Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 3

Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 3

Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 3

Nhà thơ Tùng Thiện Vương là một nhà thơ lớn của nước ta. Ông là một nhà thơ hoàng tộc nhưng thơ ông lại có tinh thần yêu nước mãnh liệt. Ông vang danh nhờ những bài thơ chữ hán đặc sắc. Những bài thơ của ông luôn để lại dấu ấn đặc sắc trong lòng bạn đọc yêu thơ

Ở bài viết trước Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 2, Thuvientho.com đã nhận được rất nhiều phản hồi tích cực từ quý độc giả.

Không để các bạn chờ lâu hơn nữa, kính mời các bạn đón xem những bài thơ còn lại của nhà thơ tài hoa Tùng Thiện Vương ngay bây giờ!

Phù lưu tiền hành

Triêu tiến phù lưu tiền

Mộ tiến phù lưu tiền

Đại quan nghiệt phù lưu

Nãi tuyết tiểu dân oan

Đại quan đường trung tiền tác hư

Tiểu dân mại gia, hoàn mại phụ

Thử thân tuy tồn, gia dĩ hưu

Già tỏa hạnh thoát, phụ nan lưu

Bão nhi tạm lai dữ phu biệt

Lộ bàng đối khấp xan phù lưu.

Phụng sắc kính đề Nguyễn hậu

Họ Lưu bầy gái đã anh hùng,

Dịch lại khen ai cũng có công.

Trải suốt mười thiên dâng điện Bắc,

Chép dần ba phẩm nối tường Đông.

Vẽ bầu theo dạng tài chưa dễ,

Lấy sách làm gương ý chẳng cùng.

Liền chuyện nhớ chừng ngươi Tử Chính,

Một biên liệt nữ bấy nhiêu trung.

Quá Quảng Bình quan khẩu chiếm

花柳揚春色,

煙波遠客情。

遙憐山裏鳥,

猶似故園聲。

Quá Quảng Bình quan khẩu chiếm

Hoa liễu dương xuân sắc,

Yên ba viễn khách tình.

Dao liên sơn lý điểu,

Do tự cố viên thanh.

Dịch nghĩa

Hoa hồng liễu lục đậm đà sắc xuân

Khói bay trên sóng gợi nỗi niềm khách xa

Xa thương (tiếng) chim giữa núi

Còn giống tiếng ở vườn nhà

Quân mã hoàng 君馬黃

君馬黃臣馬白

金勒紫絲繮

籍空長安陌

滅影爾浮雲

堅蹄踏冰石

長劍高冠身七尺

男兒墜地思報國

甲骨留香死非惜

Quân mã hoàng

Quân mã hoàng thần mã bạch

Kim lặc tử ty cương

Tịch không Trường An mạch

Diệt ảnh nhĩ phù vân

Kiên đề đạp băng thạch

Trường kiếm cao quan thân thất xích

Nam nhi truỵ địa tư báo quốc

Giáp cốt lưu hương tử phi tích

Quất chi từ 橘枝詞

五月青青十月黃,

幾重風雨幾重霜。

甘心剖自情人手,

要識儂家徹骨香。

Quất chi từ

Ngũ nguyệt thanh thanh thập nguyệt hoàng,

Kỷ trùng phong vũ kỷ trùng sương.

Cam tâm phẫu tự tình nhân thủ,

Yếu thức nùng gia triệt cốt hương.

Dịch nghĩa

Màu tháng năm xanh, tháng mười chín vàng

Mấy tầng gió mưa mấy tầng sương

Bằng lòng để cho người tình tự tay lột lấy

Cốt để cho (người ấy) biết mình thơm tận xương

Sơn cư tảo khởi 山居早起

半榻松風曉夢清,

嵐光樹色未分明。

幽人早起橫琴坐,

聽得山禽第一聲。

Sơn cư tảo khởi

Bán tháp tùng phong hiểu mộng thanh,

Lam quang thụ sắc vị phân minh.

U nhân tảo khởi hoành cầm toạ,

Thính đắc sơn cầm đệ nhất thanh.

Dịch nghĩa

Nửa giường đầy gió thông, giấc mộng buổi sáng sớm trong vắt

Ánh núi màu cây chưa phân rạch ròi

Người ở ẩn dậy sớm, ngồi cầm ngang chiếc đàn

Nghe được tiếng đầu tiên chim núi hót

Sơn trung 山中

嘹喨碧林中,

樵歌聽清絕。

晚風捲谿雲,

明月塡山缺。

Sơn trung

Liệu lượng bích lâm trung,

Tiều ca thính thanh tuyệt.

Vãn phong quyển khê vân,

Minh nguyệt điền sơn khuyết.

Dịch nghĩa

Véo von trong rừng xanh

Tiếng tiều phu trong tuyệt

Gió chiều cuốn mây khe

Trăng sáng thay núi hở

Tàn tốt 殘卒 • Người lính sống sót

亂尸叢裡拔身還,

一領單衣戰血班。

倚杖獨沽山店酒,

自言生入海雲觀。

Tàn tốt

Loạn thi tùng lý bạt thân hoàn,

Nhất lĩnh đơn y chiến huyết ban.

Ỷ trượng độc cô sơn điếm tửu,

Tự ngôn sinh nhập Hải Vân quan.

Tạp cảm 雜感

鷓鴣啼可哀,

子規啼更苦。

修書謝百舌,

生成不自主。

Tạp cảm

Giá cô đề khả ai,

Tử quy đề cánh khổ.

Tu thư tạ bách thiệt,

Sinh thành bất tự chủ.

Tạp ngôn 雜言 • Nói chuyện lặt vặt

村女泰嬌癡,

垂髫喜喭幘。

不知芍葯花,

輕折贈賓客。

Tạp ngôn

Thôn nữ thái kiều si,

Thuỳ thiều hỉ ngạn trách.

Bất tri thược dược hoa,

Khinh chiết tặng tân khách.

Xem thêm:  Bài thơ Nộ – Nhà thơ Dương Tuấn

Tặng Cao Bá Quát 贈高伯适

跼蹐乾坤一介身,

天涯形影自相親。

故園松菊荒三逕,

殘夜風霜憶二人。

馬角不生空有淚,

刀頭欲卜更無因。

交情爲爾慇南顧,

日日金雞望赦頻。

Tặng Cao Bá Quát

Cục tích càn khôn nhất giới thân,

Thiên nhai hình ảnh tự tương thân.

Cố viên tùng cúc hoang tam kính,

Tàn dạ phong sương ức nhị nhân.

Mã giác bất sinh không hữu lệ,

Đao đầu dục bốc cánh vô nhân.

Giao tình vi nhĩ ân Nam cố,

Nhật nhật kim kê vọng xá tần.

Dịch nghĩa

Giữa đất trời một tấm thân khốn khổ

Nơi chân trời chỉ có hình và bóng tự thân thiết với nhau

Vườn cũ ba lối cúc tùng hoang lấp

Đêm tàn trong sương gió nhớ hai người

(Nghĩ đến chuyện) sừng ngựa không mọc luống rơi nước mắt

Muốn bói ngày về lại chẳng có nguyên do

Tình bạn bè vì ông ngoảnh nhìn về phương Nam lo lắng

Ngày ngày bao lần trông được ân xá

Tần cung từ 秦宮詞

徵歌選舞阿誰家,

獨捲霜簾望帝車。

上苑深深招復晚,

春風三十六年華。

Tần cung từ

Trưng ca tuyển vũ a thuỳ gia,

Độc quyển sương liêm vọng đế xa.

Thượng uyển thâm thâm chiêu phục vãn,

Xuân phong tam thập lục niên hoa.

Thai Dương chu dạ 邰陽舟夜

邰陽舊遊處,

繫纜倚漁磯。

海月隨潮湧,

江雲度嶺歸。

Thai Dương chu dạ

Thai Dương cựu du xứ,

Hệ lãm ỷ ngư ky.

Hải nguyệt tuỳ triều dũng,

Giang vân độ lĩnh quy.

Dịch nghĩa

Thai Dương là nơi ngày xưa đi du ngoạn

Cột thuyền dựa vào tảng đá nổi giữa nước của nhà chài

Trăng biển theo con nước lên

Mây trên sông qua tới núi bay về

Thu vọng 秋望 • Ngắm thu

落日登高處,

杪秋多烈風。

茫茫今古恨,

靜在不言中。

列嶂發晴翠,

孤禽橫暮空。

所思緲難極,

愁對菊花叢。

Thu vọng

Lạc nhật đăng cao xứ,

Diểu thu đa liệt phong.

Mang mang kim cổ hận,

Tĩnh tại bất ngôn trung.

Liệt chướng phát tình thuý,

Cô cầm hoành mộ không.

Sở tư miểu nan cực,

Sầu đối cúc hoa tùng.

Dịch nghĩa

Mặt trời lặn lên nơi cao

Cuối thu đầy gió mạnh

Mênh mang mối hận xưa nay

Đều không thể nói ra được

Những ngọn núi phát ra màu xanh biếc của bầu trời tạnh mưa

Con chim lẻ loi bay ngang qua khoảng không lúc chiều tối

Nỗi nghĩ nhớ dài dăc khó dứt

Buồn nhìn đám hoa cúc vàng

Thuật hoài kỳ 1 述懷其一

耿耿緣何事,

深宵坐屢移。

雨聲趨喝猛,

風勢颯樓巍。

海內徵求變,

軍中路布遲。

家猶應不已,

聖主設籌思。

Thuật hoài kỳ 1

Cảnh cảnh duyên hà sự,

Thâm tiêu toạ lũ di.

Vũ thanh xu hát mãnh,

Phong thế táp lâu nguy.

Hải nội trưng cầu biến,

Quân trung lộ bố trì.

Gia do ưng bất dĩ,

Thánh chủ thiết trù ti (tư).

Thuật hoài kỳ 2 述懷其二

星象宵誰景,

貔貅日戍邊。

虛生難報國,

何計已回遷。

書甲戔戔冷,

燈花故故園。

不眠頻藥茗,

詩誦四和篇。

Thuật hoài kỳ 2

Tinh tượng tiêu thuỳ cảnh,

Tỳ hưu nhật thú biên.

Hư sinh nan báo quốc,

Hà kế dĩ hồi thiên.

Thư giáp tiên tiên lãnh,

Đăng hoa cố cố viên.

Bất miên tần dược mính,

Thi tụng tứ hoà thiên.

Tống biệt – Phú đắc Quan san nguyệt 送別賦-得關山月

關山秋夜月明時,

影入離筵動客悲。

明日五更殘夢覺,

平分兩地照相思。

Tống biệt – Phú đắc Quan san nguyệt

Quan sơn thu dạ nguyệt minh thì,

Ảnh nhập ly diên động khách bi.

Minh nhật ngũ canh tàn mộng giác,

Bình phân lưỡng địa chiếu tương ti (tư).

Dịch nghĩa

Nơi đèo ải, đêm thu, lúc trăng sáng

Bóng soi vào tiệc tiễn đưa, động lòng khách buồn rầu

Ngày mai, giấc mộng năm canh tàn, tỉnh thức

Chia đều hai mảnh đất, rọi nỗi nhớ mong nhau

Tống Lương Tứ chi Quảng Nam 送涼思之廣南

廣南今戰地,

沃澤昔年非。

錦水深移巿,

茶山婁合圍。

狐持枯骨立,

鴉啄段腸飛。

辛苦東皋子,

誰憐亂後歸。

Tống Lương Tứ chi Quảng Nam

Quảng Nam kim chiến địa,

Ốc trạch tích niên phi.

Cẩm thuỷ thâm di thị,

Trà sơn lũ hiệp vi.

Hồ trì khô cốt lập,

Nha trác đoạn trường phi.

Tân khổ đông cao tử,

Thuỳ liên loạn hậu quy.

Dịch nghĩa

Quảng Nam nay đang là chiến địa

Ruộng tốt đầm sâu chẳng còn như năm xưa

Sông Cẩm Lệ đã dời chợ đi xa

Núi Trà Sơn bao lần vây kín

Chồn đứng ngậm xương khô

Quạ bay tha khúc ruột

Cay đắng thay những người con của ruộng nước phía đông

Ai thương kẻ về sau cơn ly loạn

Xem thêm:  Trăng nghẹn - Hoài Tường Phong

Tráng sĩ ca 壯士歌

半夜秋風來,

燈昏雨聲急。

哀歌人不聞,

獨與龍淵泣。

Tráng sĩ ca

Bán dạ thu phong lai,

Đăng hôn vũ thanh cấp.

Ai ca nhân bất văn,

Độc dữ Long Uyên khấp.

Trấn Vũ miếu 鎮武廟

高樓獨上思低徊,

寂寞寒鐘暮色催。

古樹有枝棲夜月,

殘碑無字鎖蒼苔。

百年銅像巍然在,

五代金門半已頹。

只剩西湖雲太好,

隨風猶拂畫簾來。

Trấn Vũ miếu

Cao lâu độc thướng tứ đê hồi,

Tịch mịch hàn chung mộ sắc thôi.

Cổ thụ hữu chi thê dạ nguyệt,

Tàn bi vô tự toả thương đài.

Bách niên đồng tượng nguy nhiên tại,

Ngũ đại kim môn bán dĩ đồi.

Chỉ thặng Tây hồ vân thái hảo,

Tuỳ phong do phất hoạ liêm lai.

Tre tróc gốc

Nghĩ mình đã ẩn chốn cao sâu,

Đến lúc trời xô cũng chỏng râu.

Trảy mắt những lăm đương rổ cá,

Vẹt gai khôn ngóng uốn cần câu.

Quản bao chú lính qua cào mặt,

Thương hại ông quan phải cúi đầu.

Những tưởng ngã ra đà tận số,

Ai hay dựng lại sống càng lâu.

Triều 潮 • Cơn triều

風急水雲昏,

潮頭白馬奔。

萬方殊起落,

一氣捲乾坤。

近海聲油壯,

經沙勢欲反。

不平緣底事,

誰問伍胥魂。

Triều

Phong cấp thuỷ vân hôn,

Triều đầu bạch mã bôn.

Vạn phương thù khởi lạc,

Nhất khí quyển càn khôn.

Cận hải thanh du tráng,

Kinh sa thế dục phiên.

Bất bình duyên để sự,

Thuỳ vấn Ngũ Tư hồn.

Dịch nghĩa

Gió thổi mạnh nước và mây tối mịt

Đầu ngọn triều ngựa trắng chạy nhanh

Muôn nơi dâng lên rút xuống khác nhau

Một luồng nguyên khí cuốn thu trời đất

Nơi gần biển tiếng gầm càng mạnh

Chỗ cát đùn đầy thế muốn lật lên

Nỗi bất bình duyên do sao vậy

Ai hỏi thử hồn Ngũ Tử Tư

Trường An đạo

長安道 長

長安道

塵浩浩

香車絲騎相續來

不遣路旁長春草

丈夫失志無所歸

寂寂塵中自年老Trường An đạo

Trường An đạo

Trần hạo hạo

Hương xa ty kỵ tương tục lai

Bất khiển lộ bàng trưởng xuân thảo

Trượng phu thất chí vô sở quy

Tịch tịch trần trung tự niên lão安道

Tuyệt bút 絕筆

半年學道太糊塗,

脫屣如今乃識途。

薦爽亭波天姥月,

水香林影有人無。

Tuyệt bút

Bán niên học đạo thái hồ đồ,

Thoát tỉ như kim nãi thức đô.

Tiến Sảng đình ba, Thiên Mụ nguyệt,

Thuỷ hương lâm ảnh hữu nhân vô?

Dịch nghĩa

Nửa đời học đạo mà vẫn quá hồ đồ

Bây giờ cởi dép (ý nói chết) mới thật là biết

Sóng đình Tiến Sảng, trăng chùa Thiên Mụ

Hương nước, bóng rừng, có hay không có ta?

Tự dật 自逸

濁酒一尊日暮,

落花萬點春闌。

天邊歸舟霧隱,

江畔罷釣波寒。

Tự dật

Trọc tửu nhất tôn nhật mộ,

Lạc hoa vạn điểm xuân lan.

Thiên biên quy chu vụ ẩn,

Giang bạn bãi điếu ba hàn.

Dịch nghĩa

Rượu lạt một bầu lúc trời tối

Hoa rơi vạn chấm buổi xuân tàn

Dưới chân trời chiếc thuyền về có sương mù che phủ

Bên bờ sông dừng câu cá, sóng đã lạnh

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 1

靈車五皷陟峰椒,

夾路香花湧海潮。

文佛生來文士葬,

西天此去不曾遙。

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 1

Linh xa ngũ cổ trắc phong tiêu,

Giáp lộ hương hoa dũng hải triều.

Văn phật sinh lai, văn sĩ táng,

Tây thiên thử khứ bất tằng diêu.

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 2

知君慧業故超然,

成佛分明在我前。

為說龍華舊遊侶,

幸留一席待他年。

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 2

Tri quân tuệ nghiệp cố siêu nhiên,

Thành phật phân minh tại ngã tiền.

Vị thuyết long hoa cựu du lữ,

Hạnh lưu nhất tịch đãi tha niên.

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 3

少小相知意氣深,

國音佳作每相尋。

從今縱有新詞句,

地下何人共賞心?

Tương An công vãn chương tam thủ kỳ 3

Thiếu tiểu tương tri ý khí thâm,

Quốc âm giai tác mỗi tương tầm.

Tòng kim túng hữu tân từ cú,

Địa hạ hà nhân cộng thưởng tâm?

Ức Bùi Lục 憶裴陸

月落山城煙路深,

哀猿啼斷易沾襟。

干戈滿地無家別,

知汝荊軻一片心。

Ức Bùi Lục

Nguyệt lạc sơn thành yên lộ thâm,

Ai viên đề đoạn dị triêm khâm.

Can qua mãn địa vô gia biệt,

Tri nhữ Kinh Kha nhất phiến tâm.

Ức Linh Sơn tự 憶靈山寺

不到靈山二十年,

谿光林影想依然。

之應自下青榕樹

每每春來憶泊船。

Xem thêm:  Bài thơ Còn Giữ Gì – Nhà thơ Dương Hoàng

Ức Linh Sơn tự

Bất đáo Linh Sơn nhị thập niên,

Khê quang lâm ảnh tưởng y nhiên.

Chi ưng tự hạ thanh dung thụ

Mỗi mỗi xuân lai ức bạc thuyền.

Dịch nghĩa

Hai mươi năm không đến chùa Linh Sơn

Vẻ sáng con suối chảy và bóng rừng nghĩ vẫn y như cũ

May ra, mé dưới chùa, cây đa hãy còn xanh biếc

Nhớ cứ mỗi một mùa xuân sang đến ghé thuyền

Văn thiền 聞蟬

送君曾此地,

一別欻經年。

愁殺長亭柳,

秋風起暮蟬。

Văn thiền

Tống quân tằng thử địa,

Nhất biệt hốt kinh niên.

Sầu sát trường đình liễu,

Thu phong khởi mộ thiền

Viên cư 園居

別墅倚平林,

柴扉面碧岑。

息機還愛靜,

觸興自成吟。

Viên cư

Biệt thự ỷ bình lâm,

Sài phi diện bích sầm.

Tức cơ hoàn ái tĩnh,

Xúc hứng tự thành ngâm.

Dịch nghĩa

Ngôi nhà riêng dựa vào khu rừng phẳng

Cửa gỗ hướng mặt ra phía núi xanh

Hiểu rõ lẽ biến dịch của trời đất trở về yêu thanh tịnh

Gặp hứng tự nhiên thành thơ

Viễn tứ 遠思 • Nghĩ nhớ xa xôi

遠思從何起,

中宵未穩眠。

長風連樹動,

片雨颯樓圓。

劍老光仍澀,

詩清意莫宣。

向來秋士感,

懷古益茫然。

Viễn tứ

Viễn tứ tòng hà khởi,

Trung tiêu vị ổn miên.

Trường phong liên thụ động,

Phiến vũ táp lâu viên.

Kiếm lão quang nhưng sáp,

Thi thanh ý mạc tuyên.

Hướng lai thu sĩ cảm,

Hoài cổ ích mang nhiên.

Dịch nghĩa

Từ đâu đâm ra nghĩ nhớ xa xôi

Đã nửa đêm rồi vẫn chưa yên ngủ

Trận gió to lay động hàng cây

Tiếng đám mưa rơi trên mái lầu êm nhẹ

Thanh gươm bền cứng, vẻ trơn láng lại rít sét như cũ

Bài thơ thanh lệ, ý đừng nói ra

Từ trước đến nay, cảm nghĩ của kẻ sĩ lỡ thời vận

Luyến nhớ thời xưa càng thấy thêm mịt mù

Xuân khuê 春閨

雙婀兩槳唱前溪,

百丈遊絲九陌西。

千里音書空憶雁,

半春情緒倦聞雞。

七囊錦字裁難寄,

六幅珠簾捲未齊。

二十四橋三五夜,

一聲八尺萬行啼。

Xuân khuê

Song a lưỡng tưởng xướng tiền khê,

Bách trượng du ti cửu mạch tê.

Thiên lý âm thư không ức nhạn,

Bán xuân tình tự quyện văn kê.

Thất nang cẩm tự tài nan ký,

Lục bức châu liêm quyển vị tề.

Nhị thập tứ kiều tam ngũ dạ,

Nhất thanh bát xích vạn hàng đề.

Dịch nghĩa

Đôi gái cắp đôi chèo đứng hát trước khe,

Trăm trượng tơ bay phấp phới trên không đều phát ra từ chín nẻo ở phương tây.

Trông nhạn trên không mang đến tin tức ngoài ngàn dặm,

Tình tự nửa chừng xuân đã mỏi mệt khi nghe tiếng gà gáy.

Khó gửi ý tứ vào chữ dệt thành gấm đựng trong bảy cái đãy,

Sáu tấm rèm châu cuốn lên chưa đều.

Khoảng canh ba, canh năm ở 24 cây cầu,

Một tiếng sáo cất lên thì có hàng vạn tiếng sáo cùng hoà theo.

Xuân khuê oán 春閨怨

四樓又見杏花飛

嫩綠荊黃柳漸肥

莫是年來春草遏

馬蹄行處不思歸

Xuân khuê oán

Tứ lâu hựu kiến hạnh hoa phi

Nộn liễu kinh hoàng liễu tiệm phì

Mạc thị niên lai xuân thảo át

Mã đề hành xứ bất tư quy

Dịch nghĩa

Bốn phía lầu lại thấy hoa hạnh bay

Cây kinh vàng nõn lục, cây liễu dần xanh bậm

Chẳng phải vì mấy năm nay cỏ xuân ngăn trở

Nên chân ngựa đến câc nơi, chẳng nhớ quay về

Xuy tiêu ỷ 吹簫倚

吹簫度新曲,

未合宮與商。

野音但趣適,

非要悅君王。

Xuy tiêu ỷ

Xuy tiêu độ tân khúc,

Vị hợp cung dữ thương.

Dã âm đãn thú thích,

Phi yếu duyệt quân vương.

Dịch nghĩa

Thổi sáo đưa khúc mới

Chưa hợp với Cung, Thương

Tiếng quê nghe vẫn thích

Không lựa vừa lòng vua

Trên đây, Thuvientho.com đã tiếp nối bài viết trước Nhà Thơ Tùng Thiện Vương Cùng Những Bài Thơ Đặc Sắc Phần 2 bằng những bài thơ hấp dẫn còn lại của ông. Những bài thơ luôn để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc yêu thơ. Chúng tôi luôn liên tục cập nhật những bài viết hằng ngày. Hãy đồng hành cùng chúng tôi để theo dõi những bài viết thật ấn tượng nhé! Thân Ái!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …