour les choses tombées,

Sois ma force et ma joie et mon pilier d’airain!

Oui, tant qu’il sera là, qu’on cède ou qu’on persiste,

Ô France! France aimée et qu’on pleure toujours,

Je ne reverrai pas ta terre douce et triste,

Tombeau de mes aïeux et nid de mes amours!

Je ne reverrai pas ta rive qui nous tente,

France! hors le devoir, hélas! j’oublîrai tout.

Parmi les éprouvés je planterai ma tente.

Je resterai proscrit, voulant rester debout.

Xem thêm:  Phạm Thiên Thư cùng những trang thơ hấp dẫn phần 2

J’accepte l’âpre exil, n’eût-il ni fin ni terme,

Sans chercher à savoir et sans considérer

Si quelqu’un a plié qu’on aurait cru plus ferme,

Et si plusieurs s’en vont qui devraient demeurer.

Si l’on n’est plus que mille, eh bien, j’en suis! Si même

Ils ne sont plus que cent, je brave encor Sylla;

S’il en demeure dix, je serai le dixième;

Et s’il n’en reste qu’un, je serai celui-là!

2 hai 1852, Jersey

Bản dịch:

Ôi! nếu còn thấy ở trên ngôi tên khốn hèn, tôn thất

Tên vua lục lâm, được nước phép của giáo hoàng

Một tay nắm ấn vàng, tay cầm dao khoét vách

Hoàng đế của côn đồ, nặn tạc bởi xa-tăng

Nếu hắn còn thoả thuê, đôi quai hàm nhai nghiến

Cả lời thề, đạo đức, với danh dự nhà thờ

Say, xấu xa, mửa lên bao vinh hiển

Nếu cảnh kia còn thấy dưới trời trơ

Dù hèn hạ của chúng nhân lớn mãi

Đến nước suy tôn tên lừa bịp vô nghì

Dù khi mà nước Anh, dù cho khi nước Mỹ

Bảo kẻ đi đay: – Chúng tôi sợ! Đi đi!

Dù cho khi chúng tôi như là lá rụng

Khi ai cũng từ nan, để dẹp dạ Tần đình

Khi kẻ lưu vong phải chạy từ các cổng

Xé giữa người như giẻ xé vào đinh

Khi sa mạc, nơi Chúa làm tội vạ

Cũng xua kẻ bị xua, hằn kẻ bị hằn

Dù cũng đê hèn, nhát như tất cả

Cái mồ kia ném trả những vong nhân

Ta vẫn chẳng khom lưng đâu! Không kêu ca trong miệng

Bình tĩnh, đau thương, khinh cả bọn theo hùa

Trong cảnh đày, ta vẫn ôm chẳng chuyển

Tổ quốc, bàn thờ thiêng! Tự do, đẹp lá cờ!

Hỡi những bạn đồng thuyền, tấc thành tôi kính gửi

Trong ruồng xua, nền Cộng hoà vẫn đó kết liền ta

Tôi toả vinh quang lên những gì họ chửi

Tôi ném tởm khinh lên những cái họ thờ

Dù bị tro phủ lấp tôi, tôi vẫn

Là tiếng kêu: liệu đấy! là miệng nói: quyết không!

Trong lúc lũ bồi trỏ cho mi Cung tẩm

Ta trỏ này, Bạo chúa! cái cũi nhốt mày trong

Vâng, hắn còn, thì dù nới ra hay nghiệt lắm

Tổ quốc ơi! Tổ quốc mến yêu, ta mãi khóc mình

Tôi sẽ chẳng về thấy lại đất quê hiền thảm

Nơi mồ mả ông cha, nơi tổ ấm ân tình!

Tôi sẽ chẳng thấy lại bờ ước mơ Tổ quốc

Hỡi quê hương! ngoài nhiệm vụ, tôi phải quên tất cả, than ôi!

Giữa những kẻ điêu linh, tôi sẽ cắm chòi đơn độc

Tôi vẫn sẽ lưu vong, muốn đứng thẳng

Tôi nhận lấy cảnh đi đày, dù không cùng không cuối

Chẳng tìm xem cũng chẳng kể làm chi

Ai tưởng cứng mà hoá ra quỵ gối

Những ai đáng lẽ bền, nhưng mà đã tếch đi

Nếu còn lại một nghìn thôi, tôi ở trong số đó!

Nếu còn lại một trăm, tôi vẫn chống địch không rời

Nếu còn lại có mười người, tôi là người cuối sổ

Và nếu chỉ một người còn đứng đó – ấy là tôi

Nghệ thuật với nhân dân L’art et le peuple

L’art et le peuple

I

L’art, c’est la gloire et la joie.

Dans la tempête il flamboie ;

Il éclaire le ciel bleu.

L’art, splendeur universelle,

Au front du peuple étincelle,

Comme l’astre au front de Dieu.

L’art est un champ magnifique

Qui plaît au cœur pacifique,

Que la cité dit aux bois,

Que l’homme dit à la femme,

Que toutes les voix de l’âme

Chantent en chœur à la fois!

L’art, c’est la pensée humaine

Qui va brisant toute chaîne!

L’art, c’est le doux conquérant!

A lui le Rhin et le Tibre!

Peuple esclave, il te fait libre ;

Peuple libre, il te fait grand!

II

O bonne France invincible,

Chante ta chanson paisible!

Chante, et regarde le ciel!

Ta voix joyeuse et profonde

Est l’espérance du monde,

O grand peuple fraternel!

Bon peuple, chante à l’aurore,

Quand le soir vient, chante encore!

Le travail fait la gaîté.

Ris du vieux siècle qui passe!

Chante l’amour à voix basse,

Et tout haut la liberté!

Chante la sainte Italie,

La Pologne ensevelie,

Naples qu’un sang pur rougit,

La Hongrie agonisante… –

O tyrans! le peuple chante

Comme le lion rugit!

Bản dịch:

I

Nghệ thuật là sự vinh quang và niềm vui thú

Cháy bừng trong bão tố

Chiếu sáng trời xanh

Nghệ thuật, ánh sáng của vũ trụ chói lọi

Rạng ngời trên vừng trán nhân dân

Như vừng sao trên vừng trán Chúa

Nghệ thuật là bài ca tuyệt mỹ

Làm vui trái tim yên lành

Đô thành nói với rừng xanh

Đàn ông ngỏ lời với phụ nữ

Tất cả những tiếng nói tâm hồn

Hoà một khúc ca chung

Nghệ thuật là tư tưởng nhân loại

Đi bẻ gãy mọi xích xiềng!

Nghệ thuật là người chinh phục dịu hiền!

Thuộc về mình cả sông Rhin, sông Tibre

Nhân dân nô lệ, nghệ thuật làm cho ngừoi trở nên tự do

Nhân dân tự do, nghệ thuật làm cho người trở nên vĩ đại

II

Ôi nước Pháp tốt lành bất khả xâm phạm

Hãy hát bài ca thanh bình của người

Hãy hát và vọng nhìn trời

Tiếng ca của người vui tươi, sâu thẳm

Là niềm hy vọng của thế gian

Ôi nhân dân vĩ đại anh em!

Hỡi nhân dân tốt lành, hãy hát lúc rạng đông!

Khi chiều buông, hãy còn cứ hát

Lao động gây niềm hoan lạc

Hãy nhạo cười thế kỷ già nua đã qua

Hãy thì thầm những bản tình ca

Và cao giọng khúc hát tự do!

Hãy ca ngợi nước Ý thần thánh

Nước Ba Lan đang bị chôn vùi

Đô thành Náp đỏ dòng máu thắm

Và nước Hung hấp hối kia rồi

Này bạo chúa! nhân dân ca hát

Như sư tử đang lúc gầm thét

Ngỏ cùng nhân dân Au peuple

Au peuple

Il te ressemble; il est terrible et pacifique.

Il est sous l’infini le niveau magnifique;

Il a le mouvement, il a l’immensité.

Apaisé d’un rayon et d’un souffle agité,

Tantôt c’est l’harmonie et tantôt le cri rauque.

Les monstres sont à l’aise en sa profondeur glauque;

La trombe y germe ; il a des gouffres inconnus

D’où ceux qui l’ont bravé ne sont pas revenus;

Sur son énormité le colosse chavire;

Comme toi le despote, il brise le navire;

Le fanal est sur lui comme l’esprit sur toi;

Il foudroie, il caresse, et Dieu seul sait pourquoi;

Sa vague, où l’on entend comme des chocs d’armures,

Emplit la sombre nuit de monstrueux murmures,

Et l’on sent que ce flot, comme toi, gouffre humain,

Ayant rugi ce soir, dévorera demain.

Son onde est une lame aussi bien que le glaive;

Il chante un hymne immense à Vénus qui se lève;

Sa rondeur formidable, azur universel,

Accepte en son miroir tous les astres du ciel;

Il a la force rude et la grâce superbe;

Il déracine un roc, il épargne un brin d’herbe;

Il jette comme toi l’écume aux fiers sommets,

O Peuple; seulement, lui, ne trompe jamais

Quand, l’œil fixe, et debout sur sa grève sacrée,

Et pensif, on attend l’heure de sa marée.

bản dịch:

Người giống bạn; người là kinh khủng và hiền hoà

Trong vô tận, người là mức cao xa

Người là bao la, người vận hành mau lẹ

Nguôi lòng vì tia nắng nhỏ, lay động vì làn khói nhẹ

Khi xướng hoà âm, khi nói tiếng khàn khàn

Nơi người, quái vật thảnh thơi trong đáy thẳm xanh lam

Sóng thần náyinh, người chứa vực sâu chưa ai biết

Mà những kẻ dò tìm ra đi là vĩnh biệt

Do người, tên khổng lồ đổ sụp chốn mênh mông

Như bạo chúa, người đập tan tàu vượt dương

Đèn hiệu trên người cũng như tinh thần nơi bạn

Người nổi lôi đình, người vuốt ve, ai mà tường tận

Sóng của người vang tiếng chạm gươm đao

Làm đêm đen đầy giọng quái thì thào

Ta cảm nhận làn sóng này, như vực thẳm

Gào thét chiều nay, mai rồi nuốt chửng

Sóng của người có lưỡi sắc của gươm thiêng

Người ngợi ca vô hạn ánh sao Kim

Với đường cong ghê gớm, với thiên thanh rộng khắp

Người là gương phản chiếu mọi chòm sao xa tắp

Người có sức mạnh đáng gờm và duyên dáng mê hồn

Nâng tảng đá dễ như đùa, nhưng người nương nhẹ ngọn cỏ non

Sóng của người ghè những đỉnh cao vòi vọi

Ôi, nhân dân! Chỉ nhân dân lừa dối

Khi chúng ta, trên bãi cát thiêng liêng

Đăm đăm tư lự, chờ đợi giờ biển cả trào dâng

Ơi nước Pháp! lúc ngươi quỳ gối France! à l’heure où tu te

France! à l’heure où tu te prosternes

France! à l’heure où tu te prosternes,

Le pied d’un tyran sur ton front,

La voix sortira des cavernes

Les enchaînés tressailleront.

Le banni, debout sur la grève,

Contemplant l’étoile et le flot,

Comme ceux qu’on entend en rêve,

Parlera dans l’ombre tout haut ;

Et ses paroles qui menacent,

Ses paroles dont l’éclair luit,

Seront comme des mains qui passent

Tenant des glaives dans la nuit.

Elles feront frémir les marbres

Et les monts que brunit le soir,

Et les chevelures des arbres

Frissonneront sous le ciel noir;

Elles seront l’airain qui sonne,

Le cri qui chasse les corbeaux,

Le souffle inconnu dont frissonne

Le brin d’herbe sur les tombeaux;

Elles crieront: Honte aux infâmes,

Aux oppresseurs, aux meurtriers!

Elles appelleront les âmes

Comme on appelle des guerriers!

Sur les races qui se transforment,

Sombre orage, elles planeront;

Et si ceux qui vivent s’endorment,

Ceux qui sont morts s’éveilleront.

Bản dịch:

Ơi nước Pháp! Lúc ngươi quỳ gối

Bàn chân bạo chúa đạp lên đầu

Sẽ vang tiếng thét từ hang núi

Gọi kẻ qua đời tỉnh giấc mau

Nhìn dãy triều dâng sao bóng nước

Như đôi bè bạn gặp trong mơ

Một người biệt xứ ngang cồn cát

Giọng nói vang lên giữa tối mờ

Tiếng người vụt ánh chớp uy nghi

Lời nói bừng lên nhắc bốn bề

Lời nói như bàn tay dũng sĩ

Vung gươm loang loáng giữa trời khuya

Nghe người… đá gấm cũng rung lên

Núi ngả màu nâu tối sẫm nền

Và những cây rừng ngơ ngác tán

Rùng mình run bóng dưới trời đen

Lời người đồng vọng tiếng chuông vang

Là tiếng xua dài lũ quạ khoang

Là gió lạ về mang xao xuyến

Tới làn cỏ rạt nấm mồ hoang

Lời kêu: Nhục nhã loài đê tiện

Áp bức quen trò lũ sát nhân

Lời gọi tâm hồn đâu thánh thiện

Như hồi kèn nghĩa giục ba quân

Lời tựa cuồng giông bay tiếp tiếp

Giống nòi vận mệnh hẳn vần xoay

Kẻ đang sống sẽ mau hồn thiếp

Người đã qua đời vụt tỉnh ngay

Người đang sống (trích) Ceux qui vivent (extrait)

Ceux qui vivent (extrait)

Ceux qui vivent, ce sont ceux qui luttent; ce sont

Ceux dont un dessein ferme emplit l’âme et le front.

Ceux qui d’un haut destin gravissent l’âpre cime.

Ceux qui marchent pensifs, épris d’un but sublime.

Ayant devant les yeux sans cesse, nuit et jour,

Ou quelque saint labeur ou quelque grand amour.

C’est le prophète saint prosterné devant l’arche,

C’est le travailleur, pâtre, ouvrier, patriarche.

Ceux dont le coeur est bon, ceux dont les jours sont pleins.

Ceux-là vivent, Seigneur! les autres, je les plains.

Car de son vague ennui le néant les enivre,

Car le plus lourd fardeau, c’est d’exister sans vivre.

Inutiles, épars, ils traînent ici-bas

Le sombre accablement d’être en ne pensant pas.



Quoi! ne point aimer! suivre une morne carrière

Sans un songe en avant, sans un deuil en arrière,

Quoi! marcher devant soi sans savoir où l’on va,

Rire de Jupiter sans croire à Jéhova,

Regarder sans respect l’astre, la fleur, la femme,

Toujours vouloir le corps, ne jamais chercher l’âme,

Pour de vains résultats faire de vains efforts,

N’attendre rien d’en haut! ciel! oublier les morts!

Oh non, je ne suis point de ceux-là! grands, prospères,

Fiers, puissants, ou cachés dans d’immondes repaires,

Je les fuis, et je crains leurs sentiers détestés;

Et j’aimerais mieux être, ô fourmis des cités,

Tourbe, foule, hommes faux, coeurs morts, races déchues,

Un arbre dans les bois qu’une âme en vos cohues!

Ngụ ngôn hay lịch sử Fable ou histoire

Fable ou histoire

Un jour, maigre et sentant un royal appétit,

Un singe d’une peau de tigre se vêtit.

Le tigre avait été méchant; lui, fut atroce.

Il avait endossé le droit d’être féroce.

Il se mit à grincer des dents, criant: Je suis

Le vainqueur des halliers, le roi sombre des nuits!

Il s’embusqua, brigand des bois, dans les épines

Il entassa l’horreur, le meurtre, les rapines,

Egorgea les passants, dévasta la forêt,

Fit tout ce qu’avait fait la peau qui le couvrait.

Il vivait dans un antre, entouré de carnage.

Chacun, voyant la peau, croyait au personnage.

Il s’écriait, poussant d’affreux rugissements:

Regardez, ma caverne est pleine d’ossements;

Devant moi tout recule et frémit, tout émigre,

Tout tremble; admirez-moi, voyez, je suis un tigre!

Les bêtes l’admiraient, et fuyaient à grands pas.

Un belluaire vint, le saisit dans ses bras,

Déchira cette peau comme on déchire un linge,

Mit à nu ce vainqueur, et dit: Tu n’es qu’un singe!

Trên đây là 20 bài thơ nằm trong tập thơ Trừng phạt của nhà văn Victor Hugo, được nhiều độc giả yêu thích hiện nay. Các bài thơ đều có bản dịch tiếng Việt mang đến sự thuận tiện cho độc giả Việt yêu thơ của Victor Hugo.

Xem tiếp: Victor Hugo – Với tập thơ Chiêm ngưỡng – Les contemplations (1856)

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …