Home / Chùm thơ chọn lọc / Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 6

Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 6

Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 6

Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến được sáng tác chiếm tới 3 phần 4. Các sáng tác chữ Hán của ông gần như chuyển tải được tâm trạng của chính mình. Đó cũng chính là những nỗi niềm riêng của người kẻ sĩ trước xã hội. Đó chính là ý thức rõ rệt về bản lĩnh, nhân cách, và trách nhiệm của kẻ sĩ trước thời cuộc này. Đó cũng chính là một trong những nét độc đáo trong thơ ca của Nguyễn Khuyến.

Lữ tấn khốc nội

旅殯哭內

相期佳老老無緣,

一別逾年便百年。

招爾魂兮來此些,

曰予慟矣為誰憐。

邶鄘而下風斯變,

秦漢之間禮則然。

聞訃不勝衰病久,

旅墳菁草已芊芊。

Lữ tấn khốc nội

Tương kỳ giai lão, lão vô duyên,

Nhất biệt du niên, tiện bách niên.

Chiêu nhĩ hồn hề lai thử tá?

Viết dư đỗng hĩ vị thuỳ liên?

Bội, Dung nhi hạ phong tư biến,

Tần, Hán chi gian lễ tắc nhiên.

Văn phó bất thăng suy bệnh cửu,

Lữ phần tinh thảo dĩ thiên thiên.

Dịch nghĩa

Hẹn cùng nhau sống đến già, già lại vô duyên,

Xa nhau hơn một năm, mà thành trăm năm.

Chiêu hồn bà về, có về đây chăng?

Ta khóc nức nở, đau xót vì ai?

Từ Bội phong, Dung phong trở xuống, Quốc phong đã biến,

Trong khoảng giữa nhà Tần, nhà Hán, lễ giáo thế thôi.

Đau yếu đã lâu nghe tin buồn khôn xiết,

Nấm mồ đất khách, cỏ đã xanh rì.

Lưu giản thị môn đệ

留柬是門弟

蕭蕭風雨入秋聲,

萬里歸懷一日生。

堂北有親難久別,

藉西如我害為情。

書燈照客心由白,

江月隨人色共明。

班馬欲行行且止,

明朝臥聽海濤鳴。

Lưu giản thị môn đệ

Tiêu tiêu phong vũ nhập thu thanh,

Vạn lý quy hoài nhất nhật sinh.

Đường bắc hữu thân nan cửu biệt,

Tịch tây như ngã hại vi tình.

Thư đăng chiếu khách tâm do bạch,

Giang nguyệt tuỳ nhân sắc cộng minh.

Ban mã dục hành hành thả chỉ,

Minh triêu ngoạ thính hải đào minh.

Dịch nghĩa

Gió mưa dào dạt hoà thành điệu thu thanh,

Một sớm nhớ quê xa muôn dặm, nảy ra ý muốn về.

Thềm bắc còn có mẹ, vắng mãi sao đành

Ngồi chiếu phía tây như mình nghĩ sao yên dạ

Ngọn đèn đọc sách soi tỏ lòng nhau

Mảnh trăng trên sông theo người rọi sáng

Vó ngựa chia phôi toan bước lại dừng

Chỉ sớm mai là đã nằm nghe sóng bể

Ly phụ hành

嫠婦行

君不見:

里有嫠父愁獨宿,

營食謀衣日不足。

鄰媼見之憐饑寒,

室家謀與少年續。

少年強壯嗜欲廣,

嫠婦疲病筋力衰。

供給使令不相應,

縱然見合終必離。

再醮本為饑寒謀,

不免饑寒是可恥。

況復不聞父母言,

私奔更為鄰里鄙。

嗟嗟鄰媼何愛嫠?

愛之則是謀則非。

饑寒只應粟布給,

老大再醮非所宜。

Ly phụ hành

Quân bất kiến:

Lý hữu ly phụ sầu độc túc,

Doanh thực mưu y nhật bất túc.

Lân ảo kiến chi liên cơ hàn,

Thất gia mưu dữ thiếu niên tục.

Thiếu niên cường tráng thị dục quảng,

Ly phụ bì bệnh cân lực suy.

Cung cấp sử linh bất tương ứng,

Túng nhiên kiến hợp chung tất ly.

Tái tiếu bản vị cơ hàn mưu,

Bất miễn cơ hàn thị khả sỉ.

Huống phục bất văn phụ mẫu ngôn,

Tư bôn cánh vi lân lý bỉ.

Ta ta lân ảo hà ái ly?

Ái chi tắc thị, mưu tắc phi.

Cơ hàn chỉ ưng túc bố cấp,

Lão đại tái tiếu phi sở nghi.

Dịch nghĩa

Chàng chẳng thấy:

Trong làng có chị goá chồng buồn bã nằm một mình,

Lo ăn lo mặc hàng ngày không đủ.

Mụ láng giềng thấy thế thương tình đói rét,

Khuyên chị chắp mối tơ duyên với chàng trẻ tuổi.

Chàng trẻ tuổi khoẻ mạnh, ham muốn nhiều,

Chị goá chồng ốm yếu, gân sức mỏi mệt.

Không sao đáp ứng được mọi sự sai khiến đòi hỏi của chàng trẻ tuổi,

Dù có sum họp thì sau ắt cũng chia lìa.

Tái giá vốn vì chuyện đói rét,

Không tránh khỏi đói rét thì thật đáng xấu hổ.

Huống nữa lại chẳng nghe lời cha mẹ dạy,

Lén lút theo nhau càng làm cho xóm làng khinh bỉ,

Than ôi! Mụ hàng xóm thương chị gái goá làm gì?

Yêu thương thì đúng nhưng lo tính hộ lại sai.

Thương người đói rét chỉ nên cho thóc cho vải,

Chứ người nhiều tuổi tái giá thì không thích hợp.

Mạn hứng

漫興

都門一出遂歸田,

貧病年來獨自憐。

窗日暗移紅影近,

竹風不讓白頭先。

布秧奴老知禾脚,

糴穀人回引斗年。

乘興祇惟樽酒適,

南山憑眺正悠然。

Mạn hứng

Đô môn nhất xuất toại quy điền,

Bần bệnh niên lai độc tự liên.

Song nhật ám di hồng ảnh cận,

Trúc phong bất nhượng bạch đầu tiên.

Bố ương nô lão tri hoà cước,

Địch cốc nhân hồi dẫn đẩu niên.

Thừa hứng chỉ duy tôn tửu thích,

Nam sơn bằng diểu chính du nhiên.

Dịch nghĩa

Vừa ra khỏi cửa kinh đô liền trở về đồng ruộng,

Mấy năm nay đã nghèo lại ốm, mình riêng tự thương mình.

Trước cửa sổ, mặt trời lặng lẽ đưa bóng nắng lại gần,

Trên ngọn tre, làn gió không nhường cho đầu bạc trước.

Người lão nông gieo mạ biết chân ruộng tốt xấu,

Kẻ đong thóc về kể tuổi đấu non hay già.

Lúc hứng chỉ có chén rượu là thoả ý,

Ngồi nhìn núi Nam sơn lòng dường phơi phới.

Mạn ngâm

漫吟

上溯鴻荒混沌初,

鴻荒之後是誰歟。

隆污世運當何極,

厚薄人情漸不如。

開闢以來天或老,

紘埏之外地應除。

若知古後無窮事,

合補瀛寰不盡書。

Mạn ngâm

Thượng tố hồng hoang hỗn độn sơ,

Hồng hoang chi hậu thị thuỳ dư.

Long ô thế vận đương hà cực,

Hậu bạc nhân tình tiệm bất như.

Khai tịch dĩ lai thiên hoặc lão,

Hoành duyên chi ngoại địa ưng trừ.

Nhược tri cổ hậu vô cùng sự,

Hợp bổ doanh hoàn bất tận thư.

Miễn nông phu

勉農夫

甫田近日莠驕驕,

端藉農夫力滾藨。

憂屋又添重九雨,

高低方望十分饒。

雪花有意蘇民寞,

碩鼠何仇食我苗。

塵世有身宜有役,

諸君幸勿畏勞焦。

Miễn nông phu

Phủ điền cận nhật dữu kiêu kiêu,

Đoan tạ nông phu lực cổn biều.

Ưu thất hựu thiêm trùng cửu vũ,

Cao đê phương vọng thập phân nhiêu.

Tuyết hoa hữu ý tô dân mịch,

Thạc thử hà cừu thực ngã miêu.

Trần thế hữu thân nghi hữu dịch,

Chư quân hạnh vật uý lao tiều.

Dịch nghĩa

Đám ruộng lớn gần đây cỏ mọc cao vút

Nhờ có người nông dân ra sức cào cuốc

Lại thêm có trận mưa ngày mồng chín tháng chín chan chứa

Nương cao ruộng thấp mới mong mười phân thu hoạch dồi dào

Hoa tuyết đã có ý cứu nạn đói cho dân

Chuột lớn có thù gì mà lại cắn lúa của ta?

Ở cõi trần có thân thì phải có việc

Mong rằng dù có vất vả các anh cũng chớ nên ngại

Mộ xuân tiểu thán

暮春小嘆

十載奔波此一途,

歸來吾幸得為吾

小園罕過紅衣蝶,

遶樹多啼白項烏。

天日惟盲難再見,

丘溪有病即為愚。

縱然不作千觴飲,

已是江南丐上儒。

Mộ xuân tiểu thán

Thập tải bôn ba thử nhất đồ,

Quy lai ngô hạnh đắc vi ngô

Tiểu viên hãn quá hồng y điệp,

Nhiễu thụ đa đề bạch hạng ô.

Thiên nhật duy manh nan tái kiến,

Khâu khê hữu bệnh tức vi ngu.

Túng nhiên bất tác thiên trường ẩm,

Dĩ thị Giang Nam cái thượng nho.

Dịch nghĩa

Mười năm trời bôn ba trên một con đường

Nay trở về may mắn ta vẫn còn là ta

Trong vườn nhỏ ít khi bướm đỏ bay qua

Chỉ hay thấy quạ khoang lượn kêu quanh cây

Vì mù nên không nhìn lại được mặt trời nữa

Gò khe có người trái chứng ở thì cũng thành ngu

Dù không uống một bữa nghìn chén rượu

Thì ở Giang Nam cũng liệt vào hạng nhi trên hạng ăn mày rồi

Ngẫu thành kỳ 2

偶城其二

撓撓江山一細塵,

何為鼎鼎百年身。

名夷利跖枯骸盡,

歉朔盈侏俸祿均。

翼趾角牙原有分,

夔蚿蛇目各相憐。

細衰運會知何極,

當是鴻荒太古人。

Ngẫu thành kỳ 2

Nạo nạo giang sơn nhất tế trần,

Hà vi đỉnh đỉnh bách niên thân.

Danh Di lợi Chích khô hài tận,

Khiểm Sóc doanh Thù bổng lộc quân.

Dực chỉ giác nha nguyên hữu phận,

Quỳ huyền xà mục các tương liên.

Tế suy vận hội tri hà cực,

Đương thị hồng hoang thái cổ nhân.

Ngộ danh Nhiễm phu thê cảm tác

遇名冉夫妻感作

雲山鴻雁各分方,

逢爾夫妻亦可傷。

白髮滿頭初作婦,

凶年栲腹復歸鄉。

且看此日真棋局,

何獨伊人當儡場。

寒雨間前正惆悵,

諸君莫笑獨初狂

Ngộ danh Nhiễm phu thê cảm tác

Vân sơn hồng nhạn các phân phương,

Phùng nhĩ phu thê diệc khả thương.

Bạch phát mãn đầu sơ tác phụ,

Hung niên hiêu phúc phục quy hương.

Thả khan thử nhật chân kỳ cục,

Hà độc y nhân đấng lỗi trường.

Hàn vũ gian tiền chính trù trướng,

Chư quân mạc tiếu độc sơ cuồng.

Dịch nghĩa

Núi mây xa cách chim hồng chim nhạn tan tác khắp các ngả

Nay gặp vợ chồng người thật cũng đáng thương

Tóc bạc đầy đầu rồi mới đi làm đâu

Gặp năm mất mùa bụng đói lại phải về làng

Xem cuộc đời ngày nay thật y như cuộc cờ

Chẳng riêng gì người ấy là trò rối mà thôi

Trời mưa rét đừng trước của bùi ngùi

Các người đùng chê ta là sơ cuồng nhé!

Xem thêm:  Bài thơ Có nỗi nhớ nào hơn thế không – Nhà thơ Dương Tuấn

Ngô huyện Lão sơn

吾縣老山

舉目江山興自豪,

油然神往不知勞。

此中佳興正堪賞,

一片塵心卻未淘。

離索幾年愁獨坐,

徘徊舊路畏登高。

至今此興能如願,

為有裴君訂贈袍。

Ngô huyện Lão sơn

Cử mục giang sơn hứng tự hào,

Du nhiên thần vãng bất tri lao.

Thử trung giai hứng chính kham thưởng,

Nhất phiến trần tâm khước vị đào.

Ly tác kỷ niên sầu độc toạ,

Bồi hồi cựu lộ uý đăng cao.

Chí kim thử hứng năng như nguyện,

Vị hữu Bùi quân đính tặng bào.

Dịch nghĩa

Ngước mắt nhìn non sông tự thấy hào hứng,

Tinh thần phơi phới lên chơi chẳng biết mệt.

Trong đó hứng thú tốt lành đáng được thưởng thức,

Chốc lát lòng trần chưa rửa sạch được.

Mấy năm nay xa cách bạn bè riêng buồn ngồi một mình,

Lại chỉ loanh quanh trên con đường cũ, ngại lên cao.

Ngày nay hứng thú ấy được thoả mãn,

Là vì có bác Bùi hứa hẹn cho áo.

Nhâm Dần hạ nhật

壬寅夏日

今夏苦太熱,

草枯澤亦竭。

益之以西風,

何物不靡滅。

矧予病且貧,

行年近丘穴。

井非無清泉,

飲之徒汗血。

飯非無羹和,

食之不可咽。

裸程如不恭,

孤立若苦節。

嗟此百罹逢,

胡為又切切。

Nhâm Dần hạ nhật

Kim hạ khổ thái nhiệt,

Thảo khô trạch diệc kiệt.

Ích chi dĩ tây phong,

Hà vật bất mỹ diệt.

Thẩn dư bệnh thả bần,

Hành niên cận khâu huyệt.

Tỉnh phi vô thanh tuyền,

Ẩm chi đồ hãn huyết.

Phạn phi vô canh hoà,

Thực chi bất khả yết.

Khoả trình như bất cung,

Cô lập nhược khổ tiết.

Ta thử bách ly phùng,

Hồ vi hựu thiết thiết.

Dịch nghĩa

Mùa hè này khổ vì nóng nực quá,

Cỏ khô, ao đầm cũng cạn.

Hơn nữa lại có gió Tây,

Vật gì mà chẳng tàn tạ.

Huống chi ta đã ốm lại nghèo,

Tuổi tác đã gần kề miệng lỗ.

Giếng không phải không có nước trong,

Nhưng uống vào chỉ thêm vã mồ hôi.

Cơm không phải không có canh,

Nhưng ăn vào không nuốt được.

Cởi trần ra thì tưởng như khiếm nhã,

Đứng một mình thì như người giữ khổ tiết.

Than ôi! đã gặp phải lúc rắc rối trăm chiều,

Sao lại còn khe khắt với nhau thế này nữa.

Nhân tặng nhục

人贈肉

墳間人饜足,

歸來贈余肉。

贈余非畏余,

憐余獨曠腹。

徘徊為數辭,

持之掩面哭。

適此亂離逢,

兼之窮餓促。

子意一何慇,

余心原不欲。

公西衣輕裘,

庾釜且請粟。

范蠡乘輕舟,

牛羊且大畜。

彭澤方辭歸,

且栽三徑菊。

樂天方謫居,

且搆三間屋。

嘆余病而貧,

風塵太碌碌。

老矣無能為,

何以服不穀。

不食令人饑,

食之令人辱。

不食令人疲,

食之令人俗。

感子非王孫,

知我有鮑叔。

取之何傷廉,

無容適他族。

忽忽談相忘,

清風動孤竹。

Nhân tặng nhục

Phần gian nhân yếm túc,

Quy lai tặng dư nhục.

Tặng dư phi uý dư,

Liên dư độc khoáng phúc.

Bồi hồi vi sổ từ,

Trì chi yểm diện khốc.

Thích thử loạn ly phùng,

Kiêm chi cùng ngã xúc.

Tử ý nhất hà ân,

Dư tâm nguyên bất dục.

Công Tây y khinh cừu,

Dữu phủ thả thỉnh túc.

Phạm Lãi thừa khinh chu,

Ngưu dương thả đại súc.

Bành Trạch phương từ quy,

Thả tài tam kính cúc.

Lạc Thiên phương trích cư,

Thả cấu tam gian ốc.

Thán dư bệnh nhi bần,

Phong trần thái lục lục.

Lão hĩ vô năng vi,

Hà dĩ phục bất cốc.

Bất thực linh nhân cơ,

Thực chi linh nhân nhục.

Bất thực linh nhân bì,

Thực chi linh nhân tục.

Cảm tử phi Vương Tôn,

Tri ngã hữu Bão Thúc.

Thủ chi hà thương liêm,

Vô dung thích tha tộc.

Hốt hốt đàm tương vong,

Thanh phong động cô trúc.

Dịch nghĩa

Trong đám tế mộ ai nấy đều no nê,

Có người khi về, mang thịt tặng ta.

Tặng ta không phải vì sợ ta,

Mà là thương ta đói bụng.

Ta ngậm ngùi, nói được vài lời,

Cầm lấy miếng thịt, che mặt mà khóc.

Gặp lúc loạn ly như thế này,

Lại thêm sự đói kém bức bách.

Ý người rất ân cần,

Lòng ta không phải là không muốn.

Công Tây mặc áo cừu nhẹ,

Cũng còn phải xin từng hũ, từng chõ thóc.

Phạm Lãi rong thuyền chơi,

Cũng còn nuôi từng đàn trâu dê.

Bành Trạch khi từ quan về,

Cũng còn trồng ba luống cúc.

Lạc Thiên khi bị trích đi nơi xa,

Cũng phải làm ba gian nhà.

Than ôi! Ta đau ốm, nghèo túng,

Gặp lúc phong trần lại càng ươn hèn hơn ai!

Tuổi già không làm được việc gì,

Lấy gì mà chi dùng khi không có bổng lộc?

Không ăn thì người bị đói,

Ăn vào thì người bị nhục!

Không ăn thì người bị gầy,

Ăn vào thì ra con người tục!

Cảm lòng người, ta không được như Vương Tôn,

Biết ta, đời còn có Bão Thúc.

Ta nhận đây, tưởng cũng chẳng hại gì,

Lại không phải đi kêu nài cửa khác.

Chuyện trò chốc lát, hai bên cùng chợt quên đi,

Gió mát làm rung động cây trúc đứng một mình.

Xem thêm:  Tập thơ: Bức tranh quê (1941) – Nữ sĩ Anh Thơ (Tiếp)

Nhật mộ Thái giang hành chu

日暮泰江行舟

參差雲樹上樓臺,

繚繞平橋四面開。

一寺鐘疏斜照盡,

半江棹急好風回。

岸垂綠竹影逾碧,

茶近白蓮色共明。

解使飛觴聽法曲,

此身常是到蓬萊。

Nhật mộ Thái giang hành chu

Sâm si vân thụ thướng lâu đài,

Liêu nhiễu bình kiều tứ diện khai.

Nhất tự chung sơ tà chiếu tận,

Bán giang trạo cấp hảo phong hồi.

Ngạn thuỳ lục trúc ảnh du bích,

Trà cận bạch liên sắc cộng minh.

Giải sử phi trường thính pháp khúc,

Thử thân thường thị đáo Bồng Lai.

Dịch nghĩa

Cây và mây chen nhau vượt quá nóc lầu

Một chiéc cầu quanh co trông ra bốn mặt

Chuông chùa thưa thớt bóng chiều vừa hết

Giữa dòng chèo gấp gió mát thổi lồng quanh

Bên bờ trúc xanh rủ bóng càng thêm biếc

Uống chè gần cây sen trắng mùi thơm đầy chén

Ví thử vừa được cất chén vừa nghe nhạc tiên

Thì thân này khác chi chơi cảnh Bồng Lai

Oa cổ

蛙鼓

聞道村村禁鼓笳,

我池蛙鼓徹宵過。

叱之良久復如是,

令在諸君不畏耶。

或愛幽居多淡薄,

且容一部作繁花。

未知強項何人者,

過此還當式怒蛙。

Oa cổ

Văn đạo thôn thôn cấm cổ già,

Ngã trì oa cổ triệt tiêu quá.

Sất chi lương cửu phục như thị,

Lệnh tại chư quân bất uý da.

Hoặc ái u cư đa đạm bạc,

Thả dung nhất bộ tác phồn hoa.

Vị tri cường hạng hà nhân giả,

Quá thử hoàn đương thức nộ oa.

Dịch nghĩa

Nghe nói các nơi đâu cũng cấm trống kèn

Ao nhà ta thì trống ếch kêu suốt đêm

Quát mắng thì im một lúc lâu rồi đâu lại hoàn đấy

Có lệnh cấm mà các ngươi không sợ à?

Hay là ái ngại chỗ ở u tịch này nhạt nhẽo quá

Nên để cho một đội âm nhạc làm nhộn nhịp lên

Không biết có người cúng cổ nào đó

Qua đây cũng phải kính cẩn trước con ếch giận giữ

Phong Doanh lộ thượng ngộ vũ

豐盈路上遇雨

豐盈春雨路,

泥濘不堪行。

霧盡千村白,

雲連遠岫青。

曉梅千里驛,

晚樹故園情。

豈不欲高臥,

懷安實敗名。

Phong Doanh lộ thượng ngộ vũ

Phong Doanh xuân vũ lộ,

Nê nính bất kham hành.

Vụ tận thiên thôn bạch,

Vân liên viễn tụ thanh.

Hiểu mai thiên lý dịch,

Vãn thụ cố viên tình.

Khởi bất dục cao ngoạ,

Hoài an thực bại danh.

Dịch nghĩa

Đường Phong Doanh trong mùa mưa xuân

Lầy lội bước đi chẳng được

Sương mù tan hết trông thấy rõ các xóm làng

Mây liền với dãy núi xa một màu xanh ngắt

Mai sớm nở trên đường ngàn dặm

Cây chiều gợi tình nhớ quê nhà

Há không muốn nằm khểnh nghỉ ngơi

Song lại nghĩ tạm bợ cầu yên, thực cũng mang tiếng

Trên đây là các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến hay độc đáo mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Qua đó bạn cũng sẽ hiểu thêm về phong cách cá nhân cảu nhà thơ. Và cũng hiểu được tại sao ông quan Tam nguyên và ông già Yên Đổ ẩn cư trong thơ Nguyễn Khuyến lại là một. Đừng quên đón đọc những bài thơ tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay nhất của nhà thơ này nhé!

Xem thêm:Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 7

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …