Tập thơ Bắc hành tạp lục của nhà thơ nguyễn Du được sáng tá trong vòng 1 năm từ tháng 2 năm 1813 đến tháng 12 năm 1813. Tập thơ gồm 132 bài thơ chữ Hán được ông sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc.
Ngũ nguyệt quan cạnh độ 五月觀競渡 • Tháng năm xem đua thuyền
五月觀競渡
懷王歸葬張儀死,
楚國詞人記佩蘭。
天古招魂終不返,
滿江爭競太無端。
煙波渺渺空悲怨,
羅鼓年年自笑歡。
魂若歸來也無托,
龍蛇鬼蜮遍人間。
Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài Vương qui táng, Trương Nghi tử,
Sở quốc từ nhân ký bội lan.
Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản,
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan.
Yên ba diểu diểu không bi oán,
La cổ niên niên tự tiếu hoan.
Hồn nhược quy lai dã vô thác,
Long xà quỷ vực biến nhân gian.
Dịch nghĩa
Hoài Vương chết, đưa hài cốt về mai táng, Trương Nghi cũng chết.
Nhớ nhà thơ nước Sở đeo chùm hoa lan để tỏ phẩm chất của mình.
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.
Thuyền đua đầy sông, nào có ý nghĩa gì đâu!
Nhìn khói sóng mịt mù mà đau thương oán giận.
Hàng năm chiêng trống vẫn cứ bày trò vui như thế này đây.
Vả chăng hồn ông có về cũng không biết nương tựa vào đâu.
Khắp nhân gian nơi nơi đầy dẫy rắn rồng, quỷ quái.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01 蒼梧竹枝歌其一 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 01
蒼梧竹枝歌其一
桂林新潦涌長川,
水屋憑高欲上天。
午後東風吹更急,
往來無數廣東船。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01
Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên,
Thuỷ ốc bằng cao dục thướng thiên.
Ngọ hậu đông phong xuy cấp cánh,
Vãng lai vô số Quảng đông thuyền.
Dịch nghĩa
Nước lụt Quế Lâm thật mênh mông,
Trời gần bè thả cao trên sông.
Quá trưa thêm mạnh gió đông,
Lưu hành vô số Quảng đông thuyền bè.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02 蒼梧竹枝歌其二 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 02
蒼梧竹枝歌其二
文昌閣上夜燈明,
一片寒光射水晶。
來往遊船不知數,
滿江齊發棹哥聲。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02
Văn Xương các thượng dạ đăng minh,
Nhất phiến hàn quang xạ thuỷ tinh.
Lai vãng du thuyền bất tri số,
Mãn giang tề phát trạo ca thanh.
Dịch nghĩa
Đèn đêm sáng ngời gác Văn Xương,
Một màng nước chiếu sáng như gương.
Thuyền bè qua lại nhiều vô kể,
Khắp sông vang vọng lời ca vương.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03 蒼梧竹枝歌其三 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 03
蒼梧竹枝歌其三
雨自滂沱雲自癡,
九疑山色望中疑。
虞王葬處無丘墓,
水面絃聲似二妃。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03
Vũ tự bàng đà vân tự si,
Cửu Nghi sơn sắc vọng trung nghi.
Ngu Vương táng xứ vô khâu mộ,
Thuỷ diện huyền thanh tự nhị phi.
Dịch nghĩa
Mưa rơi sướt mướt, mây lững lờ,
Núi Cửu nhạt nhòa trong xa mờ.
Ngóng lăng vua Thuấn sao chẳng thấy,
Mặt nước đàn vang tưởng hai phi.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04 蒼梧竹枝歌其四 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 04
蒼梧竹枝歌其四
青山樓閣一層層,
晝見煙霞夜見燈。
古寺無名難問訊,
白雲深處臥山僧。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04
Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng,
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng.
Cổ tự vô danh nan vấn tấn,
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.
Dịch nghĩa
Núi xanh, lầu cao hàng lớp lớp,
Ngày thấy mây khói, tối ánh đèn.
Chùa cũ không tên biết hỏi ai,
Trong lớp mây trắng nhà sư nằm.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05 蒼梧竹枝歌其五 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 05
蒼梧竹枝歌其五
浪花雙棹疾如飛,
看罷龍舟抵暮歸。
生面相逢無畏避,
瓠犀微露笑南夷。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05
Lãng hoa song trạo tật như phi,
Khán bãi long châu để mộ quy.
Sinh diện tương phùng vô uý tị,
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di.
Dịch nghĩa
Đôi chèo thuyền quẩy sóng lướt như bay,
Xem cuộc đua chải đến chiều về.
Gặp người lạ chẳng hề e ngại,
Hé răng đẹp cười thấy người khách phương Nam.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06 蒼梧竹枝歌其六 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 06
蒼梧竹枝歌其六
一聲裂竹散硫磺,
驚起沙汀鴈數行。
天際遙瞻歸去處,
蒼梧北上定衡陽。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06
Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng,
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng.
Thiên tế giao chiêm quy khứ xứ,
Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương.
Dịch nghĩa
Một tiếng pháo nổ, khói lưu hoàng bốc ra
Đàn nhạn kinh hãi từ bãi cát bay lên
Nhìn trời xem bay về phương nào
Từ Thương Ngô bay lên Bắc đoán là đến Hành Dương.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07 蒼梧竹枝歌其七 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 07
蒼梧竹枝歌其七
長江波浪渺無涯,
三五遊船趁夜開。
無月無燈看不見,
琵琶聲自水中來。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07
Trường giang ba lãng diểu vô nhai,
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai.
Vô nguyệt vô đăng khan bất kiến,
Tỳ bà thanh tự thuỷ trung lai.
Dịch nghĩa
Sông Trường sóng nước chẳng thấy bờ,
Ba năm thuyền lướt trong đêm mờ.
Không trăng không đèn nhìn chẳng rõ,
Tiếng tì bà đâu đó vẳng trên sông.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08 蒼梧竹枝歌其八 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 08
蒼梧竹枝歌其八
雞籠山在水中央,
萬頃煙波共渺茫。
相約東家具舟楫,
天妃閣上共焚香。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08
Kê Lung sơn tại thuỷ trung ương,
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang.
Tương ước đông gia cụ chu tiếp,
Thiên phi các thượng cộng phần hương.
Dịch nghĩa
Kê Lung núi ở giữa dòng sông,
Khói sóng vạn lớp trải trập trùng.
Đã hẹn chủ thuyền cùng sửa soạn,
Viếng gác Thiên phi cùng thắp nhang.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 09 蒼梧竹枝歌其九 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 09
蒼梧竹枝歌其九
城北山榴紅更紅,
城南垂柳不禁風。
絮飛花落無人管,
一夜隨流到廣東。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 09
Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng,
Thành nam thùy liễu bất câm phong.
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản,
Nhất dạ tuỳ lưu đáo Quảng Đông.
Dịch nghĩa
Phía thành bắc lựu núi hồng thêm hồng,
Nơi thành nam liễu rủ gió thổi tung.
Liễu bay hoa rơi rụng không người biết,
Một đêm xuôi dòng ghé Quảng Đông.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 11 蒼梧竹枝歌其十一 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 11
蒼梧竹枝歌其十一
十隻龍舟一字陳,
敲鑼撾鼓弔靈均。
黃花閨女貪行樂,
跳出船頭不避人。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 11
Thập chích long châu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu Linh quân.
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân.
Dịch nghĩa
Mười thuyền rồng sắp hàng chữ nhất,
Chiêng trống vang rền điếu Khuất nguyên.
Cài hoa vàng một nàng ham vui quá,
Ngay mũi thuyền đứng xem chẳng tị hiềm ai.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12 蒼梧竹枝歌其十二 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 12
蒼梧竹枝歌其十二
棠舟蘭棹日繽紛,
往往來來不厭頻。
記取畫船三五隻,
最風流是布衣人。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12
Đường chu lan tiếp nhật tần phân,
Vãng vãng lai lai bất yếm tần.
Ký thủ hoạ thuyền tam ngũ chích,
Tối phong lưu thị bố y nhân.
Dịch nghĩa
Thuyền gỗ đường, chèo gỗ lan nhộn nhịp cả ngày,
Đi đi lại lại không nghỉ ngơi.
Tay viết vẽ xuống ba năm chiếc thuyền,
Lịch lãm nhất là người mặc áo vải.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13 蒼梧竹枝歌其十三 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 13
蒼梧竹枝歌其十三
沿城楊柳不勝柔,
葉葉絲絲未及秋。
好向風前看搖洩,
最癲狂處最風流。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13
Duyên thành dương liễu bất thăng nhu,
Diệp diệp ty ty vị cập thu.
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ,
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14 蒼梧竹枝歌其十四 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 14
蒼梧竹枝歌其十四
長裙習習曳輕綃,
雲髻峨峨擁翠翹。
贏得鬼頭滿囊口,
憑君無福也能消。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14
Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Vân kế nga nga ủng thuý kiều.
Doanh đắc quỷ đầu mãn mang khẩu,
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.
Dịch nghĩa
Quần lụa dài thướt tha kiều nữ,
Tóc bới cao, lông chim thúy điểm trâm cài.
Cứ rằng có tiền bạc đầy túi,
Thì dù không có phúc vẫn có duyên với họ.
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15 蒼梧竹枝歌其十五 • Ca điệu Trúc chi đất Thương Ngô kỳ 15
蒼梧竹枝歌其十五
船尾燈籠四尺竿,
船頭畫虎黑斑斑。
布旗上冩巡河字,
只詰花船不詰姦。
Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15
Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can,
Thuyền đầu hoạ hổ hắc ban ban.
Bố kỳ thượng tả “Tuần hà” tự,
Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.
Dịch nghĩa
Đuôi thuyền có đèn lồng cán dài bốn thước,
Mũi thuyền có hình vẽ hổ vằn lông đen.
Cờ trưng cao đề hai chữ “Tuần hà”
Tuần viên chỉ chặn hỏi thuyền hoa, còn thuyền gian thì mặc kệ.
Dương Phi cố lý 楊妃故里 • Quê cũ Dương Quý Phi
楊妃故里
山雲削略岸花明,
見說楊妃此地生。
自是舉朝空立仗,
枉教千古罪傾城。
簫簫南內蓬篙遍,
寞寞西郊丘隴平。
狼藉殘紅無覓處,
東風城下不勝情。
Dương Phi cố lý
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.
Dịch nghĩa
Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
Nghe nói đây là quê sinh đẻ của Dương Phi.
Chỉ tại triều đình như tuồng phỗng đá,
Khiến xui ngàn năm cứ đổ tội sắc nghiêng thành.
Trong cung Nam buồn cỏ bồng mọc khắp lối,
Vắng vẻ Tây giao, gò đống phẳng bằng.
Phấn lạt hương phai biết tìm đâu,
Dưới thành gió đông gợi nhiều cảm thương.
Triệu Vũ Đế cố cảnh 趙武帝故境 • Đất cũ của Triệu Vũ Đế
趙武帝故境
暴楚強秦相繼誅,
雍容揖遜霸南陬。
自娛儘可稱皇帝,
樂善還能屈豎儒。
百尺高臺傾嶺表,
千年古墓沒番禺。
可憐世代相更迭,
不及蠻夷一老夫。
Triệu Vũ Đế cố cảnh
Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Ung dung ấp tốn bá nam tu.
Tự ngu tẫn khả xưng hoàng đế,
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu.
Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu,
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu.
Khả liên thế đại tương canh diệt,
Bất cập man di nhất lão phu.
Dịch nghĩa
Sở, Tần hai nước cường bạo theo nhau diệt vong
Ông cứ ung dung nhũn nhặn làm bá chủ phương nam
Tùy thích có thể xưng hoàng đế
Vui điều thiện chịu khuất với chú nhà nho hèn mọn
Đài cao trăm thước ở Lĩnh Biểu đã nghiêng đổ
Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung đã mất
Thương cho đời này theo đời kia thay đổi nhau
Nhưng không bằng ông lão Man Di
Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà. Thời Tần, Đà làm quan uý ở Nam Hải. Khi Tần mất, Đà chiếm Quế Lâm, Tượng quận, tự xưng Nam Việt Vũ Vương. Hán Cao Tổ lên ngôi, sai Lục Giả xuống phong Đà làm Nam Việt Vương. Sau Đà chiếm mấy ấp ở Trường Sa, tự xưng Nam Việt Vũ Đế. Thời Hán Văn Đế, lại sai Lục Giả xuống dụ. Đà dâng thư tạ tội, bỏ hiệu đế, giữ chức phiên thần.
Bất tiến hành 不進行 • Thuyền không tiến lên được
不進行
羽師涕泣憑夷怒,
五指山前水暴注。
白波終日走蛇龍,
青山兩岸皆豺虎。
舟楫紛紛同一流,
下灘人喜上灘愁。
百丈長繩挽不進,
舟中年少皆白頭。
Bất tiến hành
Vũ sư thế khấp Bằng di nộ,
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú.
Bạch ba chung nhật tẩu xà long,
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ.
Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu,
Há than nhân hỉ thướng than sầu.
Bách trượng trường thằng vãn bất tiến,
Chu trung niên thiếu giai bạch đầu.
Dịch nghĩa
Thần mưa khóc thần nước giận,
Vùng núi Ngũ chỉ nước trút rào rào.
Sóng bạc suốt ngày cuồn cuộn như rắn rồng,
Núi xanh hai bờ tựa cọp beo.
Thuyền bè rộn rịp cùng một sông
Đi xuôi mừng rỡ, ngược dòng sầu bi
Trăm trượng dây dài kéo không chuyển,
Trong thuyền người trẻ cũng bạc cả đầu.
Tam Liệt miếu 三烈廟 • Miếu ba liệt nữ
三烈廟
蔡女生雛卓女奔,
落花飛絮不勝言。
千秋碑碣顯三烈,
萬古綱常屬一門。
地下相看無愧色,
江邊何處吊貞魂。
清時多少鬚如戟,
說孝談忠各自尊。
Tam Liệt miếu
Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn,
Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn.
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
Địa hạt tương khan vô quí sắc,
Giang biên hà xứ điếu trinh hồn?
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn!
Dịch nghĩa
Nàng Thái sinh con, nàng Trác theo trai
Hoa rụng tơ bay nói sao cho xiết
Bia kệ nghìn năm tôn thờ ba người đàn bà tiết liệt
Cương thường từ ngàn xưa gom chung vào một nhà
Dưới đất nhìn nhau, sắc mặt không hổ thẹn
Bên sông, đâu nơi viếng hồn trinh?
Thời bình lắm kẻ vểnh râu như ngọn kích
Nói hiếu bàn trung đều để suy tôn mình
Nguyên chú của tác giả viết: “Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà Minh (1506-1521), Lưu Thời Cửu đi nhậm chức, thuyền tới nơi lập miếu thì bị bọn cướp giết. Cả vợ, thiếp, và con gái đều không chịu nhục, nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia Tĩnh (1522-1526) được biểu dương và lập miếu thờ.”
Quế Lâm Cù Các Bộ 桂林瞿閣部 • Ông Cù Các Bộ ở Quế Lâm
桂林瞿閣部
中原大勢已頹唐,
竭力孤城控一方。
終日死中心不動,
千秋地下髮猶長。
殘明廟社多秋草,
全越山河盡夕陽。
共道中華尚節義,
如何香火太凄涼。
Quế Lâm Cù Các Bộ
Trung nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Kiệt lực cô thành khống nhất phương.
Chung nhật tử trung tâm bất động,
Thiên thu địa hạ phát do trường
Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,
Toàn Việt sơn hà tận tịch dương
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương.
Dịch nghĩa
Triều đại lớn Trung nguyên đã suy xụp,
Ông sức tàn vẫn nhất định giữ thành.
Ngày chót sắp chết tâm không thay đổi,
Ngàn năm dưới lòng đất tóc vẫn dài.
Miếu xã nhà tàn Minh đầy cỏ thu,
Vùng đất núi Việt nhuốm bóng chiều tà.
Dân Trung Hoa nghe nói trọng tiết nghĩa,
Sao đây hương khói tiêu điều thảm thê.
Cù Các Bộ: Cù Thức Trĩ, tự Khởi Điền, người đời Minh, làm quan được tới chức Lâm Quế Bá. Lúc Mãn Châu chiếm Trung Quốc, vua Minh chạy vào Vân Nam, ông ở lại giữ thành Quế Lâm (Quảng Tây). Thành bị vây hãm,Thức Trĩ chết theo thành.
Quế Lâm công quán 桂林公館 • Công quán Quế Lâm
桂林公館
荒草惹流螢,
閒階夜氣清。
寒燈留鬼影,
虛帳聚蚊聲。
牢落春無分,
蹉跎老自驚。
城頭聞畫角,
自語到天明。
Quế Lâm công quán
Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,
Nhàn giai dạ khí thanh.
Hàn đăng lưu quỷ ảnh,
Hư trướng tụ văn thanh.
Lao lạc xuân vô phận,
Sa đà lão tự kinh.
Thành đầu văn hoạ giốc,
Tự ngữ đáo thiên minh.
Dịch nghĩa
Trong đám cỏ hoang đom đóm bay
Ngoài thềm vắng, hơi đêm trong mát
Ðèn lạnh giữ lại bóng ma
Màn thưa tiếng muỗi vo ve
Lo buồn xuân không đến với mình
Lần lữa thấy cảnh già giật mình kinh sợ
Nghe tiếng tù và vọng từ đầu thành
Nói chuyện một mình cho đến sáng
Đề Vi, Lư tập hậu 題韋盧集後 • Đề sau tập thơ của hai ông Vi, Lư
題韋盧集後
詩人不得見,
見詩如見人。
大山興寶藏,
獨鶴出風塵。
針芥易相感,
越胡難似親。
三唐千載後,
寂寞久無聞。
Đề Vi, Lư tập hậu
Thi nhân bất đắc kiến,
Kiến thi như kiến nhân.
Đại sơn hưng bảo tạng,
Độc hạc xuất phong trần.
Châm giới dị tương cảm,
Việt Hồ nan tự thân.
Tam Đường thiên tải hậu,
Tịch mịch cửu vô văn.
Vi: tức Vi Ứng Vật (755-832), nhà thơ Đường chịu ảnh hưởng của Đào Tiềm và Vương Duỵ.
Lư: Lư Chiếu Lân (637-690?), và Lư Đồng đều là nhà thơ Đường có tiếng. Ở đây không biết là tác giả muốn nói nhà thơ họ Đường nào.
Quá Thiên Bình 過天平 • Qua sông Thiên Bình
過天平
分水山前二水分,
天平水面似磷峋。
一杯空奠臨江廟,
千古誰為砌石人。
半嶺溪泉皆入楚,
滿洲碑碣已非秦。
舟人爭指家鄉近,
惱殺殊方老使臣。
Quá Thiên Bình
Phân thủy sơn tiền nhị thuỷ phân,
Thiên Bình thuỷ diện tự lân tuân.
Nhất bôi không điện lâm giang miếu,
Thiên cổ thuỳ vi xế thạch nhân.
Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở,
Mãn châu bi kiệt dĩ phi Tần.
Chu nhân thanh chỉ gia hương cận,
Não sát thù phương lão sứ thần.
Dịch nghĩa
Trước núi Phân Thủy chia hai dòng nước
Mặt sông Thiên Bình gợn như đá lởm chởm
Một chén rượu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông
Nghìn xưa ai là người xếp đá (xây đền)
Khe suối của nửa núi đều chảy vào đất Sở
Đầy bãi, bia đá hết còn thuộc Tần
Nhà thuyền tranh nhau chỉ trỏ quê nhà họ gần đó
Làm não lòng muốn chết được ông sứ thần già ở phương khác đến
Thiên Bình: theo câu đầu thì Thiên Bình là một trong hai con sông ở trước núi Phân Thủy. Núi này thuộc tỉnh Hồ Nam. Câu phía dước nói đến Tần, Sở, người viết chú thích đoán vậy chắc thuộc tỉnh Hồ Nam.
Vọng Tương Sơn tự 望湘山寺 • Ngắm cảnh chùa Tương Sơn
望湘山寺
古佛無量唐世人,
湘山寺裡有真身。
真身一夜燼炎火,
古寺千年空暮雲。
五嶺峰巒多氣色,
全州城郭在風塵。
孤舟江上憑欄處,
一帶松杉半夕曛。
Vọng Tương Sơn tự
Cổ Phật vô lường Đường thế nhân,
Tương Sơn tự lý hữu chân thân.
Chân thân nhất dạ tẫn viêm hoả,
Cổ tự thiên nhiên không mộ vân.
Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc,
Toàn Châu thành quách tại phong trần.
Cô chu giang thượng bằng lan xứ,
Nhất đái tùng sam bán tịch huân.
Dịch nghĩa
Phật Vô Lượng xưa là người nhà Đường
Trong chùa Tương Sơn còn để lại chân thân
Một đêm chân thân bị lửa cháy hết
Chùa cổ nghìn năm phủ mây chiều
Núi đèo Ngũ Lĩnh nhiều khí sắc
Thành quách Toàn Châu ngập gió bụi
Dựa lan can trên chiếc thuyền lẻ loi trên sông
Trong dãy cây tùng cây sam, một nửa đã nhuốm bóng chiều
Nam trung tạp ngâm là một trong những tập thơ chữ hán nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Du. Nội dung của tập thơ với nhiều chủ đề khác nhau là sự miêu tả những cảnh tượng, con người ông gặp trên đường đi trong chuyến đi sứ sang trung quốc.
Xem tiếp: Nguyễn Du với tập thơ Bắc hành tạp lục 北行雜錄 P3
Theo Thuvientho.com