Nguyễn Khuyến sáng tác cả thơ chữ Hán lẫn thơ Nôm, tuy nhiên các bài thơ chữ Hán luôn được đánh giá cao hơn cả. Ông sống vào thời cuối thế kỷ 19, khi đó nhà Nguyễn đang bị suy thoái với các biến động manh nha. Và qua các sáng tác bằng chữ Hán ông đã thể hiện nhiều tâm tư tình cảm, ý chí và triết lý cao hơn. Cùng đón đọc các bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay nhất bạn nhé!
Hữu cảm kỳ 1
有感其一
沉思世變絕堪傖,
消長盈虛未易量。
宇宙方開新世界,
人民又別一鴻荒。
不知誰是為盤古,
休把浮談笑老莊。
心目未窮年漸老,
故園松匊自徜徉。
Hữu cảm kỳ 1
Trầm tư thế biến tuyệt kham sanh,
Tiêu trường doanh hư vị dị lường.
Vũ trụ phương khai tân thế giới,
Nhân dân hựu biệt nhất hồng hoang.
Bất tri thuỳ thị vi Bàn Cổ,
Hưu bả phù đàm tiếu Lão, Trang.
Tâm mục vị cùng niên tiệm lão,
Cố viên tùng cúc tự thảng dương.
Khách xá nguyên đán
客舍元旦
歲墓蹉跎珥水東,
春來不覺坐春風。
平章綠野千村外,
管領青陽兩袖中。
吏退垂簾公署靜,
花開憑几客心空。
縱觀便有神交者,
遼廓雲間未定鴻。
Khách xá nguyên đán
Tuế mộ tha đà Nhị thuỷ đông,
Xuân lai bất giác toạ xuân phong.
Bình chương lục dã thiên thôn ngoại,
Quản lĩnh thanh dương lưỡng tụ trung.
Lại thoái thuỳ liêm công thự tĩnh,
Hoa khai bằng kỷ khách tâm không.
Túng quan cánh hữu thần giao giả,
Liêu khuếch vân gian vị định hồng.
Dịch nghĩa
Cuối năm còn lần lữa ở phía đông sông Nhị
Xuân đến không biết mình ngồi trong bầu gió xuân
Ngắm nghía cánh đồng xanh ngoài nghìn thôn xóm
Thu lượm khí ấm mùa xuân trong hai ống tay áo
Nha lại về rồi mành buông xuống công đường im phăng phắc
Hoa nở tựa ghế ngồi lòng không bận bịu gì
Buông tầm mắt trông xa thấy có bạn thần giao
Là con chim hồng đang bay lửng lơ trong tấng mây man mác
Khổ nhiệt
苦熱
天上驅雲出火輪,
東窗隱几獨傷神。
能如頑石何知苦,
衹是良心尚未泯。
愚蜡承延終失恃,
驕蚊巢睫并欺人。
青風何處晚然至,
翰羽飄飄欲出塵。
Khổ nhiệt
Thiên thượng khu vân xuất hoả luân,
Đông song ẩn kỷ độc thương thần.
Năng như ngoan thạch hà tri khổ,
Kỳ thị lương tâm thượng vị dân.
Ngu lạp thừa duyên chung thất thị,
Kiêu văn sào tiệp tịnh khi nhân.
Thanh phong hà xứ vãn nhiên chí,
Hàn vũ phiêu phiêu dục xuất trần
Dịch nghĩa
Trên trời xua sạch mây cho vầng lửa ló ra
Tựa ghế bên cửa sổ hướng đông riêng cảm thấy trong mình khó chịu
Nếu trơ được như đá thì biết gì là khổ
Nhưng vì còn chút lương tâm chưa đến nỗi mất
Cho sứa là ngu bám lấy nó mà ăn dãi rốt cuộc rồi cũng mất nhờ
Coi thường con muỗi làm tổ trên mi mắt nó mà sống chỉ là chuyện lừa người thôi
Bỗng nhiên làn gió chiều từ đâu đưa đến
Làm cho mình như mọc lông cánh muốn bay ra khỏi cõi trần
Kiến lại
見吏
一官歸去六年餘,
病臥猶然畏簡書。
叩戶卻聞來有吏,
迷途常恐出無車。
百年屈指今逾半,
十事人心九不如。
役役胡勞名利夢,
何妨長與醉鄉居。
Kiến lại
Nhất quan quy khứ lục niên dư,
Bệnh ngoạ do nhiên uý giản thư.
Khấu hộ khước văn lai hữu lại,
Mê đồ thường khủng xuất vô cư (xa).
Bách niên quật chỉ kim du bán,
Thập sự nhân tâm cửu bất như.
Dịch dịch hồ lao danh lợi mộng,
Hà phương trường dữ tuý hương cư.
Kính
鏡
世間眉目總非真,
一柱金銅百萬身。
借問塵埃誰似我,
看來惟有鏡中人。
Kính
Thế gian my mục tổng phi chân,
Nhất trụ kim đồng bách vạn thân.
Tá vấn trần ai thuỳ tự ngã,
Khán lai duy hữu kính trung nhân.
Dịch nghĩa
Trên thế gian này mắt mày đều không thật
Một tấm kim đồng soi trăm vạn thân người
Ướm hỏi trong cõi trần ai ai là người giống ta?
Xem ra chỉ có cái người trong gương mà thôi
Kinh đề sơ phát
Trù trướng kim triêu ngã độc hành
Tân vân nhất mạt viên sơn thanh
Thu đa thử khí hoà tiên thực
Vũ thấp sa điền vị khả canh
Dã đỗ bất tri hà xứ thực
Hàn cầm do học khứ niên thanh
Tà duơng hồi thủ vân yên ngoại
Đa thiểu tương tri tại Lạc thành
Ký Bài Nhiễm Vũ Niên ông
寄排染武年翁
予病君今亦退居,
思君眇眇亦愁予。
果能避世世安避,
縱不疏人人自疏。
老矣不知當世務,
固哉猶讀古人書。
衹惟得近洋洋水,
有酒相尋自有魚。
Ký Bài Nhiễm Vũ Niên ông
Dư bệnh quân kim diệc thoái cư,
Tư quân diểu diểu diệc sầu dư.
Quả năng tỵ thế thế an tỵ,
Túng bất sơ nhân nhân tự sơ.
Lão hĩ bất tri đương thế vụ,
Cố tai do độc cổ nhân thư.
Chỉ duy đắc cận dương dương thuỷ,
Hũu tửu tương tầm tự hữu ngư.
Dịch nghĩa
Tôi ốm, nay bác cũng lui về ở nhà
Ngong ngóng nhớ bác lòng tôi cũng thấy buồn
Đành rằng có thể tránh đời được, nhưng tránh vào đâu?
Dù mình có muốn không xa người thì người cũng tự xa mình
Già rồi không biết đến việc đời này nữa
Gàn thay còn đọc mãi sách người xưa
Chỉ may được gần dòng nước mông mênh
Có rượu mang đến tìm nhau thì sẵn có cá ngay
Ký Châu giang Bùi Ân Niên
寄珠江裴恩年
滿目多新式,
傷心故舊稀。
人窮天未定,
道喪我安歸。
四海開風會,
千山老蕨薇。
珠江相憶處,
花落釣魚磯。
Ký Châu giang Bùi Ân Niên
Mãn mục đa tân thức,
Thương tâm cố cựu hy.
Nhân cùng thiên vị định,
Đạo táng ngã an quy?
Tứ hải khai phong hội,
Thiên sơn lão quyết vi.
Châu giang tương ức xứ,
Hoa lạc điếu ngư ky.
Dịch nghĩa
Bao nhiêu thể thức mới bày ra đầy trước mắt,
Đau lòng vì bè bạn cũ thưa vắng dần.
Mưu của người đã cùng rồi mà cơ trời còn chưa định,
Đạo học mất rồi, ta biết đi về đâu!
Bốn biển mở ra phong hội mới,
Nghìn non rau quyết rau vi bỏ già!
Nhớ Châu Giang, nơi chúng ta cùng nhau khi trước,
Chắc bến câu hoa đã rụng đầy!
Ký Duy Tiên án sát sứ
寄維先按察使
一別侵尋四五年,
聞君獨坐隊山巔。
雲間高唱星辰動,
夜半疏鐘木石眠。
三代以還將鬼魅,
九州此處定神仙。
東籬樽酒莫相笑,
一醉瀛寰濜渺然。
Ký Duy Tiên án sát sứ
Nhất biệt xâm tầm tứ ngũ niên,
Văn quân độc toạ Đội sơn điên.
Vân gian cao xướng tinh thần động,
Dạ bán sơ chung mộc thạch miên.
Tam đại dĩ hoàn tương quỷ mị,
Cửu châu thử xứ định thần tiên.
Đông ly tôn tửu mạc tương tiếu,
Nhất tuý doanh hoàn tận diểu nhiên.
Dịch nghĩa
Xa nhau thấm thoát đã bốn năm năm
Nghe nói bác ngồi một mình trên đỉnh núi Đọi
Giọng ngâm cất cao tận tầng mây trăng sao rung động
Tiếng chuông thưa lúc nửa đêm gỗ đá ngủ yên
Từ tam đại trở về sau hầu như là ma quỷ cả
Trong chín châu chắc chắn đây là nơi thần tiên
Có người đang nâng chén ở dậu phía đông xin bạn chớ cười
Hễ cứ đến lúc say thì mọi cuộc doanh hoàn đều mờ mịt hết
Ký hữu
寄友
昔日同朝拜聖君,
至今音響絕無聞。
江山錯落知何在,
朋輩彫零孰與群?
亂世行藏如獨鶴,
老來形影似孤雲。
祇緣幸得衰頹甚,
一點靈犀不十分。
Ký hữu
Tích nhật đồng triều bái thánh quân,
Chí kim âm hưởng tuyệt vô văn.
Giang san thác lạc tri hà tại,
Bằng bối điêu linh thục dữ quần?
Loạn thế hành tàng như độc hạc,
Lão lai hình ảnh tự cô vân.
Chỉ duyên hạnh đắc suy đồi thậm,
Nhất điểm linh tê bất thập phần.
Dịch nghĩa
Ngày trước cùng vào chầu bái yết thánh quân,
Đến nay tuyệt nhiên không thấy tin tức gì.
Non sông man mác biết ở nơi đâu,
Bè bạn hao mòn cùng ai họp mặt?
Ở đời loạn ra hay về như con hạc đơn chiếc,
Đến tuổi già, một hình một bóng như đám mây lẻ loi.
Chỉ vì may được suy yếu quá,
Một điểm thông suốt trong lòng như sừng con linh tê, chưa tỏ rõ được cả mười phần.
Ký Khắc Niệm Dương niên ông
寄克念楊年翁
去歲逢君今一年,
黃花翠竹入秋天。
頭童齒豁各如此,
眼炬聲鐘應且然。
苦恨所求千日醉,
放吟何必萬人傳。
城門擾擾塵埃甚,
只恐西湖壓暮煙。
Ký Khắc Niệm Dương niên ông
Khứ tuế phùng quân kim nhất niên,
Hoàng hoa thuý trúc nhập thu thiên.
Đầu đồng xỉ khoát các như thử,
Nhãn cự thanh chung ưng thả nhiên.
Khổ hận sở cầu thiên nhật tuý,
Phóng ngâm hà tất vạn nhân truyền.
Thành môn nhiễu nhiễu trần ai thậm,
Chỉ khủng Tây Hồ áp mộ yên
Dịch nghĩa
Gặp bác đến nay vừa một năm
Hoa vàng trúc biếc trời đã sang thu
Đầu hói răng thưa hai người đều thế
Mắt như đuốc, tiếng như chuông, có lẽ bác vẫn như trước
Tức giận lắm, chỉ muốn say hàng ngàn ngày
Thơ ngâm tràn, cần gì phải vạn người truyền tụng
Nơi thành thị đã bụi cát mù mịt
Chỉ sợ phía bên Tây Hồ cũng bị khói chiều đè nặng
Ký song hữu Lang Xá Lê ông
寄窗友良舍黎翁
老來同作亂離人,
況值凶年饑饉臻。
墻壁未修君患盜,
饔飧不給我憂貧。
勞勞塵世誰非役,
碌碌浮生患此身。
所以獨憐彭擇宰,
北窗醉臥夢魂春。
Ký song hữu Lang Xá Lê ông
Lão lai đồng tác loạn ly nhân,
Huống trị hung niên cơ cận trăn.
Tường bích vị tu quân hoạ ích,
Ung san bất cấp ngã ưu bần.
Lao lao trần thế thuỳ phi dịch,
Lục lục phù sinh hoạ thử thân.
Sở dĩ độc liên Bành Trạch tể,
Bắc song tuý ngoạ mộng hồn xuân.
Dịch nghĩa
Trở về già bọn ta đều là người đời loạn cả
Huống chi lại gặp năm mất mùa nạn đói kém dồn đến
Tường vách chưa sửa song bác thường lo mất trộm
Bữa sớm bữa tối không đủ tôi loa về cảnh nghèo
Trên cõi trần ai không phải làm ăn vất vả
Nhưng cái thân tầm thường trong kiếp sống nổi thì cũng đáng lo
Vì thế chỉ mến quan tể đất Bành Trạch
Trước song phía bắc say rượu nằm ngủ yên ổn
Kỷ Sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ độc toạ vô liêu dẫn mãn bất chỉ hựu văn đồng ấp nhất lão tồ lạc nhân cảm tác vân
己丑九月連夜風雨獨坐無聊引滿不止又聞同邑一老徂落因感作云
江山風雨近重陽,
貧病歸來酒後狂。
聞道西鄰亡一老,
不知此去是何鄉。
死生尻脊真閒事,
號泣笙簫枉斷腸。
醉矣添杯又添醉,
憑窗仰面看蒼蒼。
Kỷ Sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ độc toạ vô liêu dẫn mãn bất chỉ hựu văn đồng ấp nhất lão tồ lạc nhân cảm tác vân
Giang sơn phong vũ cận trùng dương,
Bần bệnh quy lai tửu hậu cuồng.
Văn đạo tây lân vong nhất lão,
Bất tri thử khứ thị hà hương.
Tử sinh khảo tích chân nhàn sự,
Hào khấp sinh tiêu uổng đoạn trường.
Tuý hĩ thiêm bôi hựu thiêm tuý,
Bằng song ngưỡng diện khán thương thương.
Dịch nghĩa
Núi sông trong cảnh mưa gió gần tiết trùng dương
Nghèo ốm cáo về uống rượu vào đâm ra cuồng
Nghe nói xóm tây có một ông già vừa mất
Chẳng biết chuyến này lão đi đến chốn nào?
Sống làm xương sống, chết làm xương cùng, đó là việc rất thường
Kêu khóc hoặc kèn sáo luống những đau lòng mà thôi
Say rồi uống thêm chén nữa lại say thêm
Tựa cửa ngòi ngửa mặt ngắm sắc trời xanh ngắt
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 1
己丑重陽其一
風雨蕭蕭九月天,
山河舉目蕞堪憐。
小池綠漲乃如此,
去歲黃花殊不然。
柳葉垂青光透日,
竹籬積翠暮浮煙。
近來不作登高興,
醉臥寒窗抱甕眠。
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 1
Phong vũ tiêu tiêu cửu nguyệt thiên,
Sơn hà cử mục tụi kham liên.
Tiểu trì lục trướng nãi như thử,
Khứ tuế hoàng hoa thù bất nhiên.
Liễu diệp thuỳ thanh quang thấu nhật,
Trúc ly tích thuý mộ phù yên.
Cận lai bất tác đăng cao hứng,
Tuý ngoạ hàn song bão úng miên.
Dịch nghĩa
Trời tháng chín tiếng gió mưa dào dạt
Trông vời non sông nghĩ rất đáng thương
Trong ao nhỏ nước xanh dâng lên như vậy
Cảnh hoa vàng năm ngoái đã khác hẳn rồi
Chồi liễu rú lá xanh có ánh mặt trời xuyên qua
Giậu tre um mầu biếc làn khói chiều bao phủ
Gần đây không có hào hứng lên chơi núi
Chỉ say nằm bên cửa sổ vắng ôm vò rượu mà ngủ
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 2
己丑重陽其二
重陽何處不躋攀,
隱几偏容一老閒。
花亦愛殘開未得,
酒因嗜飲惜成慳。
昨宵甚雨水窺巷,
此夜無雲月上山。
病眼矇矓乘醉望,
寒煙疏影有無間。
Kỷ Sửu trùng dương kỳ 2
Trùng dương hà xứ bất tê phan,
Ẩn kỷ thiên dung nhất lão nhàn.
Hoa diệc ái tàn khai vị đắc,
Tửu nhân thị ẩm tích thành khan.
Tạc tiêu thậm vũ thuỷ khuy hạng,
Thử dạ vô vân nguyệt thướng sơn.
Bệnh nhãn mông lung thừa tuý vọng,
Hàn yên sơ ảnh hữu vô gian.
Dịch nghĩa
Tiết trùng dương không nơi nào người ta không trèo núi
Riêng một mình lão ngồi tựa ghế thảnh thơi
Hoa cũng tiếc phải tàn nên chưa hoa nào chịu nở
Rượu vì nghiện ngập phải dè xẻn mà thành ra keo
Đêm trước mưa nhiều nước ngập nghé ngoài ngõ
Tối nay mây quang trăng nhô lên đầu núi
Mắt đau trong lúc say trong chỉ lờ mờ
Khói nhạt bóng mờ trông như có như không.
Lão sơn
老山
吾州一山是安老,
蔥蔥蔚蔚何鮮好。
我曾歷過萬重山,
卻怪不過此山道。
此山與我最相鄰,
曉翠昏陰入戶頻。
平原絕巘半空表,
遠望疑是獨立人。
山近我無頃刻步,
我歸山迎半日路。
彼此覿面欣欣然,
宛若相憐不相忤。
春前閣老阮龐齡,
訪我約我此山行。
我久衰病逸興少,
何以對此油然生。
近聞山溪漸茅基,
勉強扶筇且一步。
山名安老老者安,
或者晚年兩相得。
Lão sơn
Ngô châu nhất sơn thị An Lão,
Thông thông uất uất hà tiên hảo.
Ngã tằng lịch quá vạn trùng sơn,
Khước quái bất qua thử sơn đạo.
Thử sơn dữ ngã tối tương lân,
Hiểu thuý hôn âm nhập hộ tần.
Bình nguyên tuyệt nghiễn bán không biểu,
Viễn vọng nghi thị độc lập nhân.
Sơn cận ngã vô khoảnh khắc bộ,
Ngã quy sơn nghinh bán nhật lộ.
Bỉ thử địch diện hân hân nhiên,
Uyển nhược tương liên bất tương ngỗ.
Xuân tiền các lão Nguyễn Bàng Linh,
Phỏng ngã ước ngã thử sơn hành.
Ngã cửu suy bệnh dật hứng thiểu,
Hà dĩ đối thử du nhiên sinh.
Cận văn sơn khê tiệm mao cơ,
Miễn cưỡng phù cùng thả nhất bộ.
Sơn danh An Lão lão giả an,
Hoặc giả vãn niên lưỡng tương đắc.
Dịch nghĩa
Quả núi ở vùng ta là núi An Lão
Rườm rà sầm uất tốt đẹp biết chừng nào!
Ta đã trải qua muôn trùng núi khác
Lạ sao lại chưa từng qua núi này.
Núi này cùng ta rất gần nhau
Màu xanh buổi sáng, bóng râm buổi tối thường vào tận cưa ta
Giữa đồng bằng cao chót vót lưng chừng trời
Trông xa như người đứng một mình
Núi gần mf ta chưa có chốc lát nào bước tới
Nhưng khi ta về thì núi lại đón ta hàng nửa ngày đường
Ta cùng núi giáp mặt nhau đều hớn hở
Rõ ràng như thương mến nhau, không trái ý nhau
Mùa xuân vừa qua vì các lão là ông Bàng Linh họ Nguyễn
Đến thăm ta và hẹn ta đi thăm núi này
Lâu nay ta ốm đau ít hào hứng đi chơi
Sao mà đối với việc này tự nhiên lại hứng thú
Gần đây nghe nói khe núi cỏ mọc lấp dần
Ta gượng chống gậy lên núi xem sao
Núi có tên là An Lão có nghĩa là “già thì yên”
Có lẽ vì thế mà về già ta với núi cùng tương đắc với nhau chăng?
Lão thái
老態
吾年五十五年零,
醜態般般老盡形。
齒踣含酸如眾訟,
眼花掩卷漫傳經。
自憐鏡髮三分白,
剩有丹心一點靈。
莫怪憑窗連日醉,
我為不醉孰為醒?
Lão thái
Ngô niên ngũ thập ngũ niên linh,
Xú thái bàn bàn lão tận hình.
Xỉ bặc hàm toan như chúng tụng,
Nhãn hoa yểm quyển mạn truyền kinh.
Tự liên kính phát tam phần bạch,
Thặng hữu đan tâm nhất điểm linh.
Mạc quái bằng song liên nhật tuý,
Ngã vi bất tuý thục vi tỉnh?
Trên đây là các bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay mà chúng tôi đã chọn lọc và chia sẻ với bạn. Với các bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Đó chính là những tâm tư, ý chí và các suy nghĩ triết lý sâu sắc về cuộc đời này. Chính các sáng tác này đã để lại cho văn đàn một kho tàng thơ ca vô cùng đồ sộ.
Xem thêm:Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến hay đặc sắc phần 6
Theo Thuvientho.com