Home / Chùm thơ chọn lọc / Tập thơ Về Kinh Bắc đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà thơ Hoàng Cầm Phần 1

Tập thơ Về Kinh Bắc đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà thơ Hoàng Cầm Phần 1

Tập thơ Về Kinh Bắc đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà thơ Hoàng Cầm Phần 1

Về Kinh Bắc là một tập thơ giàu giá trị nhất của nhà thơ Hoàng Cầm. Ông dồn hết tâm huyết của mình vào những trang thơ này. Đọc thơ ông, ta bắt gặp một con người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp tự do tài tình lướt qua khuôn phép. Mảng thơ tình của Hoàng Cầm là một đóng góp đáng kể về tình yêu. Đấy là một cảm giác si mê hưng phấn trong ái tình, mà có người nhầm tưởng là kích động nhục cảm. Cùng nhau trải nghiệm ngòi bút tài hoa của nhà thơ kiệt xuất này nhé các bạn!

Đêm Thổ

Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc

Chiều xưa giẻ quạt voi lồng

Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc

Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông

Đê mười tám khúc Văn Giang

Chuông Bách Môn đổ xô gò má

Mây thành thổi lửa

Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân

Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ

thoắt chìm

Gấu đẩy đá Thiên Thai

Đi đâu

Tràng mày xếch vòng cung

bắn nát chiều mai ráng đỏ

Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

Không gặp người quen

hờ

ngõ cũ

Đêm xuống

làm lầu hoang

Trò chuyện gì ai đâu

Mồ tháng giêng mưa sũng

Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu

Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng

Đêm Kim

Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc

Con không cười

Con thoảng nhớ thoảng quên

Hình nhân má điệp tóc mực tàu

Mắt nghiêng dựa liếp

Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu

Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa

Da trứng bóc

phủ bụi tàn nhang

Phía đông kéo cưa xẻ gỗ

Phía tây chầy nện ván thiên

Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ

rũ xô gai biển động tìm kim

Kèn già lam ai tập thổi

Gió mất chồi xuân đay nghiến lũy tre dầy

Năm ba gã trai tập bài lưu thủy

Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang

qua miếu mưa phùn

Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại

Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo

Đêm Mộc

Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng

Khế chua vôi bột lòng tay

Tràng pháo ròng thân cau mới bói

Tênh tênh chở đá Ba Vì

Tiếc gì nhau nữa

Lứa ong bầu châm lửa gót chân

Cói Thanh ép mỏng

Bao giờ lim gãy đá tan

Ngủ lại giấc mơ dang dở

Chũm cau căng nứt mạch tằm

Yếm may ba ngày mẹ vá lại

Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm

Súng lệnh gươm đao rậm rịch

Thua

lá màn lay

muỗi ngủ mê

Đêm Thuỷ

Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt

Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua

Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch

Tượng Quan Âm má ửng bồ quân

Chuông chiều cởi yếm

Chuông sớm đội khăn

Câu kinh tê tê mười ngón tay măng

Mõ đêm hè cuốc lội

Ao mưa dằng rịt lá trường sinh

Gió vào trăm cửa

Gió ra hồng da trinh nữ

Gió vào xanh quan lục

Gió ra vàng thớ mít

Ong bay vai áo tiểu thon mình

Thập điện Diêm vương mở hội

Trong mắt trẻ lên năm

Trưa hè gãy rắc cành hoa đại

Mái hậu cung bồ các tha rơm

Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả

Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm

Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm

Đêm Hoả

Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa

Ngón tay di sợi chỉ nâu

Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu

Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi

Võng mắc cành hồng chạc ổi

Kiều khàn

Dứt giọng nho sinh

… “buông mành…

… Con oanh học nói…”

Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước

Hoa thui ngọn bí lông tơ

Đại hạn tháng ba

Lá lúa rang châu chấu

Mải dỗ con

Mắt cua nghênh giã cảnh giã người

Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão

Chiều cơm suông

Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ

Trăng lên chém đầu ngọn gió

Cành si bưng chậu máu chát chao

Cuối năm rì rầm tiếng khóc

Chàng ôi ngựa tía võng đào

Chợt mê thét giữa sân

Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng

Máu đổ

Mây đùn

Gió lộng

Sớm mai đi

Nắng phù sa

Người thơ kể

Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống

Dựng tre làng Cháy

Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu

Chuột thành than

Đen xạm dọc sông Hồng

Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại

Người thơ kể

Thiên vương chẳng nói

Lúc gật đầu

Vó ngựa đào ao hồ liên tiếp mãi Đông Anh

Thiên vương chẳng nói

Lúc nghiêng tai

Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà

Hoa gạo các triền sông

Giải lối Sóc Sơn bay

Người thơ kể

Thiên vương chẳng nói

Chân Mẹ còn đê mê cát mịn

Hội Gióng dong chiêng

Bé em về nằm khoanh lòng mẹ

Nghe nghìn muôn năm sau

Xoa nắn đôi bầu vú lửa

Sông dài

Cát bỏng

Nắng hồng hoang

Xem thêm:  Bài thơ Những Mùa Xuân Cuộc Đời – Nhà thơ Phú Sĩ

Gió lông ngỗng

Lông ngỗng trải bờ lau

Sông Cầu xuôi bến Hát

Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn

Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng

Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối

Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ

Cổ Loa cú rúc chòi canh

Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử

I…i…m…m

Ứ…!

I…i…m…m

Ứ…!

Mất rồi

Mười bảy mười ba

An Dương Vương ôi

Bọt bể bồ hòn

Sương Cầu Lim

Chấp chới lá chè non

Cầu Lim Nội Duệ

The Hà Đông đón kiệu

Bỏ quê Xim

Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống

Sáo sậu Phù Ninh

Rợp nắng

Về Thăng Long

Đá nghển trông con

Gục đầu sườn núi Dạm

Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền

Đè ngang khói bếp

Bặt mùi khoai nướng

Đầu rau nằm sấp toạc môi

Trống Chờ thúc chín tiếng

Chuông Trõ nện ba hồi

Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo

Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo

Biết lòng chim sáo chim ri

Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi

Khói Yên Thế

Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế

Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay

Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề

Bờm nhả khói

Đuôi dựng mây

Hí lửa dài

Vó chồm nghiêng soái phủ

Nhe răng cười

Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi

Đèn nhang 1

Ông già thả gậy

Bắc cầu phao vượt bến

Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều

Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử

Áo Hai Bà dăng mắc

Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương

Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân

Cụ tổ mười lăm đời

Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng

nhận gươm phương bắc chém

Cụ tổ mười đời

Lăn đá Chi Lăng

Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện

Gõ ba hồi trống

Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng

Cụ tổ chín đời

Mở trang Bình Ngô Đại Cáo

Nơi thôn xa ba chén chúc mừng

Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng

Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông

Ông tổ năm đời

Cáo quan dưỡng bệnh

Tóc trắng bồng bênh trước án

Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay

Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp

Dở khóc dở cười

Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng

Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc

Hũ rượu hoàng hoa

Hịch bốn trấn

Xé trang Luận Ngữ

Lau gươm

Lên đường

Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân

Kéo quân về cửa khuyết

Hỏi tội nghịch thần

Mắt Chúa đảo thiên

Kéo áo che ngai

Né mũi kiếm vô hình xốc tới

Phanh hầm nhét vội một vầng dương

Cắn nhọn móng tay

Thơ cùm lim khắc máu

Chợt nghe tin giặc dữ

Lấp sông san núi ùa sang

Vùng chặt xích bẻ gông

Phá cửa

Cướp ngựa Hình Tham tri

Phóng lên ải bắc

Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban

Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua

Đèn nhang 2

Dó lụa lật trang

Sang chữ triện quan tài

Bóng người cô ruột

Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi

Sông trôi xa còn ngoái về

Xem gót chân uyển chuyển

Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc

Dịch sườn thông sang xúm xít

Quanh hàng mi

Nắng đọng hồ trong

Một sớm đi làm vương hậu

Cười rũ cỏ hoa

Rè tiếng trống chấp đòn khênh

Xà tích dấu đưa em

Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc

Nhìn mây về ngọn cau

Mái rạ thiu thiu

Đi

Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy

Níu cuộng lá vàng qua trận bão

Phân kim hạ kiệu

Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân

Mấy chục nguyên tiêu

Thời trân thưa thớt

Cơn trái nắng kén gì

Đúng lúc quả đào rơi

Vua băng hà

Đời hậu tắt sao băng

Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng

Chẳng dứt

Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa

Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh

Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch

Hồn ma đế bá cũng lang thang

Đói khát tình thương

Xem thêm:  Bài thơ Mùa vải quê tôi – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống

Đêm doang tay

Mời vương hậu

Ngủ chung giường

Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang

Bàn tay quấn tóc khô

Che mặt

Về quê

Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy

Ngựa 1

Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa

Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên

Cắt thịt chia da

Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng

Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ

Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam

Dù gục khóc dưới chân thành

Đã mất giải khăn đào hứng lệ

Người đổi kiếp ra mô đất xám

Đắp thêm cho vững mái lầu hoa

Chiều nổi cung đàn phỉ thúy

Thong dong

Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân

Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp

San bằng đồi núi lô nhô

Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc

Tiếng hí dài

Ba lần triều đại đổi ngôi

Khoét thủng sáu lần nhung phục

Đập rập tám lọng vàng đô đốc

Cha truyền con nối

Đã xơ lơ

Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi

Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út

Bờm lông còn ướt

Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu

Nếp nếp áo chầu

Ngã rạp

Chiến thư

Dùng dắng

Tử sinh

Ai gặp lúc tuổi măng háu đá

Óc ngu phu giám mã

Chạm yên

Đau rức xương hông

Quằm gót

Thốc ngang sườn quật thây tổng quản

Hỏng rồi

Chiến trường không dụng

Đeo thẻ bài nhà Chúa

Ngẩn ngơ gặm cỏ

Quanh quanh cửa bắc cửa đông

Nhìn tít mù xa khanh tướng

Cờ bay bụi lốc

Nghe tin về lái ngựa quận công

Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ

Tiếng hí khải hoàn chìm lịm

Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn

Xương vụn kéo lên gò đống

Cháu bốn đời vỗ mả áp tai

Nghe tràng đạc rộn hoang vu

Còn thoảng khét mồ hôi

Ngày huyết chiến năm Thân

Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu

Đổ xuống bủng beo da thị rụng

Ngựa 2

Có một thời

Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ

Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi

Đàn lính ngựa vua nuôi

Bỗng lừ đôi mắt mỏi

Phi dài vệt khói

Cánh dăng dăng quan lộ

Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn

Đường nắng bay từng đám hoả hoàng

San sát rừng gươm

Gia Bình Bạch Hạc

Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc

Trước mặt cào cào rộn cánh

Tốc xiêm y trăm sắc cung tần

Trên lưng nắng hạn xém yên cương

Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình

Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến

Giặc cuồng vắt chân tháo chạy

Đầu lâu lăn lóc vó

Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy

Tít tắp

Từ Tiên Yên Hà Cối

Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh

Cũng từ thuở ấy

Cô gái quê thả tấm khăn điều

Bay nối đường tre liền ngọn thác

Bạc phau đổ xuống tự vòm mây

Mắt ướt môi se không nức nở

Răng đen rưng rức

Nghiến oán thù tím ngắt

Nắng Phong Châu

Cũng từ thuở ấy

Lính – ngựa vua nuôi gọi lính – người

Hội vật

Trống lớn Giảng Võ đường

Đội bổng vòm trời cao vót

Gió thượng du dội lại

Mưa trung du thốc sang

Bão hạ du dồn vang

Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu

Cong mái đỏ quanh thành

Kỳ xí đêm qua ủ gió

Sớm nay thả hết về nam

Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang

Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ

Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát

Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ

Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn

Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng

Vua kén người giỏi tiên phong

Vật núi núi lăn

Ngáng sông sông gãy

Gái thường dân Kinh Bắc

Tìm ai đây giỏi phận làm chồng

Hai tay căng sợi chỉ

Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ

Các ngả đường bụi đùn lốc nổi

Thác người đổ qua cửa ngọ

Cờ xua hết mây đi

Toà biếc lắng xem

Trống vẫn thúc

Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng

Loa vẫn rải

Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng

Chiêng lê thê sông Nhị

Dăng dài bãi mía bờ khoai đi

Một khắc cờ im gió đợi

Trai đô ùn đọng ngã tư thành

Ai từng buôn ngược bán xuôi

Chiều hoang rừng xế gặp hùm

Liều thân cứu mạng

Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi

Ai xuống bể mò ngọc trai

Tặng người yêu dấu

Né đuôi cá mập

Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn

Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống

Giỏi khoa vặn chệch hàm răng

Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây

Giỏi môn vặn cổ

Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử

Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương

Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô

Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa

Lại kìa ai quen trộm gà bà thím

Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân

Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc

Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”

Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già

Loa càng dóng dả

Võ nghệ mười phương

Hồi hộp bắc đồng cân

Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất

Nhiễu xanh vắt hông

Cử vạc ba trăm cân

Nước đầy

Không sóng sánh

Rồi Bá Ngạc Tiên Du

Tư Đang Yên Dũng

Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà

Nghiêng mình thi lễ

Mắt trầm tư ngó vội khảo đài

Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay

Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong

Gạt dóng tre ngà

Cầm tấm mía nhai ròn

Thổi bã ngất trời bụi trắng

Đến Ba Ngư Siêu Loại

Trề môi khinh vạc lớn

Đứng tấn đại bàng

Lay voi đá cửa dinh

Nhấc bổng

Diễu hai vòng bãi rộng

Phong ba động biển reo hò

Gái nhà quan bố nuông

Cho giữ dịp

Bỗng để rơi dùi trống

Nín hơi nghe rần rật

Bão liên hồi

Trong búp lá măng tơ

Hồi cồng buông trấn lệnh

Từng đôi vào

Sư tử vờn quanh

Lên điệu “Bạch hầu đoạt trái”

Sang điệu “Hồng hạc tề phi”

Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu

Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt

Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó

Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu

Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời

Nhiễu đỏ bên trái lên

Nhiễu xanh bên phải xuống

Nhoè bụi cuốn

Cột đồng dựng

Núi đá mọc

Ngón chân cày đất ba gang

Vạt cỏ đuôi gà bật rễ

Đất võ đài nhô lên lõm xuống

Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền

Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc

Vảy tê tê gạt gió

Xô về xem cuộc giao phong

Đã vào trận léo tay tư

Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm

Ối thôi

Bá Ngạc cắn môi vít gót

Bảy Kình nhắm mắt xuống bò

Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm

Tổng Dong nghiến răng ken két

Giật ngang mạng mỡ

Tử sinh là lúc này đây

Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng

Cồng chiêng thoi thóp

Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng

Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy

Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt

Mồ hôi người máu nến

Rụng song song

Rạng đông

Người toàn thắng bước ra

Ức vạn người xem khiếp sợ

Cuộc tàn tản mác cát lòng sông

Đô nhất là ai

Quê vùng đâu đó

Vươn tay chạm giời

Tóc hất sao mai

Quỳ xuống

Vọng về cửa khuyết

Lạy hai lạy

Lưng vàng rạp cỏ

Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi

Kén được một người

Nụ cười chếch đôi mắt lạ

Vồn vã đến

Thong dong thua

Rồi lửng lơ đi

Vua kén đủ mười hai đô uý

Triệu về kinh ban yến năm đêm

Giọt rượu hồng hoen bố tử

Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ

Một lời khảng khái tung hô

Mai sớm kéo quân đi

Nghìn dặm lấn thành xa

Khúc quân thiều còn múa lượn

Vành tai sương cóng

Chiều tím bặt sa trường màu giun chết

Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa

Phơi mồi quạ xúm đen ngòm

Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa

Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa

Đêm vàng Kinh Bắc

Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu

Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung

Xem thêm:  Bài thơ Trách ai hững hờ – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Về Kinh Bắc là một tập thơ vang danh của nhà thơ, đây cũng chính là tập thơ được ví như ” cột sống ” trong sự nghiệp văn học của ông. Bởi vậy ông đã rất tỉ mỉ trau chuốt những vần thơ của mình. Bài thơ chính là tình yêu lớn của ông đối với quê hương. Mời quý độc giả đón xem phần 2 vào một ngày không xa nhé! Thân Ái!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …