Nhà thơ Tản Đà có nhiều tập thơ nổi tiếng và được đánh giá rất cao. Đó cũng thể hiện được tài năng và phong cách thơ ca của nhà thơ này. Bởi sau nhiều thăng trầm biến cố trong cuộc sống, các nhà thơ, nhà văn đương thời đã nhìn nhận lại những cống hiến của Tản Đà trên văn đàn. Và ông cũng được đánh giá là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ nối tiếp. Đó là quá trình ra đời và phát triển của Thơ Mới. Để hiểu thêm về nhận định này chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn các bài thơ trong hai tập Tây Thi và Thiên Thai. Cùng đón đọc nhé!
Bán rau – Tập Tây Thi
Ngô vương được Tây Thi cùng Trịnh Đán, dựng đài Cô Tô, cung Quán Nhai, ngày đêm mê chơi, hoang dâm vô độ. Sau quân Việt sang đánh Ngô, Ngô bị tàn phá.
Một vai đào bán rau, đi qua tàn cung vua Ngô, đứng ngậm ngùi nói:
I
Trái núi nọ mặt trời ngang xế,
Đầu ghềnh kia mây kéo đen rầm.
Trông tàn cung ngao ngán trong tâm,
Cảm cố quốc lâm râm hạt luỵ.
Vãn:
Hạt luỵ lâm râm cố quốc,
Giấc mê hồn chẳng thuốc mà ra.
Câu – Ngô vẫn nước non nhà
(Ngô vương ơi!)
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
Vãn xong quăng bỏ gánh rau, hoá điên. Hát giọng điên:
Đức ông ăn mặn,
Gà thiến đi tu.
Nhởn nhơ cô thoã lên chùa.
A Di Đà Phật, Nam mô, đắt hàng.
Chuyến đò ngang, mình sau ta trước,
Kiếp tài tình, mặt nước chân mây.
Sông kia núi nọ còn đây,
Nực cười ông vua Trụ say mê nghiêng thành.
Thành nghiêng quán đổ tan tành,
Trước sân con hươu rỡn, trong mành con rện sa.
Cành mai quả bẩy quả ba,
Ới đàn con chim thước bay ra lạc loài.
Lạc loài phấn nhạt hương phai,
Cám thương ai hữ con người, ới hỡi, răng đen.
II
Ào ào trống gióng,
Phơi phới cờ bay,
Hay hỡi là hay,
Lạ ơi là lạ!
Nửa đường rụng tía rơi hồng,
Cảm thương con chim nhạn vợ chồng Bắc Nam.
Mịt mù khói toả động Lam,
Triết vương khuất mặt, cổ am lạnh lùng.
Tơ lý hồng, tơ lý hồng, hồng tơ hồng tơ lý hồng,
Phương này có sông, sông Nhị Hà, sông Nhị Hà,
Sóng kêu dồn dã.
Phương này có núi, núi Ba Vì. Núi Ba Vì
Khuất ngả lầu tây.
Đấy mong chồng, cho đây nhớ vợ!
Mảnh chung tình phân trở đôi nơi.
Đôi nơi chung dưới một trời,
Lúc sầu, lúc oán, lúc giận, cười, (ới hỡi) lại tươi.
Giặt lụa, hái rau – Tập Tây Thi
Khi Tây Thi, Trịnh Đán còn ở nhà quê Chữ La; Tây Thi cầm tấm lụa đào ra ngồi giặt ở suối, Trịnh Đán thời ra quanh bờ suối hái rau, cùng nhau bắt vần mà hát:
Tây Thi hát giọng kể thư Sài Gòn,
Trịnh Đán thời bắt sang Nam Xuân.
Tây Thi:
Thân em như tấm lụa đào,
Duyên tơ đã chắp nhuộm vào thêm tươi.
Trịnh Đán:
Một giòng suối mát thảnh thơi,
Lơ thơ ria đá một vài ngọn xanh.
Tây Thi:
Nao nao giòng nước uốn quanh,
Thướt tha lá lụa, rung rinh bóng người.
Trịnh Đán:
Rau leo quanh quẩn chân đồi,
Suối xa xa đến tận trời, ai hay?
Tây Thi:
Kìa trông con bướm xa bay,
Ấy ai tô phấn cho mày, bướm ơi!
Trịnh Đán:
Tung tăng đàn cá giong chơi,
Giữa giòng một cánh huê rơi nhẹ vèo.
Trường đình tiễn biệt – Tập Tây Thi
Lớp này là lúc Phạm Lãi đem Tây Thi, Trịnh Đán sang cống Ngô mà vua Câu Tiễn để tiễn biệt ba người.
Phạm Lãi, Tây Thi, Trịnh Đán và quân lính ra một bên.
Câu Tiễn cùng phu nhân, mẹ Tây Thi, mẹ Trịnh Đán cùng ra một bên.
Câu Tiễn nói:
Này như đại phu ơi!
Nước Ô Việt ta mà có sự cống Ngô như thế này:
Nỗi gia quốc nghĩ càng đau dạ.
Ta sai quan Đại phu đi thời:
Đạo chủ thần, ngươi chớ từ nan.
Thôi thôi, ta tiễn Đại phu ra tới đây,
Trường đình nửa khắc hợp tan,
Mà làm cho Quả nhân đây,
Nước mắt hai hàng lã chã.
Gánh ly tình đôi ngả sầu thương.
Câu Tiễn phu nhân vãn:
Gian nan vận nước dậm trường,
Mối sầu theo một bước đường một xa.
Câu Tiễn cùng Phu nhân mỗi người cầm một chén rượu đưa cho Phạm Lãi và cùng vãn:
Nước non một chén quan hà,
Đường xa muôn dậm, châu sa mấy hàng.
Phạm Lãi hai tay cầm lấy hai chén rượu, một chân quỳ mà uống, rồi vừa lạy, vừa vãn:
Cúi đầu trăm lạy quân vương,
Cơn sầu phá tấm gan vàng chia hai.
Mẹ Tây Thi, mẹ Trịnh Đán trông vào hai con cùng vãn:
Từ đây góc bể bên trời,
(Con ơi!)
Con đi xa cách quê người chiếc thân.
Tây Thi, Trịnh Đán cùng vãn:
Muôn vàn từ giã quân, thân,
(Mẹ ơi!)
Thân con biển Sở sông Tần quản bao?
Phạm Lãi nói:
Xin tâu cùng Quân vương,
Hai cốc rượu đã cam lòng biệt,
Một mũi gươm xin cắt mối sầu.
Tâu Quân vương trở lại cung lầu
Để thần hạ tận lao quốc sự.
Câu Tiễn cùng Phu nhân vào.
Mẹ Tây Thi, mẹ Trịnh Đán cùng hai con vãn:
Roi câu thẳng gióng dậm trường,
(Quân vương ơi!)
Trượng phu khi cũng hai hàng chứa chan.
Tây Thi, Trịnh Đán cùng vãn:
Ngại ngùng muôn dậm quan san,
(Mẹ ơi!)
Hiếu trung hai gánh khôn đền cả hai.
Phạm Lãi vãn:
Giang san đèo nặng hai vai,
Cờ xa ai cắm lưng trời con con.
Tây Thi, Trịnh Đán cùng vãn:
Những là lạ nước lạ non,
Ngô thành vừa một tháng tròn tới nơi.
Hai bà mẹ lưu luyến, Phạm Lãi phải nói để giải tình rồi hai bà mẹ cùng vào. Phạm Lãi đem Tây Thi, Trịnh Đán cùng quân lính đăng trình. Phạm Lãi nói:
Hồng nhật trung thiên,
Hoàng lô mãn địa,
Tây giang đông tẩu,
Bắc nhạn nam phi.
Phong thê thê,
Vân mạn mạn;
Hành hoãn hoãn,
Chí mang mang.
Hái thuốc – Tập Thiên Thai
(Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi hái thuốc cùng hát điệu “Đường trường”)
Huề thủ anh ơi, đồng hành,
Đôi chúng ta nay huề thủ đồng hành.
Đoạn kim phạt mộc nhất tình cái chỗ dị hương.
Vật sâm nhung anh trải nếm đã thường,
Chán mùi nhân thế tìm đường thuốc tiên.
Con đường xa mà đã có bạn hiền,
Vén mây vạch đá ta liền có nhau.
Trông non xanh, anh ơi! xanh ngắt một mầu,
Chim kêu, vượn hót, huê rầu, rồi lại lá bay.
Cái cảnh thần tiên chưa dễ mà ai hay,
Thiên thai trông tỏ lối này phải chưa?
Tấm tình riêng ta những ước từ xưa:
Đoan dương hái thuốc mới bây giờ cùng nhau.
Chốn nhân gian trăm tuổi bạc đầu,
Trường sinh có phúc ngõ hầu ta gặp tiên.
Mừng đám cưới – Tập Thiên Thai
Hai tiên nữ cùng Lưu Thần, Nguyễn Triệu kết duyên, các bạn tiên đem đào lại mừng cùng hát điệu “Thể loan”)
Tay tiên một quả tiên đào,
Nửa dâng mừng chị, nửa chào gập anh.
Gió đông phong đánh rợn suối tình,
Đưa đường trỏ nẻo để đôi mình lại đây.
Rượu bồ đào chưa nhắp đã say,
Trăm hoa giao kết một cây đèn trời.
Chốn tiên cung đông mặt họp nhờ,
Nợ trần, luỵ thế, mặc người nhân gian.
Cảnh Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn,
Trăm nghìn êm ấm, muôn vàn ái ân.
Chúc cho đôi chữ trường xuân,
Rêu phong động biếc, đào ngăn bụi hồng.
Tống biệt – Tập Thiên Thai
(Lưu, Nguyễn xin về, hai tiên nữ tống biệt)
Hai tiên nữ nói: Hai chàng nay đã nhớ đến quê hương mà muốn về, chúng tôi nghĩ giữ lại làm sao cho tiện! Vậy xin kính đưa ra tới cửa động này mà có nhời thưa rằng:
Hai chàng,
Bởi tiền thế nhiều phần phúc đức,
Nên ngày nay kết bạn tiên cung.
Nhưng nợ trần vướng vít gỡ chưa xong,
Xui cõi tục mơ mòng còn tưởng nhớ!
Nay đến lúc kẻ đi người ở,
Thôi từ nay vĩnh cách tràng ly.
Ngãi trăm năm còn một khúc ca thi,
Dâng quân tải để làm nghi tống biệt.
Ngâm: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Trên đây là những bài thơ trong tập Tây Thi và Thiên Thai của Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về khả năng và phong cách sáng tác văn chương của ông. Hơn nữa trong thơ của ông cũng chất chứa các quan niệm, góc nhìn về nhân tình thế thái. Bên cạnh các chùm thơ này ông còn dành thời gian cho các chùm thơ dịch xuất sắc. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng tìm hiểu và cảm nhận thơ của ông bạn nhé!
Theo Thuvientho.com