Nhà thơ Tản Đà có một tâm hồn và năng khiếu văn chương sâu sắc. Ngay từ khi còn nhỏ điều này đã được thể hiện. Sau này khả năng của ông ngày càng được mài dũa và có nhiều sáng tác nổi bật. Chính vì vậy sau những biến cố trong cuộc sống ông cũng đã được nhìn hận và đánh giá như là một ông Thánh của làng thơ. Và một số tác giả khác cũng đa có những bài viết bình về những đóng góp của ông. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài thơ hay của ông nhé!
Khuyên người giúp dân lụt
Này những ai, này những ai
Ai có nghe rằng việc thuỷ tai
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông, cùng tỉnh Thái
Ruộng ngập nhà chìm, thây chết trôi
Thây chết trôi, thôi thời thôi
Ai người tìm vớt lúc thiên tai!
Những mạng chết ai đành đã thế
Người còn sống sót nghĩ thương ôi!
Nghĩ thương ôi! ai những người
Trời làm tai vạ biết kêu ai
Đói thời chịu đói, rét chịu rét
Đầy vơi mặt nước, lệ đầy vơi
Lệ đầy vơi, tình chia phôi
Bồng bế con thơ bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu
Cha còn sống đó, con bồ côi
Con bồ côi, tình thương ôi!
Trời làm tai vạ phải chia phôi
Sinh con ai nỡ đang lòng bán
Thương con nào biết lấy gì nuôi?
Lấy gì nuôi, lúc thiên tai
Chẳng có ngô mà chẳng có khoai
Miếng ăn chẳng có, con nhìn bố
Nông nỗi như kia đáng ngậm ngùi!
Đáng ngậm ngùi, ai hỡi ai!
Ăn sung mặc sướng, ngồi thảnh thơi
Nghĩ kẻ cơ hàn nơi nước lụt
Như ai khi cũng dạ đầy vơi
Dạ đầy vơi thương cùng ai
Thương người khổ hại lúc thiên tai
Hai chữ đồng bào ân nghĩa nặng
Đùm nhau lành rách, hỡi ai ơi!
Hỡi ai ơi! là những người
Ông trên mạn ngược, bà vùng xuôi
Có nhiều cho nhiều, ít cho ít
Cứu kẻ bần dân lúc thuỷ tai
Lúc thuỷ tai, này ai ơi!
Quý tiếc yêu thương lấy giống nòi
Con cháu Rồng Tiên khi đã bĩ
Đừng nên rẻ rúng, bỏ nhau hoài!
Khuyên thanh niên học hành
Ta sinh ra đời cạnh tranh
Muốn sinh tồn theo bước văn minh
Ngày xuân đương độ tuổi xanh
Ta khuyên nhau cố công học hành
Giời cho ta sẵn thông minh
Chí chuyên cần tuổi xanh chẳng phụ
Làm tài trai vẫy vùng vũ trụ
Bước đường đời muôn dậm phong vân
Học đường ta hãy để chân
Đi xa ta bước tới gần
Hội gió mây xoay vần mấy lúc
Bực tài danh ta cố học mà nên
Thanh niên, hỡi bạn thanh niên!
Cùng nhau ta cố gắng để tiến lên cho kịp người
Ít câu ta hát vui chơi
Anh em ghi nhớ mà vui học hành
Chớ quên cái chí đua ganh
Kiếp phong trần
Cái kiếp phong trần ngán biết bao!
Xuân lan thu cúc
Đông liễu tây đào
Hoá công độc địa làm sao
Mà đem bạc mệnh buộc vào hồng nhan!
Dấm chua dầm tưới cho lan
Lửa nồng cúc đã tro tàn sắc kim
Bể sâu cành liễu buông chìm
Hoa đào ngọn nước, con chim phụ tình
Thế gian lắm sự bất bình
Muốn lên hỏi lại giời xanh nỡ nào!
Xuân lan thu cúc
Đông liễu tây đào
Cái kiếp phong trần ngán biết bao!
Lại tương tư
Thơ đề ba bức mực chưa phai
Nay lại tương tư, lại nhớ ai!
Cái giống đa tình ta có một
Mà người tri kỷ đấy không hai
Đêm xuân những não tơ tầm rối
Ngày hạ thêm thương tiếc quốc dài
Vắn vủn đời người thương, não, nhớ
Đầu ai sao trách nhuộm hồn mai
Lấy chồng nghèo
(Sẩm)
Chồng (thì) nghèo, vô duyên vô phúc
Em múc phải đức ông chồng (thì) nghèo
Hột hoa chẳng có (mà) xu hào thôi lại cũng không
Giận nhân duyên em dứt đứt (cái) sợi tơ hồng
Tìm nơi ấm cật no lòng mà chơi
Ai chê, ai cứ, ai cười!
Lo thời khí
Dịch khí năm nay đã đến rồi
Láng giềng nghe đã một đôi nơi
Có tiền sớm liệu mà cân thuốc
Vô phúc sau này khỏi quét vôi
Kinh tế khó khăn xoay hết đất
Văn chương rẻ ế bán xa giời
Tri âm ai đó mau hồ giấy
Kẻo đến dư đồ lại tả tơi
Lưu Nguyễn vào Thiên Thai
Xưa đời Hán ở bên Trung Quốc
Tiết Đoan Dương hái thuốc là ai?
Lưu Thần, Nguyễn Triệu hai người
Rủ nhau vào núi Thiên Thai một ngày
Đường luẩn quẩn đông tây chẳng biết
Lương mang theo đã hết, không còn
Đào đâu, trông thấy đầu non
Bảo nhau lên hái ăn ngon đỡ lòng
Xuống dưới núi thấy giòng nước chẩy
Hột cơm vừng bỗng nẩy đâu ra
Cùng nhau vui sướng bao là
Rằng đây, hẳn nữa, không xa có người
Lại qua tới một nơi đầu núi
Thấy hai cô con gái tuyệt trần
Gọi ngay Nguyễn Triệu, Lưu Thần
Hỏi sao đến muộn cho phần chờ lâu
Biết nhau mới, cùng nhau như cũ
Theo hai cô mời rủ lại nhà
Nhà lan huệ, áo lụa là
Giường màn sẵn đó, ngọc ngà thiếu chi!
Khắp sau trước nhìn đi ngoảnh lại
Ngoài hai cô con gái còn ai?
Toàn không một kẻ con trai
Bạn trai chỉ có hai người là ta
Ngồi một lát, bưng ra cơm rượu
Cơm vừng thơm khác kiểu cơm thường
Nem dê, ngon béo lạ thường
Rượu ngon chuốc chén, hai chàng cùng xơi
Khách đâu đến mấy người bạn gái
Mỗi người đem dăm trái đào tơ
Dâng đào vui vẻ chào thưa:
Mừng hai rể mới bây giờ kết duyên
Khắp chúng bạn, nhạc tiên đem gẩy
Buổi chiều hôm ai nấy lại về…
Hai chàng ở lại ngủ nghê
Động phòng làm lễ, phu thê vui vầy
Nằm quên cả là chầy hay chóng
Tính hôm mai chừng đúng nửa năm
Nửa năm xuân khí êm đềm
Bên tai trăm tiếng con chim gợi sầu
Lưu với Nguyễn cùng nhau thơ thẩn
Nhớ quê hương lẩn thẩn xin về
Hai cô thương xót trăm bề
Rằng: “Hai anh đã muốn về thì thôi
Thật nhờ có phúc đời để lại
Cho các anh được tới nơi đây
Trần gian chưa hết tội đầy
Vui cùng tiên nữ mà rầy xin đi”
Mở cửa động ca thi tiễn khách
Thôi từ đây xa cách chư tiên
Nguyễn, Lưu hai gã bạn hiền
Cùng nhau lại trở lại miền thế gian
Xa chẳng mấy, đến bên đường cái
Về đến làng không một ai quen
Bấy đời con cháu lớn lên
Chỉ nghe cụ hái thuốc tiên không về
Buồn lúc ấy không quê không quán
Nỗi bơ vơ chán nản cõi đời
Thiên Thai trở lại tìm ai
Thôi thời cửa động đã cài then hoa
Mắng con quốc tiếc xuân
Gởi cho các chiến sĩ tại Đông Kinh nghĩa thục
Ai khuyên con quốc nó đừng kêu,
Xuân đã qua rồi cứ gọi theo…
Sao cứ lo co trong bụi rậm,
Lại còn eo óc với giời cao!
Cỏ non nước lục chờ mi mãi,
Liễu yếu đào tơ chán kẻ yêu.
Đen đủi chẳng nên năn nỉ phận,
Mặc cơn mây sớm hạt mưa chiều.
Mắng con quốc tiếc xuân
Ai khuyên con quốc nó đừng kêu,
Xuân đã qua rồi cứ gọi theo…
Sao cứ lo co trong bụi rậm,
Lại còn eo óc với giời cao!
Cỏ non nước lục chờ mi mãi,
Liễu yếu đào tơ chán kẻ yêu.
Đen đủi chẳng nên năn nỉ phận,
Mặc cơn mây sớm hạt mưa chiều.
Mậu Dần xuân chúc
Mưỡu:
Đông qua tiết lại xuân sang,
Sửu qua, năm mới sang Dần là nay.
Chúc mừng năm mới vui thay,
Dân ta muôn việc ngày ngày hơn xưa.
Nói:
Ngã Việt tự thiên niên cố quốc,
Bức dư đồ tự Bắc mở vào Nam.
Giống Lạc Hồng sinh trưởng mỗi ngày thêm,
Gió xuân thổi năm năm càng nẩy nở.
Mấy vần ngẫu hứng
Tiếng quốc đã khan
Ruột tằm thêm rối
Ngày tháng như trôi năm chẳng đợi
Thoi oanh tơ liễu dệt sầu xuân
Ngày tháng trải bao cuốn lịch?
Nước non cách mấy nhịp cầu?
Xuân xanh xuân vẫn nguyên mầu
Đầu xanh ai có bạc đầu chăng ai?
Tài tình gương sáng treo cao
Qua đường khách có trông vào mà kinh?
Đời người như giấc chiêm bao
Trơ trơ là cái hoa đào gió đông!
Rồng Tiên nòi giống
Hoa gấm giang san
Con đường tiến thủ gian nan
Đường xa nghĩ nỗi chứa chan bao tình
Một bức thư của người nhà quê
Bốn phương bay mỏi cánh hồng
Đường mây bãi tuyết chán lòng tha hương
Tản Viên bóng gác tà dương
Gió thu giục khách lên đường về quê
Trùng dương rót chén hoàng huê
Năm đi tính lại năm về ba ba
Bắc, Nam bao độ vào ra
Tình duyên gặp gỡ này là những ai?
Còn về còn nhớ đến người
Còn duyên văn tự, còn nhời nước non
Biết nhau từ “Khối tình con”
Quen nhau từ thủa tóc còn đương xanh
Yêu nhau sáu tháng “Hữu thanh”
“Tản Đà thư điếm” Hà thành nối duyên
Nước non đã nặng nhời nguyền
“An Nam tạp chí” con thuyền lênh đênh
Phong ba đành gạt “Khối tình”
Tám năm tay lái một mình ngược xuôi
Quản chi sông rộng, doành khơi
Buồm không thuận gió, ai ơi cũng đành
Bẽ bàng tóc bạc rừng xanh
Thôn quê nay với đô thành khác xa
Phòng văn ai kẻ vào ra
Sương thu bốn giậu, giăng tà nửa hiên…
Một đêm ngủ nhà người mán Xiềng ở Bảo Hà (Lao Kay)
Ào ào tiếng suối bên tai
Lợn kêu eng éc bên ngoài cửa phên
Đầu nhà sương xuống từ trên
Vách phên gió lọt bốn bên lạnh lùng
Mừng bạn cưới vợ cho con trai
(Tôi có một ông bạn thân là ông Tú Đặng Đức Tô trước cùng làm công việc thư cục, ông trông nom về việc nhà in. Quyển Kinh Thi xuất bản chính ở hồi ấy. Nhân ông cưới vợ cho người con trai trưởng là một viên chức ở sở Điện báo, Hà Nội nên tôi có câu đối mừng)
Điện tín tin truyền: ông Tú bây giờ nên cụ cố;
Quan thư thơ vịnh: Kinh Thi còn nhớ lúc nhà in.
Mừng khuyên ai cô dâu
Mừng ai gối phượng chăn loan
Khuyên ai gánh lấy giang san nhà chồng
Chúc ai tay bế tay bồng
Con Tiên rồi lại cháu Rồng về lâu
Mong ai con cháu mai sau
Khôn ngoan mở mặt năm châu cùng người
Quốc văn có một đôi lời
Đăng trương tân báo gửi người tân hôn
Mừng xuân
(thơ mới hai vần)
Ngày đi, tháng đi, năm đi dần
Hết ngày, hết tháng, hết năm trước
Qua sang năm mới lại là xuân
Gió giăng thề nguyện xuân y ướcTin xuân truyền bá khắp xa gần
Oanh én cỏ hoa mừng đón rước
Oanh gọi đầu cành, hoa cười xuân
Cỏ rợn chân giời, én liệng nướcVạn vật đắc ý, người thanh tân
Trẻ bé đua vui, già hưởng phước
Mừng xuân ta có thơ hai vần
Xuân sang năm khác, thơ cũng khácThơ này kính chúc toàn quốc dân
Một năm tiến bộ lại một bước
Năm hết hữu cảm
Đời người lo mãi biết bao thôi
Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi!
Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt
Tài tình một gánh nặng bên vai
Hợp tan tri kỷ người trong mộng
Rộng hẹp dung thân đất với trời!
Sương phủ cành mai năm giục hết
Ngày xuân con én lại đưa thoi
Ngày xuân chúc quốc dân
Mưỡu:
Trời Nam cành lá la đà
Lạc Hồng cây cỗi xuân già càng xuân
Ngày xuân chúc nước mừng dân
Ba kỳ Nam, Bắc mười phân phú cường
Nói:
Bính Tý hội nguyên kim dĩ thuỷ
Mối sơn hà cũ kỹ bốn nghìn năm
Đường văn minh muôn dặm xa xăm
Đông, tây, bắc người nam cao cất bước
Quân bất kiến: Phi Luật Tân nhi kim Mỹ châu độc lập quốc
Hựu bất kiến: Mãn Châu, Hoa Bắc hà bi thương
Thời hưng vong bĩ thái là thường
So mới biết chữ “đại” với chữ “cường” không hạn lệ
Việc trước mắt năm châu là thế
Cuộc trần hoàn dâu bể, bể dâu
Đường văn minh nào có hạn ai đâu
Muốn hạnh phúc, chữ tự cầu ta phải biết
Hồng Lạc nhi tôn thiên vị tuyệt
Việt Thường hoa thảo nhật câu tân
Chén rượu đào nâng rót buổi ngày xuân
Chúc tổ quốc, quốc dân nghìn vạn kỷ
Bính Tý hội nguyên kim dĩ thuỷ
Mối sơn hà cũ kỹ bốn nghìn năm
Năm năm, xuân mới trời Nam
Ngày xuân nhớ cảnh nhớ người xưa
Giời xuân hoa thắm non xanh
Lơ thơ tóc trắng, một mình vào ra
Bắc Nam nhớ bước quan hà
Xa xa ngàn dậm đâu là cố nhân?
Ngồi nhớ lại khoảng xuân Đinh Mão
Báo An Nam bại đảo tiền phong
Nước non khơi diễn nghìn trùng
Dư đồ một bức ôm lòng ra đi
Ninh Bình hết Bắc kỳ địa giới
Qua Thanh Hóa, vừa tối vô Vinh
Một đêm ngủ lại Hoan Thành
Nẻo sang Hà Tĩnh: sông Gianh non Hồng
Nước núi Sót mát lòng ưu ái
Trận mưa thu đầm tưới quan san
Cùng nhau bạn hữu chu toàn
Đông Hà xe hoả băng ngàn vô Kinh
Phong cảnh đất Hương, Bình lưu luyến
Đài Thuận An cất chén trong khơi
Kinh thành đã trải đòi nơi
Hải Vân vượt ải vào chơi Ngũ Hành
Đạo cổ tích gần quanh xứ Quảng
Đô vua Chiêm gần quãng Đồng Dương
Tường trơ đá đổ tan hoang
Mấy con voi sứt nghênh ngang chầu trời
Cách tỉnh lỵ bốn mươi cây số
Phạm với Trà hai họ còn như
Ấy giòng vua tướng Hời xưa
Nước non để lại bây giờ giống Chiêm
Thú Đà Nẵng chơi xem qua trải
Đường vô Nam: Quảng Ngãi, Qui Nhơn
Xe hơi thẳng dậm hồng trần
Sông Cầu rồi nữa tới dần Nha Trang
Đường thiên lý bước sang xe hoả
Bạn Trung kỳ từ giã đôi khi
Còi xe dứt khúc biệt ly
Biên Hoà, Thủ Đức coi thì đã Nam
Mãi đến Tý mười năm đã đúng
Giời còn xuân, ai cũng chưa già
Nào đâu cảnh khuất, người xa?
Non xanh hoa thắm mà ta một mình!
Xuân hồ hết, mối tình vướng vít
Mượn bút hoa ngồi viết nên thơ
Nước non còn nhớ người xưa?
Bạn tình còn nhớ bây giờ cố nhân?
Ngày xuân nhớ xuân
Bính Tý sang, mà Ất Hợi qua
Đổi thay cũ mới khắp gần xa
Vui xuân thiên hạ bao nhiêu kẻ
Ngồi nhớ xuân xưa hoạ có ta
Xuân xưa nhớ lúc ta lên năm
Vỡ lòng đi học, phố thành Nam
Học sách ba chữ, thơ năm chữ
Đến sách Dương Tiết vừa hết năm
Xuân xưa đến lúc ta lên sáu
Học sách Luận Ngữ đọc láu táu
Ở nhà Hà Nội, phố Hàng Bông
Bốn tám, đến nay còn nhớ số
Cuối năm lên sáu ta về Khê
Đà giang, Tản lĩnh, nước non quê
Sách nho học Truyện, lại học Sử
Quốc ngữ cũng mới làu a b
Xuân xưa bẩy, tám, chín, mười tuổi
Văn chương ta mới làm câu đối
Đến xuân mười một, học làm thơ
Xuân mười bốn tuổi, văn đủ lối
Đà giang nước chẩy, Tản mây bay
Mười bốn xuân qua trải tháng ngày
Hết xuân mười bốn từ Khê Thượng
Về học phủ Quảng, gần Sơn Tây
Quảng Oai vừa trải bốn xuân dư
Xuân, mỗi ngày cao, học cũng như
Cuối xuân mười chín, ra Hà Nội
Học trường Quy thức, đường Gia Ngư
Hà thành qua trải một đôi xuân
Học chẳng cao thêm cũng rộng dần
Mới học Pháp văn từ lúc ấy
Ấy năm Thành Thái sang Duy Tân
Xuân xưa đến tuổi ta hai mươi
Phủ Vĩnh cầm thư quẩy gánh chơi
Hán học, Pháp văn, kiêm giảng tụng
Ba gian nhà cỏ bóng giăng soi
Sang xuân hăm mốt học đi thi
Thi tại trường Nam, lọt một kỳ
Kỳ luận hỏng vì vua Hạ Võ
Hỏng thi càng học để đi thi!
Xuân hăm bốn tuổi thi ấm sinh
Tên đỗ thứ ba đăng nhật trình
Hậu bổ thi luôn, hỏng vấn đáp
Chữ Pháp thất bại trường công danh
Xuân qua thu lại, lại đi thi
Nam Định bay luôn đệ nhất kỳ
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi!
Ngày xuân thấm thoát nghĩ như thoi
Cái học năm xưa đã cũ rồi
Học cũ đi, mà xuân lại mới
Thơ xuân nhớ lại viết mà chơi
Ngày xuân thơ rượu
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ
Ngày xuân tương tư
Trách cái tầm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư
Sương mù mặt đất người theo mộng
Nhạn lảng chân giời kẻ đợi thư
Nghìn dậm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Tương tư một mối hai người biết
Ai đọc thơ này đã biết chưa?
(tự hoạ bài trên ra theo xuôi vần)
Trách quẩn con tầm với sợi tơ!
Nhớ ai? mà lắm nỗi sầu tư
Muốn đi tửu quán chừng không bạn!
Ngó lại văn đàn cóc có thơ
Tóc bạc đã nên ông cụ thế
Đầu xanh còn nhớ bạn tình xưa!
Thuyền nan sông cái con tầu bể
Bờ bến nào đâu đã đến chưa?
(hoạ bài trên đây theo ngược vần)
Hỡi giống đa tình đã biết chưa?
Tơ tầm vương mãi tự ngày xưa
Gió mưa bốn bể hồn theo bạn
Vàng ngọc trăm năm túi nặng thơ
Lửa đốt lòng son câu thế sự
Gương soi tóc trắng nỗi sầu tư
Thuyền nan sóng đánh, tầu than hết
Giương cột, dây buồm: một sợi tơ!
Ngẫu hứng
I
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào!
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!
II
Tiền nhà nay đã đóng rồi
Ta pha ấm nước, ta ngồi ngâm nga
Bây giờ thơ mới nghĩ ra
Hồn thơ quanh quất bút hoa đêm trường
III
Ước sao tháng tháng sẵn tiền
Tiền nhà cứ tháng ta liền đóng ngay
Rồi ra thơ nghĩ mới hay
Tri âm ai đó mới say vì tình
Trên đây là những bài thơ hay của nhà thơ Tản Đà mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn. Thông qua các bài thơ này chúng ta có thể hiểu được tại sao vai trò của ông lại được đánh giá cao như vậy. Thậm chí trong Thi nhân Việt Nam, Hoài thanh Hoài Chân đã đặt ông lên ngồi ghế “chủ súy” của hội Tao Đàn và cũng chính là người đã có những cống hiến quan trọng cho việc mở lối thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Theo Thuvientho.com