Mạnh Hạo Nhiên là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạnh thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình.Những bài thơ của ông thường tả cảnh núi non nhưng bộc lộ nỗi niềm nhớ thương quê nhà và bạn bè tha thiết của ông
Thơ ông với ngôn từ sinh động, gợi nên một khung cảnh sơn thủy hữu tình nên để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Ông có nhiều bài thơ nổi tiếng được nhiều thế hệ bạn đọc truyền tụng. Nào ngay bây giờ chúng ta cùng nhau khám phá những bài thơ đặc sắc của ông nhé!
I. Vài Nét Về Mạnh Hạo Nhiên
– Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 (689-740) tên Hạo, tự Hạo Nhiên, hiệu Mạnh sơn nhân 孟山人, người Tương Dương (nay là huyện Tương Dương tỉnh Hồ Bắc), cùng thời với Trần Tử Ngang.
– Ông từng làm quan, nhưng ông không thích hợp với đám quý tộc lạm quyền, nên rất thích nơi nhàn cư. Ông lui về ở ẩn, tìm lấy đời sống tao nhã ở Long Môn quê nhà và trong cuộc du ngoạn ở những nơi xa, khắp vùng đất.
– Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạnh thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình.
– Ông để lại hai trăm sáu mươi bài thơ. Có thể gọi thơ ông là thơ sơn thuỷ được. Thơ năm chữ của ông luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng.
II. Những Bài Thơ Đặc Sắc Của Mạnh Hạo Nhiên
Mạnh Hạo Nhiên là một vị quan thanh liêm vì không thích những vị quan lạm quyền nên ông đã đi du ngoạn khắp nơi. Những bài thơ của ông thường ca ngợi phong cảnh hữu tình của đất nước đồng thời bộc lộ những suy ngẫm của ông về cuộc đời. Nhiều bài thơ của ông được nhiều thế hệ tìm kiếm và truyền tụng
Hôm nay, các bạn hãy cùng Thuvientho.com khám phá và cảm nhận những bài thơ phong thủy hữu tình của ông nhé!
Anh Vũ châu tống Vương Cửu chi Giang Tả
昔登江上黃鶴樓,
遙愛江中鸚鵡洲。
洲勢逶迤繞碧水,
鴛鴦鸂鶒滿灘頭。
灘頭日落沙磧長,
金沙熠熠動飆光。
舟人牽錦纜,
浣女結羅裳。
月明全見蘆花白,
風起遙聞杜若香。
君行泰泰莫相忘。
Anh Vũ châu tống Vương Cửu chi Giang Tả
Tích đăng giang thượng Hoàng Hạc lâu,
Dao ái giang trung Anh Vũ châu.
Châu thế uy di nhiễu bích thuỷ,
Uyên ương khê xích mãn than đầu.
Than đầu nhật lạc sa thích trường,
Kim sa dực dực động tiêu quang.
Chu nhân khiên cẩm lãm,
Hoán nữ kết la thường.
Nguyệt minh toàn kiến lô hoa bạch,
Phong khởi dao văn đỗ nhược hương.
Quân hành thái thái mạc tương vương.
Dịch nghĩa
Xưa có lên lầu Hoàng Hạc trên bờ
Từ xa đã yêu thích bãi Anh Vũ trong sông
Hình thế bãi uốn khúc bao quanh bởi nước xanh
Chim uyên ương vịt nước đầy đầu bãi
Mặt trời lặn trên doi đất dài
Cát vàng lấp lánh bởi nắng quái chiều hôm
Người chài kéo dây thuyền nhiều màu sắc
Những cô giặt vải kết lại những chiếc xiêm lụa
Trăng sáng thấy toàn bông lau trắng
Gió thổi thoang thoảng mùi hương hoa lan đỗ nhược
Anh lên đường bình yên và nhớ đừng quên…
Bành Lễ hồ trung vọng Lư sơn 彭蠡湖中望廬山
太虛生月暈,
舟子知天風。
掛席候明發,
渺漫平湖中。
中流見匡阜,
勢壓九江雄。
黯黮凝黛色,
崢嶸當曙空。
香爐初上日,
瀑水噴成虹。
久欲追尚子,
況茲懷遠公。
我來限於役,
未暇息微躬。
淮海途將半,
星霜歲欲窮。
寄言岩棲者,
畢趣當來同。
Bành Lễ hồ trung vọng Lư sơn
Thái hư sinh nguyệt vựng,
Chu tử tri thiên phong.
Quải tịch hầu minh phát,
Diểu mạn bình hồ trung.
Trung lưu kiến Khuông phụ,
Thế áp Cửu Giang hùng.
Ảm đạm ngưng đại sắc,
Tranh vanh đương thự không.
Hương Lô sơ thướng nhật,
Bộc thuỷ phún thành hồng.
Cửu dục truy Thượng tử,
Huống tư hoài Viễn công.
Ngã lai hạn ư dịch,
Vị hạ tức vi cùng.
Hoài hải đồ tương bán,
Tinh sương tuế dục cùng.
Ký ngôn nham thê giả,
Tất thú đương lai đồng.
Dịch nghĩa
Một vầng trăng sáng trong không trung,
Người trên thuyền nhận biết cảnh trời.
Mây dần trôi trăng dần sáng hơn,
Nước mặt hồ phẳng lặng và mênh mông.
Ra giữa hồ nhìn thấy núi Lư xa xa,
Thế núi hùng vĩ trong vùng Cửu Giang.
Sắc núi mờ nhạt như phấn xanh vẽ mi,
Vươn cao nơi chân trời sắp rạng sáng.
Mặt trời vừa ló khỏi ngọn Hương Lô,
Bụi nước từ thác nước tạo ra cầu vồng.
Từ lâu ta đã muốn theo Thượng tử ẩn cư,
Huống lại luôn tưởng nhớ Viễn công.
Ta nay đang kẹt du ngoạn,
Chưa thể ngưng đặng hưởng nhàn.
Chương trình rong chơi sông hồ chưa được một nửa,
Mà năm tháng với sao trời và sương khói sắp tận cùng.
Gửi lời tới chư vị đang ẩn cư trên núi,
Cái thú vị của các ông cũng như của tôi.
Bồi Diêu sứ quân đề Huệ thượng nhân phòng, tự Đắc Thanh
得青字
帶雪梅初暖,
含煙柳尚青。
來窺童子偈,
得聽法王經。
會理知無我,
觀空厭有形。
迷心應覺悟,
客思不遑寧。
Bồi Diêu sứ quân đề Huệ thượng nhân phòng, tự Đắc Thanh
Đới tuyết mai sơ noãn,
Hàm yên liễu thượng thanh.
Lai khuy đồng tử kệ,
Đắc thính pháp vương kinh.
Hội lý tri vô ngã,
Quán không yểm hữu hình.
Mê tâm ưng giác ngộ,
Khách tứ bất hoàng ninh.
Bồi Trương thừa tướng tự Tùng Tư giang đông bạc Chử Cung
放溜下松滋,
登舟命楫師。
詎忘經濟日,
不憚冱寒時。
洗幘豈獨古,
濯纓良在茲。
政成人自理,
機息鳥無疑。
雲物凝孤嶼,
江山辨四維。
晚來風稍急,
冬至日行遲。
臘響驚雲夢,
漁歌激楚辭。
渚宮何處是,
川暝欲安之。
Bồi Trương thừa tướng tự Tùng Tư giang đông bạc Chử Cung
Phóng lưu há Tùng Tư,
Đăng chu mệnh tiếp sư.
Cự vong kinh tế nhật,
Bất đạn hộ hàn thì.
Tẩy trách khởi độc cổ,
Trạc anh lương tại tư.
Chính thành nhân tự lý,
Cơ tức điểu vô nghi.
Vân vật ngưng cô tự,
Giang sơn biện tứ duy.
Vãn lai phong sảo cấp,
Đông chí nhật hành trì.
Lạp hưởng kinh Vân Mộng,
Ngư ca kích Sở từ.
Chử Cung hà xứ thị,
Xuyên minh dục an chi.
Chu trung hiểu vọng 舟中晓望
掛席東南望,
青山水國遙。
舳艫爭利涉,
來往接風潮。
問我今何去,
天台訪石橋。
坐看霞色曉,
疑是赤城標。
Chu trung hiểu vọng
Quải tịch đông nam vọng,
Thanh sơn thuỷ quốc dao.
Trục lô tranh lợi thiệp,
Lai vãng tiếp phong triều.
Vấn ngã kim hà khứ,
Thiên Thai phỏng thạch kiều.
Toạ khán hà sắc hiểu,
Nghi thị Xích Thành tiêu.
Dịch nghĩa
Thuyền đã kéo buồm rời bến, nhìn về phía đông nam,
Thấy núi xanh trong cảnh sông nước.
Thuyền bè san sát,
Xuôi ngược còn tuỳ hướng gió và con nước.
Hỏi ta muốn đi đâu,
Đi thăm cầu đá trong núi Thiên Thai.
Ngồi thấy núi có sắc như ráng chiều,
Nghi đó là ngọn của núi Xích Thành.
Dạ độ Tương thuỷ 夜渡湘水
客舟貪利涉,
暗裏渡湘川。
露氣聞芳杜,
歌聲識採蓮。
榜人投岸火,
漁子宿潭煙。
行侶時相問,
潯陽何處邊?
Dạ độ Tương thuỷ
Khách chu tham lợi thiệp,
Ám lý độ Tương xuyên.
Lộ khí văn phương đỗ,
Ca thanh thức thái liên.
Bảng nhân đầu ngạn hoả,
Ngư tử túc đàm yên.
Hành lữ thời tương vấn,
Tầm Dương hà xứ biên?
Dịch nghĩa
Khách đi đò nóng nôn muốn vội
Trong đêm đen thuyền vượt sông Tương
Hơi sương thoảng mùi thơm hoa đỗ
Tiếng hát vang, thiếu nữ hái sen
Ông lái cập thuyền nơi đèn sáng
Giữa sương đầm ngư phủ ngủ im
Bạn trên thuyền cùng nhau thăm hỏi:
Ở nơi đâu là xứ Tầm Dương?
Dạ quy Lộc Môn sơn ca 夜歸鹿門山歌
山寺鳴鐘晝已昏,
漁樑渡頭爭渡喧。
人隨沙岸向江村,
余亦乘舟歸鹿門。
鹿門月照開煙樹,
忽到龐公棲隱處。
岩扉松徑長寂寥,
唯有幽人獨來去。
Dạ quy Lộc Môn sơn ca
Sơn tự minh chung trú dĩ hôn,
Ngư lương độ đầu tranh độ huyên.
Nhân tuỳ sa ngạn hướng giang thôn,
Dư diệc thừa chu quy Lộc Môn.
Lộc Môn nguyệt chiếu khai yên thụ,
Hốt đáo Bàng Công thê ẩn xứ,
Nham phi tùng kính trường tịch liêu,
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
Dịch nghĩa
Chùa trên núi chuông đánh lên, sáng giờ đã tối
Đầu bến đò người ta tranh nhau qua đò ơi ới
Người ta đi dọc theo bãi cát đi về thôn xóm
Tôi cũng đi thuyền về lại Lộc Môn
Ở Lộc Môn trăng chiếu xuyên qua khói trong cây
Bỗng đi đến gần chỗ ở ẩn xưa của ông Bàng công
Cửa dựa vách đá, đường theo hàng tùng lâu ngày đã vắng lặng
Chỉ có kẻ ẩn dật mới đi qua đi lại
Dữ chư tử đăng Hiện Sơn 與諸子登峴山
人事有代謝,
往來成古今。
江山留勝跡,
我輩復登臨。
水落魚梁淺,
天寒夢澤深。
羊公碑字在,
讀罷淚沾襟。
Dữ chư tử đăng Hiện Sơn
Nhân sự hữu đại tạ,
Vãng lai thành cổ kim.
Giang sơn lưu thắng tích,
Ngã bối phục đăng lâm.
Thuỷ lạc ngư lương thiển,
Thiên hàn Mộng trạch thâm.
Dương công bỉ thượng tại,
Độc bãi lệ triêm khâm.
Dịch nghĩa
Chuyện đời có đổi thay có tàn tạ
Quá khứ tương lai làm nên lịch sử xưa nay
Núi sông còn ghi lại thắng tích
Để cho chúng ta lại có dịp lên đây chiêm ngưỡng
Nước xuống thấy đồ bắt cá nằm ngổn ngang
Trời lạnh thấy đầm Vân Mộng sâu
Bia đá Dương công còn đấy
Đọc xong nước mắt ròng ròng ướt đầy vạt áo
Đăng Tổng Trì tự phù đồ 登總持寺浮圖
半空躋寶塔,
晴望盡京華。
竹繞渭川遍,
山連上苑斜。
四門開帝宅,
阡陌俯人家。
累劫從初地,
為童憶聚沙。
一窺功德見,
彌益道心加。
坐覺諸天近,
空香送落花。
Đăng Tổng Trì tự phù đồ
Bán không tê bảo tháp,
Tình vọng tận kinh hoa.
Trúc nhiễu vị xuyên biến,
Sơn liên thượng uyển tà.
Tứ môn khai đế trạch,
Thiên mạch phủ nhân gia.
Luỹ kiếp tùng sơ địa,
Vi đồng ức tụ sa.
Nhất khuy công đức kiến,
Di ích đạo tâm gia.
Toạ giác chư thiên cận,
Không hương tống lạc hoa.
Đề Nghĩa Công thiền phòng 題義公禪房
義公習禪寂,
結宇依空林。
戶外一峰秀,
階前眾壑深。
夕陽連雨足,
空翠落庭陰。
看取蓮花淨,
方知不染心。
Đề Nghĩa Công thiền phòng
Nghĩa công tập thiền tịch,
Kết vũ y không lâm.
Hộ ngoại nhất phong tú,
Giai tiền chúng hác thâm.
Tịch dương liên vũ túc,
Không thúy lạc đình âm.
Khán thủ liên hoa tịnh,
Phương tri bất nhiễm tâm.
Dịch nghĩa
Nghĩa công tu thiền nhập tịch
Làm nhà ở cạnh rừng vắng
Ngoài cửa là một ngọn núi tú vĩ
Trước thềm là những hang sâu thăm thẳm
Bóng chiều đi theo với chân mưa
Vẻ xanh thẳm của không gian lạc vào trong bóng mát đình nhà
Nhìn thấy cầm bông sen u tĩnh
Mới biết tâm ấy không bị ô nhiễm
Độ Chiết Giang vấn đồng chu nhân
潮落江平未有風,
扁舟共濟與君同。
時時引領望天末,
何處青山是越中?
Độ Chiết Giang vấn đồng chu nhân
Triều lạc giang bình vị hữu phong,
Biển chu cộng tế dữ quân đồng.
Thì thì dẫn lĩnh vọng thiên mạt,
Hà xứ thanh sơn thị Việt trung?
Dịch nghĩa
Nước triều xuống, mặt sông phẳng lặng, chưa có gió.
Cùng ông đi trên chiếc thuyền nhỏ này.
Lâu lâu tôi lại rủ ông cùng nhìn về cuối trời:
(Và hỏi) trong rặng núi xanh đằng kia, chỗ nào là Việt châu?
Đồng Trương Tương Kế Môn khán đăng
異俗非鄉俗,
新年改故年。
薊門看火樹,
疑是燭龍然。
Đồng Trương Tương Kế Môn khán đăng
Dị tục phi hương tục,
Tân niên cải cố niên.
Kế môn khán hoả thụ,
Nghi thị chúc long nhiên.
Dịch nghĩa
Tục lệ ở đây khác tục lệ quê ta,
Năm mới sửa năm cũ.
Xem đèn (nguyên tiêu) ở Kế Môn,
Giăng mắc dài trên hàng cây, như con rồng lửa.
Hạ nhật Nam Đình hoài Tân Đại 夏日南亭懷辛大
山光忽西落,
池月漸東上。
散發乘夜涼,
開軒臥閒敞。
荷風送香氣,
竹露滴清響。
欲取鳴琴彈,
恨無知音賞。
感此懷故人,
中宵勞夢想。
Hạ nhật Nam Đình hoài Tân Đại
Sơn quang hốt tây lạc,
Trì nguyệt tiệm đông thướng.
Tán phát thừa tịch lương,
Khai hiên ngoạ nhàn xưởng.
Hà phong tống hương khí,
Trúc lộ trích thanh hưởng.
Dục thủ minh cầm đàn,
Hận vô tri ẩm thưởng.
Cảm thử hoài cố nhân,
Trung tiêu lao mộng tưởng.
Dịch nghĩa
Ánh mặt trời miền núi bỗng lạc về hướng tây
Mặt trăng ngoài ao từ từ lên ở hướng đông
Xoã tóc hóng mát đêm khuya
Mở cửa ra sân nằm nhàn hạ thoải mái
Gió từ bụi sen đem lại mùi hương thơm
Sương trên khóm trúc giọt xuống thánh thót
Muốn cầm đàn lên gãy
Hận không có kẻ tri âm thưởng thức
Cảm xúc tâm tình, nhớ đến bạn
Nửa đêm vật vã nhớ nhung trong mộng
Hý đề nhất tác hý tặng chủ nhân 戲題一作戲贈主人
客醉眠未起,
主人呼解酲。
已言雞黍熟,
復道甕頭清。
Hý đề nhất tác hý tặng chủ nhân
Khách tuý miên vị khởi,
Chủ nhân hô giải trình.
Dĩ ngôn kê thử thục,
Phục đạo ủng đầu thanh.
Lạc Trung phỏng Viên thập di bất ngộ
洛陽訪才子,
江嶺作流人。
聞說梅花草,
何如此地春?
Lạc Trung phỏng Viên thập di bất ngộ
Lạc Dương phỏng tài tử,
Giang Lĩnh tác lưu nhân.
Văn thuyết mai hoa thảo,
Hà như thử địa xuân?
Dịch nghĩa
Tới Lạc Dương tính thăm người tài,
Mới hay ông bị đày đi Giang Lĩnh.
Nghe nói hoa mai nở sớm.
Vậy mùa xuân ở đó thế nào?
Lâm Động Đình (Vọng Động Đình hồ tặng Trương thừa tướng)
八月湖水平,
涵虛混太清。
氣蒸雲夢澤,
波撼岳陽城。
欲濟無舟楫,
端居恥聖明。
坐觀垂釣者,
空有羨魚情。
Lâm Động Đình (Vọng Động Đình hồ tặng Trương thừa tướng)
Bát nguyệt hồ thuỷ bình,
Hàm hư hỗ thái thanh.
Khí chưng Vân Mộng trạch,
Ba hám Nhạc Dương thành.
Dục tế vô chu tiếp,
Đoan cư sỉ thánh minh.
Toạ quan thuỳ điếu giả,
Đồ hữu tiễn ngư tình.
Dịch nghĩa
Tháng tám mặt nước hồ bằng phẳng
Trời nước hỗn hợp một tầng không hư
Thuỷ khí nung đúc đầm Vân Mộng
Sóng hồ lay động thành Nhạc Dương
Muốn vượt hồ mà không có thuyền chèo
Ngồi yên thì thẹn thùng với thánh hiền
Ngồi xem những người buông câu
Chỉ trơ trơ hâm mộ cái thú câu được cá
Lưu biệt Vương thị ngự Duy 留別王侍御維
寂寂竟何待,
朝朝空自歸。
欲尋芳草去,
惜與故人違。
當路誰相假,
知音世所稀。
秪應守寂寞,
還掩故園扉。
Lưu biệt Vương thị ngự Duy
Tịch tịch cánh hà đãi,
Triêu triêu không tự quy.
Dục tầm phương thảo khứ,
Tích dữ cố nhân vi.
Đương lộ thuỳ tương giả,
Tri âm thế sở hy.
Chỉ ứng thủ tịch mịch,
Hoàn yểm cố viên phi.
Dịch nghĩa
Tối tối đợi chờ đến,
Sớm sớm không tự về.
Muốn đi tìm nơi cỏ thơm,
Tiếc rằng trái ý bạn cũ.
Người trên đường ai che chở đây,
Trên đời bạn tri âm thật hiếm.
Đành im lặng cho qua ngày,
Về vườn cũ cài chặt đám cỏ song.
Quá cố nhân trang 過故人莊
故人具雞黍,
邀我至田家。
綠樹村邊合,
青山郭外斜。
開軒面場圃,
把酒話桑麻。
待到重陽日,
還來就菊花。
Quá cố nhân trang
Cố nhân cụ kê thử,
Yêu ngã chí điền gia.
Lục thụ thôn biên hợp,
Thanh sơn quách ngoại tà.
Khai hiên diện trường phố,
Bả tửu thoại tang ma.
Đãi đáo trùng dương nhật,
Hoàn lai tựu cúc hoa.
Dịch nghĩa
Người bạn cũ bày biện cơm gà,
Mời ta đến chơi nhà ở nơi vườn ruộng.
Đám cây xanh mọc thành cụm ở quanh làng,
Ngọn núi xanh nghiêng nghiêng bên ngoài thành quách.
Ra ngoài hiên đối diện với vườn rau quả,
Nâng chén rượu nói toàn những chuyện trồng dâu trồng gai.
Hẹn nhau đến ngày trùng dương,
Sẽ trở lại nơi này để chơi hoa cúc.
Quảng Lăng biệt Tiết bất 廣陵別薛八
士有不得志,
栖栗吳楚間。
廣陵相遇罷,
彭蠡泛舟還。
檣出江中樹,
波連海上山。
風帆明日遠,
何處更追攀!
Quảng Lăng biệt Tiết bát
Sĩ hữu bất đắc chí,
Thê thê Ngô Sở gian
Quảng Lăng tương ngộ bãi,
Bành Lãi phiếm chu hoàn.
Tường xuất giang trung thụ,
Ba liên hải thượng sơn.
Phong phàm minh nhật viễn,
Hà xứ tiện truy phan!
Dịch nghĩa
Là kẻ sĩ bất đắc chí,
Dời nhà hoài trong đất Ngô, đất Sở.
Gặp nhau ở Quảng Lăng đã xong,
Nay nhàn nhã theo thuyền về hồ Bành Lãi.
Cột buồm rời bến như một cây cao trong sông,
Sóng vỗ vào mạn thuyền như vỗ vào núi trên sông.
Gió đưa buồm đi xa trong nắng gắt,
Nơi đến thuận tiện tìm nhau biết bao!
Tảo hàn giang thượng hữu hoài
木落雁南渡,
北風江上寒。
我家襄水曲,
遙隔楚雲端。
鄉淚客中盡,
孤帆天際看。
迷津欲有問,
平海夕漫漫。
Tảo hàn giang thượng hữu hoài
Mộc lạc nhạn nam độ,
Bắc phong giao thượng hàn.
Ngã gia Tương thuỷ khúc,
Dao cách Sở vân đoan.
Hương lệ khách trung tận,
Cô phàm thiên tế khan.
Mê tân dục hữu vấn,
Bình hải tịch man man.
Dịch nghĩa
Cây lá rụng, nhạn bay về nam
Gió bắc trên sông lạnh buốt
Nhà ta ở khúc sông Tương
Cách xa nước Sở mấy đường mây
Nước mắt nhớ quê khô cạn trên đất khách
Nhìn cánh buồm cô đơn ở góc trời
Mịt mùng bờ bến muốn hỏi lối về
Chỉ thấy biển tối chập chùng mênh mông
Trên đây, Thuvientho.com đã dành tặng cho quý độc giả những bài thơ đặc sắc của Mạnh Hạo Nhiên. Những bài thơ độc đáo này là nguồn cảm hứng của không ít những người yêu thơ. Mời các bạn đón xem phần cuối vào một ngày gần nhất. Hãy theo dõi chúng tôi để cập nhật những bài viết hấp dẫn hơn nhé! Thân Ái!
Theo Thuvientho.com