Home / Chùm thơ chọn lọc / Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 5

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 5

Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 5

Hoàng Trung Thông là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông thuộc lớp những nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông đã có rất nhiều cống hiến cho nền văn học hiện đại nước nhà.

Ông là một nhà thơ có bản lĩnh chính trị và tư tưởng rõ ràng. Bản lĩnh này thể hiện ở tinh thần trách nhiệm của anh trước quần chúng, trước Đảng. Có thể nói không một bài thơ nào của anh viết ra mà không vì mục đích phục vụ quần chúng

Thơ ông không chỉ là sức sống của một trái tim đa cảm, giàu trí tuệ mà còn là sức sống của một phong cách gần gũi, mộc mạc và đậm chất suy tư. Bạn là người yêu thơ chắc chắn sẽ không thể bỏ lỡ những tác phẩm của nhà thơ tài hoa này phải không?

Nào chúng ta hãy đến với phần 5 của những bài thơ dịch đặc sắc của Hoàng Trung Thông nhé!

Những tia chớp máu hồng

El rayo surca, sangriento,

El lóbrego nubarrón:

Echa el barco, ciento a ciento,

Los negros por el portón.

El viento, fiero, quebraba

Los almácigos copudos;

Andaba la hilera, andaba,

De los esclavos desnudos.

El temporal sacudía

Los barracones henchidos:

Una madre con su cría

Pasaba, dando alaridos.

Rojo, como en el desierto,

Salió el sol al horizonte:

Y alumbró a un esclavo muerto,

Colgado a un seibo del monte.

Un niño lo vio: tembló

De pasión por los que gimen:

¡Y, al pie del muerto, juró

lavar con su vida el crimen!

Bản Dịch

Những tia chớp máu hồng

Bắn lên đám mây dày u ám

Đoàn nô lệ da đen hàng vạn

Từ dưới thuyền chen chúc lên đây

Gió điên cuồng thổi bật gốc cây

Cây đại thụ ứa đầy nhựa sống

Đoàn nô lệ mình trần như nhộng

Cả đoàn người lê chậm bước chân

Lại mưa to gió bão réo gầm

Thổi vào mái nhà tranh sập đổ

Một bà mẹ bế bồng con nhỏ

Bước chân đi gào thét kêu la

Như từ lòng sa mạc bò ra

Vầng thái dương chói bầm máu tía

Soi lên xác một người nô lệ

Chết treo người lủng lẳng trên cây

Anh thanh niên đứng trước cảnh này

Cả toàn thân rung lên phẫn uất

Anh tuyên thệ bên thân người đã mất

Đem máu mình rửa sạch mối thù đây

1 1

1

Не спрашиваю, не выпытываю.

Сначала, как на полигоне,

Сам на себе Вьетнам испытываю,

Сам проверяю: все ли понял!

Не на экране, не на фото,

Не кто-то, за кого – мне больно,

Я сам ложусь вместо кого-то,

На чье-то место, добровольно.

Под бомбами, на поле рисовом,

Лежу, опять двадцатилетний,

Как в сорок первом, под Борисовом,

На той, считавшейся последней…

Bản Dịch

Tôi không hỏi, tôi không dò

Từ phút đầu như trên bãi tập

Tôi cảm thụ lấy Việt Nam

Tự kiểm tra mình: đã hiểu hết hay chăng?

Không phải trên màn ảnh, không qua tấm ảnh nào

Không phải ai đó, không vì ai kia mà chính tôi đau đớn

Tôi tự mình nằm xuống thay cho ai đó

Lên chỗ ai kia trong lòng tự nguyện

Dưới đạn bom trên đồng lúa

Tôi nằm trở lại tuổi hai mươi

Như năm bốn mốt ở Bô-ri-xốp

Trong cuộc chiến tranh xưa tưởng như đã cuối cùng

2 2

2

Под крышей пальмовой рябою

При керосиновом огне

Сначала мне,

С самим собою

Сидящему наедине,

Напоминает бой – о бое

И тишина – о тишине.

Потом вдруг все перевернется,

Как рано утром на войне,

И слышу, как вот-вот начнется

Вот в этой самой тишине…

Bản Dịch

Dưới mái nhà lá gồi lốm đốm

Bên ánh đèn

Lúc đầu

Tôi với tôi

Mình ngồi với mình

Chiến đấu nhớ lại – chiến đấu

Lặng im nhớ lại – lặng im

Rồi bỗng nhiên tất cả đảo tung lên

Như buổi sáng mai ngoài mặt trận

Và tôi nghe giây phút này đây sắp sửa bắt đầu

Chính từ trong im lặng đó…

3

Вот здесь мою жену убили.

Свалились с неба – и убили.

Воронка – около дороги,

А я шофер на старом ЗИСе,

Взад и вперед я еду мимо,

Четвертый год неутомимо,

Неутомимо, неутомимо.

И эта старая воронка,

В которой прорастают травы,

Четвертый год, как похоронка,

То слева от меня, то справа…

Bản Dịch

Ở nơi đây chúng đã giết mẹ tôi

Bom rơi tự trên trời – và đã giết

Hố bom – bên đường

Còn tôi, người lái xe tải cũ

Bên hố bom qua lại ngày thường

Năm tháng không mỏi mệt

Không mỏi mệt, không mỏi mệt

Hố bom cũ

mọc đầy cỏ biếc

Năm thứ tư như cái huyệt

Bên trái tôi, bên phải của tôi…

4

Моя сестра благополучно родила

В землянке, в результате операции.

Пилот, пустивший “шрайк” из-под крыла,

Цель поразив, сказал своим по рации:

“Я цел, о’кей!” – про эту операцию.

Осколок “шрайка” зацепил брюшину

Сравнительно удачна, так что плод

Был чуть задет.

До свадьбы заживет!

Ребенок еще вырастет мужчиной.

Пока в землянке резали и шили,

Там, наверху, еще бомбежка шла,

У операционного стола

Два старика велосипед крутили,

Велосипедной фарою светили,

Чтоб у хирурга видимость была.

Все хорошо. И летчик цел –

о’кей.

И женщина почти цела –

о’кей.

Ребенок почти цел – о’кей.

Моя сестра благополучно родила

В землянке, в ходе этой операции…

В которой честь

американской нации,

Как говорят,

защищена была…

Bản Dịch

Chị tôi ở dưới hầm

Sinh trọn vẹn nhờ vào phẫu thuật

Tên giặc lái ném bom “đúng mục tiêu” dưới đất

Báo tin về trận đánh, qua đài:

“Tớ vẫn còn nguyên vẹn – OK!”

Mảnh bom “đúng mục tiêu” vào bụng khéo ghê

Chỉ hơi chạm vào thai một tí

Cháu sẽ sống đến ngày cưới vợ

Sẽ lớn lên

thành người đàn ông!

Lúc đang khâu đang mổ dưới hầm

Trên mặt đất tiếng bom vẫn nổ

Hai ông già đạp chiếc xe bên bàn mổ

Ánh đèn xe soi cho nhà phẫu thuật thành công

Mội việc đều tốt lành

Và tên giặc lái vẫn còn nguyên vẹn

OK!

Và người phụ nữ hầu như nguyên vẹn

OK!

Chú bé cũng hầu như nguyên vẹn

OK!

Chị tôi sinh trót lọt dưới hầm

Nhờ vào tài phẫu thuật thành công…

Trong trận này

thanh danh nước Mỹ

Như chúng nói

được hoàn toàn bảo vệ…

5

Под бомбами, прочь

Уводя от смертей,

Сотую ночь

Мы будим детей.

Будим детей.

Их с юга вдоль моря

На север ведем

И, плача от горя,

Им спать не даем,

Спать не даем.

Пока отбомбят,

Весь день они ждут,

А ночью не спят,

Ночью идут,

Ночью идут.

Лишь смеркнется чуть,

Детдом встает

И, чтоб не заснуть,

Хором поет,

Хором поет.

Старшему – девять,

Младшему – пять,

Три месяца детям

Хочется спать,

Хочется спать.

У всех у них пали

Отец или мать,

Но, кроме того, еще

Хочется спать,

Хочется спать…

Ничья уже совесть,

Проснувшись сейчас,

Тех детских бессонниц

Не вынет из глаз,

Не вынет из глаз.

И нету ни средства,

Ни сил у врачей

Обратно то детство

Отнять у ночей,

Отнять у ночей…

Bản Dịch

Dưới những tiếng bom

Để đưa các em ra khỏi nơi chết chóc

Chúng tôi hàng trăm đêm

Đã đánh thức các em

Đã đánh thức các em

Đưa các em từ Nam ra Bắc

Đi theo đường biển khơi

Và chúng tôi khóc đứt từng khúc ruột

Làm các em không ngủ được

Làm các em không ngủ được

Đợi tới lúc ngừng bom

Cả ngày các em đợi

Các em chẳng ngủ nghê gì

Đêm các em phải đi

Đêm các em phải đi

Vừa xâm xẩm tối trời

Cả trại trẻ tỉnh dậy

Để khỏi ngủ gật ngủ gà

Cả trại hát đồng ca

Cả trại hát đồng ca

Em lớn – chín tuổi

Em bé – lên năm

Đã ba tháng ròng

Các em thiếu ngủ

Các em thiếu ngủ

Các em đều mất cha

Hoặc là mất cả mẹ

Ngoài điều đó ra

Các em còn thiếu ngủ

Các em còn thiếu ngủ

Không lương tâm của ai

Bây giờ thức tỉnh

Có thể lấy từ mắt các em

Cái thiếu ngủ ngày đêm

Cái thiếu ngủ ngày đêm

Và không có cách nào

Kể cả tài bác sĩ

Có thể lấy lại cái tuổi thơ

Của những đêm trường

Của những đêm trường

6

С чего начинается память –

с берез?

С речного песочка?

С дождя на дороге?

А если – с убийства!

А если – со слез!

А если – с воздушной

тревоги!

А если с визжащей пилы в облаках,

Со взрослых, в пыли распростертых!

А если с недетского знания –

как

Живое становится мертвым!

И в пять,

и в пятнадцать,

и в двадцать пять лет

Войной начинается память.

Здесь, в этой стране,

где непомнящих – нет,

Попробуем это представить…

7

Здесь отделенье самообороны

Из пулемета сбило самолет.

Вот здесь бомбил он.

Вот следы воронок.

Вот здесь упал он.

Здесь зарыт пилот.

Крестьяне, руки в небо подымая,

Показывают направленье трасс.

Да, я не мальчик,

да, я понимаю –

Мне говорят все это в сотый раз.

И легендарность этого успеха

Уже вошла в их деревенский быт,

И не волнение, а только эхо

Волнения в их голосах звучит.

Все так.

Но самолет был ими сбит

Над их домами,

И четыре года

В нелетную

и в летную

погоду

Тоm самолет над ними не летит…

Bản Dịch

Ở đây đơn vị tự vệ

Súng trường hạ máy bay

Chúng thả bom chỗ này

Chỗ này bom đào xoáy

Máy bay rơi ở đây

Ở đây chôn giặc lái

Các nông dân giơ tay lên trời chỉ trỏ

Vẽ đường bay

Vâng, tôi không còn bé bỏng,

Vâng, tôi đã hiểu rồi

Hàng trăm lần họ kể cho tôi

Và sự thần kỳ của chiến công oanh liệt đó

Đã nhập vào cuộc sống nông thôn của họ

Và không phải sự bồi hồi mà chỉ tiếng vang

Của sự bồi hồi đã thốt ra từ giọng họ vang xa

Xem thêm:  Những bài thơ ngắn hay về nghề Seo và Marketing chọn lọc

Tất cả là vậy đó

Những máy bay bị họ bắn rơi

Trên nóc nhà của họ

Và đã bốn năm rồi

Hôm thời tiết xấu và cả buổi đẹp trời

Máy bay Đó không còn bay trên mái đầu họ nữa…

Nguồn: Việt Nam hồn tôi, NXB Văn học, 1974

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)

☆☆☆☆☆ 15.00Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Thái Bá Tân

Gửi bởi hongha83 ngày 10/12/2012 22:17

Một đơn vị dân quân, bằng súng máy

Ðã bắn rơi máy bay.

Hắn ném bom ở đây –

những hố bom còn đấy.

Và hắn rơi, xác chôn đằng kia.

Người nông dân sôi nổi kể tôi nghe,

Tay giơ cao, vẽ những đường nhào bắn.

Tôi đã thấy, đã nghe hàng trăm trận.

Không là trẻ con, tôi rất hiểu điều này.

Người nông dân Việt Nam thế đấy,

Bắn rơi máy bay trên nóc nhà.

Và suốt bốn năm trên bầu trời nước Nga

Chiếc máy bay kia chưa một lần nhào bắn!

8

…Я не видал жены семнадцать лет.

Летают люди даже через полюс,

Но нам с женой

не продадут билет

На пароход,

на самолет,

на поезд.

Мы, как ножом,

разрезаны рекой

И, с двух сторон

дойдя до переправы,

Соединиться не имеем права.

Семнадцать лет –

как есть закон такой!

Дочь родилась там,

без меня.

Жена состарилась там,

без меня.

Сын стал солдатом

без меня.

Все без меня там.

Все без меня…

Где я живу?

Я в Костроме живу,

Моя жена – под Курском.

Дети – с нею.

Нет, я не лгу!

Как я вам лгать посмею!

Я даже эту реку назову!

Река – Ока!

Уже семнадцать лет,

Как вдоль нее проложена граница,

И чтобы мне с семьей соединиться,

Через нее – билетов нет

и нет.

Проезд закрыт по карте

вниз и вверх.

И я, не в силах совладать с тоскою,

Живу в России,

русский человек,

Как надвое разрубленный

Окою.

Я многое забыть себе велел,

Но та река

никак не забывается.

Семнадцатая параллель –

Стихотворенье называется…

9

Напоминает море — море.

Напоминают горы — горы.

Напоминает горе — горе;

Одно — другое.

Чужого горя не бывает,

Кто это подтвердить боится,-

Наверно, или убивает,

Или готовится в убийцы…

Bản Dịch

Nhắc nhở tới biển khơi – biển khơi

Nhắc nhở tới núi rừng – rừng núi

Nhắc nhở tới khổ đau – khổ đau

Điều nọ – điều kia nhắc nhở tới

Không nỗi khổ đau nào là của người dưng

Người nào sợ đến đây giúp đỡ

Đã có thể thành một kẻ sát nhân

Nếu không, cũng chuẩn bị thành kẻ đó

Bản thảo

Южанин рассказывает, как на Юге

Семь лет провел на войне.

Автоматом заняты руки,

А рукопись – на спине.

Вчерне закончена – третий год,

Но не с кем послать в Ханой.

Политрук со своею ротой идет

И с рукописью за спиной.

Он под огнем, и она под огнем,

И его и ее осколком задело,

На спине прихваченную ремнем,

Словно второе тело.

В джунглях спрятать?

Съест тля дотла.

В землю зарыть?

За месяц сгниет,

Как будто и не писал ничего.

Кому-то оставить?

А вдруг убьет

Не тебя, а его!

Говорит, как страх подталкивал в спину,

Как последние дни считал по часам,

Когда нес ее тропой Хо Ши Мина,

Свою книгу, с войны, сам.

Как, с трудом разбирая черновики, –

Еще на полгода муки! –

Ее вновь переписывал от руки, –

Раньше не доходили руки.

(Как у нашего Быкова в сорок пятом

Всё были заняты автоматом.)

Начинает подробности объяснять,

Словно речь о неведомом, непохожем,

Хотя мы-то как раз – можем понять.

Мы-то как раз можем…

Bản Dịch

Người miền Nam kể chuyện, ở miền Nam

Đã bảy năm anh ở ngoài mặt trận

Đôi bàn tay cầm súng

Bản thảo trên lưng

Bản nháp viết xong – năm thứ ba rồi

Không gửi ai về Hà Nội đăng

Chính trị viên cùng đại đội hành quân

Bản thảo trên lưng đeo nặng

Anh dưới đạn, bản thảo cùng dưới đạn

Và anh, và bản thảo trên lưng

Bằng chiếc thắt lưng da buộc chặt

Như cơ thể thứ hai, bị trúng mảnh bom

Giấu ở rừng chăng?

Mối xông lên mất

Chôn dưới đất chăng?

Một tháng thôi cũng nát

Như chả viết tí gì

Gửi ai chăng?

Chúng về chúng giết

Không phải anh

Mà người giữ giùm anh

Anh kể rằng lo ngại thúc vào lưng

Trong giờ phút cuối cùng suy tính

Khi mang theo trên đường mòn Hồ Chí Minh

Quyển sách của mình từ mặt trận

Đã chật vật từng tờ sắp xếp

Thêm nửa năm nhọc nhằn

Phải tự tay mình chép lại

Với bàn tay trước đó bút khôn cầm

(Như Bưkốp của chúng ta năm Bốn mươi nhăm

Đôi bàn tay bận cầm khẩu súng)

Anh giải thích với chúng tôi tỉ mỉ

Như chưa đâu có chuyện này kỳ dị

Tuy chính chúng tôi – có thể hiểu rồi

Chính chúng tôi có thể…

Tặng bà mẹ Bôric Gobatốp

Даже не поверилось сначала:

Моряки, одесские ребята,

Стоя у Хайфонского причала,

Красят теплоход “Борис Горбатов”.

Я давно не виделся

с Борисом.

Говорят: здоров, всей грудью дышит,

Ходит быстро. Жалко только – писем

Нам, своим товарищам, не пишет.

У него хорошая работа,

Он всегда любил ее такую,

Только перебрался из пехоты

На другую службу, на морскую.

Мама, сын Ваш ходит где-то в море

Что Вы живы, может быть, не зная,

Мама, сядьте, напишите Боре,

Пусть в ответ хотя бы просигналит.

Ну, а если сам Вас не услышит,

Где-нибудь с короткого привала

Капитан Вам за него напишет,

Так оно и на войне бывало…

Bản Dịch

Lúc đầu khó mà tin được

Các thuỷ thủ, những chàng trai Ôđétxa

Đứng trên bến cảng Hải Phòng

Trang trí chiếc tàu “Bôric Gobatốp”

Đã lâu tôi chưa gặp

Bôric

Nghe nói rằng: Anh khoẻ, ngực phồng căng

Đi nhanh. Nhưng chỉ tiếc

Anh không viết cho chúng tôi, những đồng chí của anh

Công việc anh rất tốt

Anh yêu công việc hằng ngày

Chỉ có chút đổi thay

Từ đường bộ anh chuyển sang đường thuỷ

Mẹ ơi, con của mẹ đang đi ngoài biển cả

Mẹ đang sống mà sao mẹ không hay

Ngồi xuống, Mẹ ơi, viết thư cho Bôric

Ít ra anh cũng đánh điện về đây

Vâng nếu như anh không được tin của mẹ

Ở bến bờ nào dừng bước chân anh

Thì thuyền trưởng sẽ vì anh viết hộ

Đó chuyện thường tình trong chiến tranh

Tặng đồng chí Tố Hữu, người dịch “Đợi anh về”

Я знаю, здесь мои стихи живут

В прекрасном Вашем переводе.

И будут жить, покуда жены ждут

Тех, кто в походе.

Уж четверть века пушки бьют и бьют!

И вдовы на могилы ходят,

И, ждя живых, мои стихи живут

В прекрасном Вашем переводе.

Скорей бы наступил тот год

На длительном пути к свободе,

Когда стихи, как люди, свой поход

Закончат в Вашем переводе.

Пусть в этот день, когда уже не ждут

С войны людей и – тишина в природе,

Мои стихи, легко вздохнув, умрут

В прекрасном Вашем переводе.

Bản Dịch

Tôi biết rằng ở đây bài thơ tôi đã sống

Trong lời dịch tuyệt vời của Anh

Và sẽ sống, khi người vợ còn phải đợi

Những người đang hành quân

Một phần tư thế kỷ rồi

Súng nổ còn cứ nổ

Và những người vợ goá vẫn đi thăm mộ

Đợi chờ những người sống, bài thơ tôi

Còn sống trong lời thơ anh dịch tuyệt vời

Trên con đường dài đến tự do độc lập

Tôi mong năm tháng ấy đến mau

Khi thơ cũng như người kết thúc cuộc hành quân

Trong lời dịch của Anh

Mong ngày đó, khi không ai phải đợi

Những người từ tiền phương trở lại

Và thanh bình trong thiên nhiên

Thơ của tôi, thở phào êm ái

Sẽ chết

Trong lời dịch tuyệt vời của Anh

Cuộc cách mạng thất bại

Nous reviendrons foule sans nombre,

Nous viendrons par tous les chemins.

Spectres vengeurs sortant de l’ombre,

Nous viendrons nous serrant les mains

Tout est fini! les forts, les braves,

Tous sont tombés, ô mes amis,

Et déjà rampent les esclaves,

Les traîtres et les avilis.

O mes amours! O République!

Pour toi comme on donnait son sang

Avec l’hymne patriotique

Comme on tombait joyeusement.

Oui, nous reviendrons! ô mes frères!

Nous reviendrons morts ou vivants!

Partout sous les rouges bannières

On écrasera les tyrans!

Comme l’herbe sous la faucille.

Sont tombés foule et combattants,

Mais quand nous serons triomphants

Pour un, il nous en faudra mille!

Ah! quand viendra notre revanche!

Épouvantés de vos forfaits

Pâles frissons de terreur blanche

Allez, vous dormirez en paix!

Bản Dịch

Chúng ta sẽ trở về, người người lớp lớp

Từ vạn đường, ta sẽ trở về đây

Hồn báo thù, chạy ra từ bóng tối

Ta sẽ trở về, tay nắm chặt tay!

Hết cả rồi, người dũng cảm, kẻ kiên cường

Các bạn ơi, họ đều đã ngã

Bọn tôi đòi, quân phản bội, phường xấu xa

Lũ chúng nó đang bò ra tất cả!

Ôi ta yêu, hỡi nền Cộng hoà!

Vì người, biết bao nhiêu máu đổ

Với bài ca yêu nước ta ca

Thân ngã xuống mà lòng hớn hở

Vâng, anh em ơi, chúng ta sẽ trở về

sống hay chết, ta cũng về trở lại

Khắp nơi nơi, dưới ngọn cờ đỏ chói

Ta đạp cho tan nát lũ cường quyền

Quần chúng và chiến sĩ chúng ta ngã xuống

Như đám cỏ xanh rơi dưới lưỡi liềm

Nhưng đến lúc chúng ta chiến thắng

Một mạng ta, chúng phải đổi nghìn

Ôi cái ngày phục thù của chúng ta sẽ tới

Sợ đầu hàng chúng phải run lên

Bọn khủng bố mặt mày tái nhợt

Được, chúng bay rồi sẽ ngủ yên.

Tự trào 自嘲 •

運交華蓋欲何求?

未敢翻身已碰頭。

破帽遮顏過鬧市,

漏船載酒泛中流。

橫眉冷對千夫指,

俯首甘為孺子牛。

躲進小樓成一統,

管他冬夏與春秋。

Bản Dịch

Gặp khi vận rủi há mong cầu?

Chưa dám vươn thân đã cụng đầu

Mũ cũ che mày qua phố rộn

Thuyền rò chở rượu vượt sông sâu

Mắt trừng đối mặt phường hung bạo

Cổ cúi làm trâu đám tí nhau

Nấp chốn lầu con thành nhất thống

Kể gì Đông, Hạ với Xuân, Thu.

Xem thêm:  Trần Phong – Chùm thơ Khổng Tử được bạn đọc đánh giá cao nhất

Cắm cờ hồng giữa bến Tử Dương

队长的哨子呼呼响,挂枪上马人人忙。

听说王贵受苦刑,半夜三更传命令:

“王贵是咱好同志,再怎么也不能叫他把命送!”

二十匹马队前边走,赤卫军、少先队紧跟上。

马蹄落地嚓嚓响,长枪、短枪、红樱枪。

人有精神马有劲,麻麻亮时开了枪。

白生生的蔓菁一条根,庄户人和游击队是一条心。

听见枪声齐下手,菜刀、鸟枪、打狗棍;

里应外合一起干,死羊湾闹的翻了天。

枪声乱响鸡狗乱叫唤,游击队打进了死羊湾。

崔二爷在炕上睡大觉,听见枪声往起跳。

打罢王贵发了瘾,大烟抽得正起劲;

黄铜烟灯玻璃罩,银镶的烟葫芦不能解心焦;

大小老婆两三个,那个也没有香香好!

肥羊肉掉在狗嘴里头,三枪两枪夺不到手。

王贵这一回再也活不成,小香香就成了我的人。

越想越甜赛沙糖,涎水流在下巴上。

烟灯旁边做了一个梦,把香香抱在怀当中;

又酸又甜好梦做不长,”噼啪””噼啪”枪声响。

头一枪惊醒坐起来,第二枪响时跳下炕。

连忙叫起狗腿子:”关着大门快上房!”

“那边过来那边打,一人赏你们十块响洋。”

人马多枪声稠不一样,崔二爷心里改了主张,

朝霞满天似火烧,崔二爷从后门溜跑了。

太阳出来天大亮,红旗插在山畔上。

太阳出来一朵花,游击队和咱穷汉们是一家。

滚滚米汤热腾腾的馍,招待咱游击队好吃喝。

救下王贵松开了绳,同志们个个眼圈红。

把王贵痛的直昏过,香香哭着叫哥哥:

“你要死了我也不得活,睁一睁眼睛看一看我!”

Bản Dịch

Đánh cáo xong thỏ về tổ ấm

Lão Thôi nghe cách mạng thì lo

Suốt ngày mắt chẳng nhắm cho

Mảnh tường cũng tưởng Hoàng Hà nước dâng

Hết dò lại cố hỏi thăm

Tìm xem cộng sản trong làng là ai?

Nghe tin Vương Quý xong rồi

Nó như lửa bỏng nước sôi trong đầu!

Quý dắt dê vừa vào cửa cổng

Nó đem dây trói cứng cả người

Chân tay trói chặt xong xuôi

Xà treo dây sẵn rút người lên cao

Dân làng trai gái xôn xao

Xem làm cách mạng thế nào, ở đâu?

Đánh tan hai chiếc song tàu

Nó phun nước lã xuống đầu xuống tai

Ngọn đèn treo sáng ngời bốn phía

Cả toàn thân Vương Quý đèn soi

Hai dây trói chặt lấy đùi

Cuộn như con vịt đang bơi mặt hồ

Khắp mình mẩy máu khô máu ướt

Như con bê vừa lột da xong

Lão Thôi độc ác vô cùng

Một roi đánh dứt, hỏi cung một lời:

– “Con cóc thối đòi xơi thịt ngỗng?

Hạng thằng nghèo cũng mộng lớn lao?

Đái ra soi bóng xem sao

Mày cừu mắt chuột đời nào thành tinh

Tuyết nào giữa tháng năm có nữa

Mặt trời đâu mọc ở hướng tây?”

– “Chó già đừng có ra oai

Chỉ ba ngày nữa, mạng mày biết thôi!

Tao đây dẫu có chết rồi

Dân cày còn có triệu người sau lưng”

– “Quý ơi! đừng có huênh hoang

Nói chi thì cũng họ hàng với nhau

Ông Thôi ngược đãi mày đâu

Khỉ con nuôi mãi bắt đầu lớn khôn

Qua sông mày phá cầu luôn

Đủ lông mày lại quên ơn phụ lòng

Ngựa không bệnh, ngựa hoá rồng

Bao nhiêu ngày trước mày không nhớ à?

Con quay về, mẹ cha vàng chẳng đổi

Quẳng dao rồi thành phật tiên ngay

Bao nhiêu sai thất của mày

Trẻ người non dạ tao đây lạ gì”

– “Đừng chan cơm hỡi lão già kia

Cứng rồi mềm không làm gì tao được

Mày là đứa đầy lòng gian ác

Giết cha rồi mày lại bắt con

Làm quanh năm chết mỏi chết mòn

Năm năm trọn không được đồng xu nhỏ

Đang nửa đêm trâu bò ăn cỏ

Thằng chó già gọi dậy cho mau

Không áo quần, chẳng chiếu chăn đâu

Năm năm chỉ áo da rách rúm

Mày ăn toàn cơm thơm gạo trắng

Tao ăn toàn tấm cám quanh năm

Nói một câu, mày trợn mắt ba lần

Trong ba ngày phải chịu đòn hai bữa

Mày họ Thôi cũng mẹ mày sinh nở

Vương Quý tao cũng chín tháng mười ngày

Mày là người, tao cũng người đây

Sao mày lại vô lương tâm thế hở?

Tao tuy nghèo nhưng mắt tao sáng tỏ

Công việc tao, tao đã đinh ninh

Cách mạng thành công, tao sẽ vươn mình

Không cách mạng, tao khó lòng sống nổi

Bọ chưa chết, bọ còn nhảy mãi

Loại bọ kia cũng giống tao đây

Giết hay sao cũng ở tay mày

Lòng quỷ sứ tao đây đã biết

Cứng rồi mềm bày ra cho hết

Nghe theo mày cho mất tiệt lương tâm

Con toán mày bỏ thử mấy lần

Cũng không thể làm tao thành giống chó”

Lão hai Thôi lồng lên nhăn nhó

Cấu mặt mày như chó nổi điên:

– “Mày như giống chó đã quen

Nói điều chẳng phải lồng lên chửi à?”

Miệng nói “đánh” roi da lại quất

Quý nhịn đau, nghiến chặt hàm răng

Gió vàng cuộnc cát bay tung

Lòng Hương đau đớn tưởng chừng dao đâm

Một trận roi, một lần lặng ngắt

Hương thấy mình bị quất vào da

Mặt bừng rồi trắng nhợt ra

Nén dòng nước mắt xót xa trong lòng

Lặng im, tai nóng bừng bừng

Hương như người chết, mắt trừng lặng câm

Phải tìm cách cứu người thân

Hương Hương vụt chạy bất thần ra thôn

Chân đi bụng nghĩ bồn chồn

Mạng anh Vương Quý chỉ còn đêm nay

Bác Lưu nhà ở gần đây

Là nơi du kích thường ngày gặp nhau

Phải đem tin báo cho mau

Chậm chân anh Quý còn đâu là đời”

Chiếc khăn da dê

崔二爷他把良心坏,

李德瑞支差一去不回来。

老雀死了公雀飞不出窠,

香香一个人怎过活?

有心去找游击队,

狗腿子照着走不开。

又送米来又送面,

崔二爷想把香香心买转;

请上这个央那个,

一天来劝两三遍;

硬的吓来软的劝,

香香至死心不变;

一天哭了三回,

天天哭九转,

铁石的心儿也变软。

人不伤心不落泪,

羊肚了手巾水淋淋。

羊肚子手巾一尺五,

拧干了眼泪再来哭。

房子后边土坡坡,

了见寨子外边黄沙窝。

沙梁梁高来沙窝窝低,

照不见亲人在那里。

房子前边种榆树,

长的不高根子粗;

手扒着榆树摇几摇,

你给我搭个顺心桥!

隔窗子了见雁飞南,

香香的苦处数不完。

人家都说雁儿会带信,

捎几句话儿给我心上的人:

“你走时树木才发芽,

树叶落净你还不回家!

“马儿不走鞭子打,

人不能回来捎上两句话;

“一圪塔石头两圪塔砖,

你不知道妹妹怎么难;

“满天云彩风吹乱,

咱俩的婚姻叫人搅散。

“五谷里数不过豌豆圆,

人里头数不过咱俩可怜!

“庄稼里数不过糜子光,

人里头数不过咱俩凄惶!

“想你想的吃不进去饭,

心火上来把嘴燎烂。

“阳洼里糜子背洼里谷,

那里想你那里哭!

“端起饭碗想起你,

眼泪滴到饭碗里;

“前半夜想你点不着灯,

后半夜想你天不明;

“一夜想你合不着眼,

炕围上边画你眉眼。

“叫一声哥哥快来救救我,

来的迟了命难活;

“我要死了你莫伤心,

死活都是你的人。

“马高镫短扯首长,

魂灵儿跟在你身旁。”

刘二妈来好心肠,

香香难过她陪上。

得空就来把香香劝:

“可怜的娃娃不要伤心!

“有朝一日游击队回来了,

公报私仇一齐报;

“活捉崔二爷拿绳绑,

狗腿子白军一扫光!”

三十三颗荞麦九十九道棱,

伤心过度香香得了病;

天不下雨庄稼颜色变,

面黄肌瘦变了容颜。

带病做了一双鞋,

含着眼泪交给刘二妈:

刘二妈!这双鞋托付你,

我死后一定要捎给他。

“送去鞋子把话捎:

他只能穿我做这一双鞋子了!”

Bản Dịch

Lão Thôi độc ác làm sao

Ra đi, ông Lý chẳng bao giờ về

Sẻ mẹ chết, sẻ con lìa tổ

Hương một mình khốn khổ cô đơn

Muốn tìm du kích ngoài thôn

Tay sai nó biết chẳng còn cách chi

Mang gạo bánh đi về mua chuộc

Lão Thôi mong chiếm được Hương Hương

Nó lo cầu cạnh đủ đường

Một ngày ba bận nó thường tới khuyên

Nói năng hết cứng lại mềm

Hương dầu đến chết một niềm khăng khăng

Ngày Hương khóc đến ba lần

Lòng nào mà chẳng thương tâm rũ rời

Lòng thương tâm lòng rơi nước mắt

Khăn da dê lệ ướt dầm dề

Chiếc khăn tấc rưỡi một bề

Vừa lau ráo đã ủ ê khóc hoài

Phía sau phòng dãy dài cồn đất

Trông ra ngoài bát ngát hoàng sa

Lúa vàng cao thấp gần xa

Trông ra chẳng thấy đâu là người thân

Kìa cây du trồng gần trước cửa

Du vừa tầm, dưới gốc du to

Lắc du, Hương muốn dặn dò

Nhờ du bắc hộ cầu cho tới người

Nhìn qua song, nhạn về Nam vội

Nỗi đau lòng nói mãi còn nguyên

Về Nam nhạn biết đưa tin

Đề thư gửi nhạn đưa liền tới nơi:

“Khi anh đi lộc đâm chồi nảy

Lá rụng rồi chẳng thấy anh đâu

Không đi, ngựa phải quất mau

Không về, phải gửi vài câu tới người

Một hòn đá với hai hòn gạch

Anh biết em khổ cực làm sao

Trời mây gió thổi ào ào

Ái ân thôi đã bắt đầu chia tan

Có hột gì tròn hơn hột đỗ

Có ai người cực khổ bằng ta

Gì đau như gạo xay ra

Có ai đau khổ hơn ta một đời

Nhớ anh hoài, cơm nhai khó nuốt

Lòng như thiêu, miệng xốp cả rồi

Lúa trong tối, lúa ngoài trời

Ở đâu em nhớ, đó hoài khóc than

Bưng bát cơm em càng nhớ tới

Nước mắt hoà với miếng cơm đêm

Nhớ anh không thắp nổi đèn

Nhớ anh gần sáng trời thêm tối trời

Mắt không ngủ nhớ hoài nhớ nữa

Vẽ hình anh xuống giữa giường xem

Gọi anh mau lại cứu em

Anh mà đến chậm đời thêm khó lòng

Em dẫu chết anh đừng thương xót

Chết hãy còn yêu một mình anh

Ngựa cao, bàn ngắn, sát mình

Hồn em sẽ ở bên anh đời đời”

Bác Lưu thật là người tốt bụng

Qua nhà Hương thường cũng hỏi han

Khuyên Huơng những lúc rảnh rang:

– “Hương ơi! Chị chớ đau thương quá nhiều

Quân du kích một chiều sẽ tới

Thù công tư báo cả hoà hai

Đem dây trói sống lão Thôi

Quét tan giặc trắng, hết đời tay sai”

Mười hạt mì, ba mươi cạnh khía

Thương tâm nhiều Hương bị ốm đau

Không mưa, rũ héo hoa màu

Ốm đau quá đỗi, gầy hao mặt mày

Ốm đau khâu một đôi giày

Khâu giày gửi lại, mắt đầy lệ rơi:

– “Bác Lưu! giày mới của tôi

Tôi dù có chết, bác thời trao tay

Gửi đi, bác dặn câu này:

Rằng anh đi một đôi giày ấy thôi”

Hai đồng bạc 两块洋钱

太阳落山红艳艳,

香香担水上井畔。

井里打水绳绳短,

香香弯腰气直喘。

黑呢子马褂缎子鞋,

洼洼里来了崔二爷。

一颗脑袋象个山药蛋,

两颗鼠眼笑成一条线。

张开嘴了见大黄牙,

顺手把香香捏了一把:

“你提不动我来帮你提,

绣花手磨坏怎个哩?”

“崔二爷你守规矩,

毛手毛脚干啥哩!”

“小娇娇你不要恼,

二爷早有心和你交。

“大米干饭羊腥汤,

主意早打在你身上。

“交了二爷多方便,

吃喝穿戴由你拣。”

香香又气又害羞,

担上水捅往回走。

崔二爷紧跟在后边,

腰里摸出来两块钱:

“二爷给你两块大白洋,

拿去扯两件花衣裳。”

香香的性子本来躁,

自幼就把有钱人恨透了。

一恨一家吃不饱,

打下的粮食交租了;

二恨王贵给他揽工,

没日没夜当牲畜。

脸儿红似石榴花:

“谁要你臭钱干什么!”

“死丫头你不要不识好,

惹闹了二爷你受不了!”

挨骂狗低头顺着墙根走,

崔二爷的醋瘾没有过够:

“井绳断了桶掉到井里头,

终久脱不过我的手。

“放着白面你吃铪铬,

看上王贵你看不上我!

“王贵年轻是个穷光蛋,

二爷我虽老有银钱。

“铜罗里筛面落面箱,

王贵的命儿在我手上。

“烟洞里卷烟房梁上灰,

我回去叫他小子受两天罪!”

Bản Dịch

Mặt trời khuất núi hừng hừng

Hương Hương đi gánh ít thùng nước trong

Giếng quá sâu đài không xuống tới

Cúi khom người thở dốc từng hơi

Từ đâu bỗng thấy lão Thôi

Ngựa đen, giày đoạn, tới nơi vội vàng

Đôi mắt chuột cười càng híp ú

Cái đầu như một củ khoai lang

Nhe răng mốc thếch mốc vàng

Nắm Hương nó hỏi sỗ sàng lả lơi:

– “Em không tới ta thời giúp đỡ

Bàn tay thêu không sợ hỏng sao?”

– “Ông Thôi đứng đắn không nào

Chân tay lại muốn đụng vào ai kia?”

– “Cô em xinh chớ hề nóng nảy

Ông hai đây muốn lấy em về

Cơm thơm ăn với canh dê

Lòng ta thật muốn em về hưởng chung

Về nhà ta ăn sung mặc sướng

Tha hồ theo ý muốn của em”

Thẹn thùng, khí giận xông lên

Hương Hương cất gánh rảo liền bước đi

Lão Thôi vội chạy gần đến sát

Rồi rút hai đồng bạc trong lưng:

– “Ông cho số bạc hai đồng

Áo hoa vài bộ, em cầm mà may”

Tính Hương Hương thường hay nóng nảy

Vốn xưa nay ức mấy nhà giàu

Nhà mình ăn cháo ăn rau

Bao nhiêu thóc gạo nộp vào lúa tô

Ức Vương Quý làm cho chủ đất

Không khác chi con vật đêm ngày

Hương như hoa lựu đỏ gay:

– “Thứ tiền bẩn thỉu nhà bay ai cần”

– “Con kia phải liệu lấy thân!

Trêu ông, khổ sở có lần với ông”

Cúi đầu Hương gánh cho xong

Mặc cho con chó sủa rông sủa càn

Lão Thôi điên lộn ruột gan

Lồng lên doạ dẫm chẳng làm chi ai:

– “Đài đứt dây, đài rơi xuống nước

Đi đâu mày thoát được tay tao?

Ghét cơm mày sẽ ăn rau

Mày coi thằng Quý hơn tao thế à?

Nó còn trẻ cũng là thằng ở

Tao già đây nhưng có bạc vàng

Trên sàng, bột lọt xuống rương

Mạng thằng Vương Quý tao đương nắm mà

Khói lên, đen cột đen nhà

Về tao coi tội nó ba bốn ngày”.

Xem thêm:  Top 13 Bài thơ hay nhất về hoa bằng lăng

Hái rau đắng 掏苦菜

山丹丹开花红姣姣,

香香人材长得好。

一对大眼水汪汪,

就象那露水珠在草上淌。

二道糜子碾三遍,

香香自小就爱庄稼汉。

地头上沙柳绿蓁蓁,

王贵是个好后生。

身高五尺浑身都是劲,

庄稼地里顶两人。

玉米开花半中腰,

王贵早把香香看中了。

小曲好唱口难开,

樱桃好吃树难栽;

交好的心思两人都有,

谁也害臊难开口。

王贵赶羊上山来,

香香在洼里掏苦菜。

赶着羊群打口哨,

一句曲儿出口了:

“受苦一天不瞌睡,

合不着眼睛我想妹妹。”

停下脚步定一定神,

洼洼里声小象弹琴:

“山丹丹花来背洼洼开,

有那些心思慢慢来。”

“大路畔上的灵芝草,

谁也没有妹妹好!”

“马里头挑马四银蹄,

人里头挑人就数哥哥你!”

“樱桃小口糯米牙,

巧口口说些哄人话。

“交上个有钱的花钱常不断,

为啥要跟我这个揽工的受可怜?”

“烟锅锅点灯半炕炕明,

酒盅盅量米不嫌哥哥穷。”

“妹妹生来就爱庄稼汉,

实心实意赛过银钱。”

“红瓤子西瓜绿皮包,

妹妹的话儿我忘不了。

“肚里的话儿乱如麻,

定下个时候说说知心话。”

“天黑夜静人睡下,

妹妹房里把话拉。

“满天的星星没有月亮,

小心踏在狗身上!”

Bản Dịch

Cây bách hợp nở hoa hồng rực rỡ

Lý Hương Hương đến tuổi trưởng thành

Mắt to gợn nước long lanh

Giống như sương đọng trên nhành cỏ tươi

Xay ba thôi được vài hạt tấm

Người cấy cày Hương vẫn mến yêu

Liễu bờ xanh biếc bao nhiêu!

Lớn lên Quý đã đủ điều giỏi giang

Sức vạm vỡ cao chừng thước rưỡi

Việc ngoài đồng làm giỏi bằng hai

Hoa ngô nở giữa thân cây

Nhìn Hương, Quý đã mến ngay buổi đầu

Bài ca hay miệng sao khó hát

Anh đào ngon cây thật khó trồng

Tình yêu đã sẵn trong lòng

Nhưng lại thẹn thùng chưa nói nhau nghe

Quý thường lên núi chăn dê

Hương thường ra ruộng hái về rau tươi

Đuổi dê vừa huýt gió chơi

Quý cao giọng hát gửi người mến yêu:

– “Khổ cả ngày không sao nhắm mắt

Nằm chập chờn anh nhớ tới em…”

Dừng chân chú ý nghe xem

Dưới đồng vẳng tiếng hát lên đậm đà:

– “Cây bách hợp dưới đồng hoa nở chói

Ai có lòng cứ chậm rãi mà sang”

– “Cỏ linh chi mọc bờ đàng

Có em nào tốt được bằng em đâu”

– “So đầu ngựa chẳng đều nhau

So người, anh tốt ai đâu sánh bằng”

– “Miệng anh đào hàm răng như gạo trắng

Miệng khéo lời ai chẳng biết em

Muốn tiền tiêu, lấy kẻ nhiều tiền

Theo chi người đi ở nghèo hèn phải chịu đau thương”

– “Đèn thắp lên nửa giường toả sáng

Anh dẫu đói nghèo em chẳng hiềm chi

Đói nghèo em vẫn yêu vì

Tấm lòng là trọng, quý chi bạc vàng”

– “Vỏ dưa xanh, ruột dưa càng đỏ

Một lời em anh thật khó mà quên”

– “Bây giờ bối rối lòng em

Chuyện lòng ta sẽ nói thêm bữa nào”

– “Đến đêm nào khoảng vào canh tối

Đến nhà em ta sẽ nói cùng nhau”

– “Trời không trăng, thấp thoáng vì sao

Anh coi chừng chó kẻo dẫm vào dưới chân

Làm cách mạng 闹革命

三边没有树石头少,

庄户人的日子另打算。

羊群走路靠头羊,

陕北起了共产党。

领头的名叫刘志丹,

把红旗举到半天上。

草堆上落火星大火烧,

红旗一展穷人都红了。

千里的雷声万里的闪,

陕北红了半个天。

紫红键牛自带耧,

闹革命的心思人人有。

前半晌还是个庄稼汉,

黑夜里背枪打营盘。

打开寨子分粮食,

土地牛羊分个光。

少先队来赤卫军,

净是些十八九的年轻人。

女人们走路一阵风,

长头发剪成短缨缨。

上河里涨水下河里混,

王贵暗里参加了赤卫军。

白天到滩里去放羊,

黑夜里开会闹革命。

开罢会来鸡子叫,

十几里路往回跑。

白天放羊一整天,

黑夜不眨一眨眼。

身子劳碌精神好,

闹革命的心劲高又高。

五个手指头不一般长,

王贵的仇恨比天高:

活活打死老父亲,

而今又要抢心上的人!

牛马当了整五年,

崔二爷没给过一个工钱。

崔二爷来胡打算,

修寨子买马又招兵。

地主豪绅个个凶,

崔二爷是个大坏蛋!

庄户人个个想吃他的肉,

狗儿见他也哼几哼。

众人向游击队长提意见,

早早的打下死羊湾。

心急等不得豆煮烂,

定下个日子腊月二十三。

半夜先捉定崔二爷,

到天明大队开进死羊湾。

定下计划人忙乱,

–后天就是二十三。

Bản Dịch

Vùng Tam Biên ít đá không cây

Người cày thuê khó qua ngày đoạn tháng

Trời không mây ruộng đồng đại hạn

Khó qua ngày phải liệu tính toan

Bầy dê đi phải có đầu đoàn

Đảng Cộng sản dấy lên từ Thiểm Bắc

Cờ đỏ cắm lưng trời cao ngất

Có ông Lưu rồi đến ông Cao

Lửa xuống cồn khô, lửa cháy rào rào

Cờ đỏ phất người nghèo đều đỏ thắm

Sấm nghìn dặm, chớp xa muôn dặm

Ngày càng mau đỏ thắm khắp nơi

Nghé tơ mang ách lâu rồi

Đi làm cách mạng lòng người ước mong

Buổi trưa đi làm công ngoài ruộng

Buổi tối về vác súng mang gươm

Đánh đồn lấy gạo, chia lương

Bò dê, ruộng đất cũng thường chia dân

Đội thiếu niên với đoàn xích vệ

Đều những người tuổi trẻ đứng ra

Đi đường, một trận gió qua

Chị em mái tóc hoá ra ngắn rồi

Lũ tràn, nước đục về xuôi

Quý cùng mọi người vào xích vệ quân

Ngày đi coi ngó bò ăn

Đêm về khai hội họp bàn đấu tranh

Họp xong gà đã gáy canh

Đường xa mười dặm phải nhanh chân về

Suốt ngày lại phải chăn dê

Tối tối đi về, mất ngủ không yên

Người lao động lòng thêm vững mạnh

Tấm lòng vì cách mệnh càng cao

Bàn tay ngón chẳng đều nhau

Tấm lòng Vương Quý ai đâu sáng cùng

Ai căm thù chỉ bằng dãy núi

Quý căm thù so với trời cao:

Giết cha còn nhớ năm nào

Người yêu nó cũng mưu sao cướp về

Năm năm kiếp ngựa ê chề

Một đồng nó cũng không hề giả cho!

Lão Thôi cứ tha hồ làm bậy

Nó đêm ngày sửa trại nuôi quân

Hiểu sâu địa chủ hào thân

Lão Thôi còn độc ác hơn mọi thằng

Dân cày muốn được ăn thịt nó

Gặp nó đâu, chó cũng sủa vang

Trông mong du kích về làng!

Đánh cho tan bến Tử Dương rửa hờn

Nóng lòng không đợi chín cơm

Hăm ba tháng chạp định hôm kéo về

Tóm lão Thôi ngay khi còn tối

Sáng ngày sau đánh tới Tử Dương

Họp xong giải tán vội vàng

Hăm ba tháng chạp rõ ràng là mai

Lão hai Thôi thu tô 一 崔二爷收租

公元一九三0年,

有一件伤心事出在三边。

人人都说三边有三宝,

穷人多来富人少;

一眼望不尽的老黄沙,

那块地不属财主家?

一九二九年雨水少,

庄稼就象炭火烤。

瞎子摸黑路难上难,

穷汉就怕闹荒年。

荒年怕尾不怕头,

第二年的春荒人人愁。

掏完了苦菜上树梢,

遍地不见绿苗苗。

百草吃尽吃树杆,

捣碎树杆磨面面。

二三月饿死人装棺材,

五六月饿死没人理!

窑里粮食霉个遍,

崔二爷粮食吃不完。

穷汉饿得皮包骨,

崔二爷心狠见死他不救。

风吹大树嘶啦啦响,

崔二爷有钱当保长。

一个算盘九十一颗珠,

崔二爷牛羊没有数数。

三十里草地二十里沙,

那一群牛羊不属他家?

烟洞里冒烟飞满天,

崔二爷他有半个天;

县长跟前说上一句话,

刮风下雨都由他。

天气越冷风越紧,

人越有钱心越狠!

天旱庄稼没收成,

庄户人家皱眉头;

打不下粮食吃不成饭,

崔二爷的租子也难还。

饿着肚子还好过,

短下租子命难活!

王麻子三天没见一颗米,

崔二爷的狗腿子来催逼。

舌头在嘴里乱打转,

王麻子把好话都说完。

“还不起租子我还有一条命,

这辈子还不起来世给你当牲畜”

“短租子,短钱,

短下粮–老狗你莫非想拿命来抗”

一句话来三瞪眼,

三句话来一马鞭。

狗腿子象狼又象虎,

五十岁的王麻子受了苦。

浑身打烂血直淌,

连声不断叫亲娘。

孤雁失群落沙窝,

邻居们看着也难过。

“冬天穿皮袄为避风,

王麻子短租不短你的命;

“房子家产由你们挑,

打死他租子也交不上!”

毛驴撞草垛没长眼,

狗腿子不长人心肝!

一根棍断了又一根换,

白落红起不忍心看!

太阳偏西还有一口气,

月亮上来照死尸。

拔起黄蒿带起根,

崔二爷做事太狠心;

打死老子拉走娃娃,

一家人落了个光塌塌!

冬天里草木不长芽,

旧社会的庄户人不如牛马!

Bản Dịch

Trung Hoa Dân quốc năm 19

Miền Tam Biên có chuyện đau lòng

Nói rằng của lắm người đông

Mà toàn kẻ đói giàu không mấy người

Phù sa chạy tít chân trời

Đất nào mà chẳng vào nơi nhà giàu

Năm 18 hoa màu thiếu nước

Mùa màng như lửa đốt cháy khô

Người mù đi tối thì lo

Người nghèo chỉ sợ mất mùa thiếu ăn

Mất mùa chỉ sợ cuối năm

Đầu xuân nay đã tối tăm u sầu

Ngoài đồng rau hết từ lâu

Trông ra mặt đất không màu tốt tươi

Đào mả lấy xương người giã bột

Mẹ đói lòng phải nấu thịt con

Tháng ba chết có chiếc hòm

Chết vào tháng sáu chẳng còn ai chôn

Bao thóc gạo chất còn dưới đất

Lão hai Thôi ăn mãi không vơi

Người nghèo như chó đói rã rời

Nó thấy chết không hề giúp đỡ

Gió xào xạc thổi cành đại thọ

Nó nhiều tiền, giữ chức bảo thôn

Bàn tính ai cũng chín mốt hòn

Bo dê nó lại nhiều vô số

Hai mươi dặm phù sa, ba mươi dặm cỏ

Bò dê nào không phải của hai Thôi?

Khói bay lên, khói phủ kín trời

Lão hai Thôi có nửa trời về nó

Lên huyện nói vài câu chi đó

Quyền làm mưa làm gió trong tay

Lạnh nhiều, gió thổi càng gay

Của nhiều, nó lại già tay đè người

Năm 18 nơi nơi mùa mất

Người cày thuê nhăn mặt nhìn nhau

Mất mùa thì lấy cơm đâu?

Lấy gì có thể đủ màu nộp tô?

Đói lòng cũng còn lo chịu được

Thiếu tô đi mạng thực khó còn

Bác Vương Rỗ hết gạo đã ba hôm

Tay sai nó lại đến dồn đến hỏi

Bác xin khất líu mồm líu lưỡi

Rồi tìm lời bác nói cho xuôi:

– “Không nộp tô, còn có mạng tôi

Không nộp được, tôi đến làm trâu ngựa”

– “Mày thiêu tô, gạo tiền thiếu nữa

Đem mạng chó già lần lữa phải chăng!”

Nói một câu nó trợn mắt ba lần

Nói hai câu, nó đánh liền một cái

Thằng chó săn như hùm như sói

Tuổi năm mươi còn phải ê chề

Bác Vương Rỗ máu chảy dầm dề

Bác kêu mẹ kêu cha thê thảm

Lạc mất bầy xa đồng cát vắng

Xóm giềng nghe cũng chẳng dám qua:

– “Tránh gió đông, phải mặc áo da

Thằng Vương Rỗ thiếu tô không thiếu mệnh

Có của gì cho bay cứ gánh

Đánh chết đi, chưa nộp đủ tô ta”

Chở cỏ nhiều, lừa không thể trông xa

Thằng chó săn biết lòng ta sao được

Một roi gãy, nó đổi liền roi khác

Ai nỡ lòng đứng đấy mà coi

Xế chiều thoi thóp chút hơi

Trăng lên đã chiếu vào người chết co

Nó đào cây, đào cho hết gốc

Lão hai Thôi ác độc từ chi

Giết cha, nó bắt con đi

Cửa nhà trống rỗng còn gì nữa đâu

Mùa đông cây chẳng tươi màu

Dân cày như ngựa như trâu một đời

Trên đây chúng tôi đã tiếp tục bài viết tuần trước Hoàng Trung Thông Cùng Những Tác Phẩm Dịch Đặc Sắc Phần 4bằng những tác phẩm dịch vô cùng xuất sắc của ông. Hy vọng những bài viết này sẽ làm hài lòng các bạn. Mời các bạn đón xem phần cuối vào một ngày gần nhất! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi!

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …