Thơ Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt khá đồ sộ với hơn 130 bài. Ở đó ta cảm nhận được nhiều khía cạnh của cuộc sống. Từ những con người bình dị đến các sự kiện lịch sử. Tất nhiên là một nhà hoạt động cách mạng nên Hồ Chí Minh cũng đã dành một phần lớn thời gian, tâm tư để viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Qua đó mà người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã được hình dung và khắc họa một cách rõ nét hơn đối với người dân Việt Nam.
Thơ du kích
Bọn phát xít,
Cướp nước ta,
Nó cướp của,
Nó đốt nhà,
Nó đánh chết trẻ con,
Nó hãm hiếp đàn bà,
Nó bắn thanh niên,
Nó giết người già.
Khổ thế này,
Chịu sao qua,
Ta muốn sống,
Phải tham gia,
Đánh du kich,
Đuổi địch ra.
Bất kỳ trẻ hay già,
Đàn ông hay đàn bà,
Đều ra sức tham gia,
Đánh du kích,
Đuổi địch ra!
Hỡi quốc dân đồng bào,
Tiến lên cả xem nào!
Không có súng,
Ta dùng dao,
Ta dùng cuốc,
Ta dùng cào,
Ta lấy đòn ghính,
Ta nhổ cọc rào,
Hễ thấy địch,
Cứ xông vào,
Đánh cho chúng nhào.
Mỗi người là một chiến sĩ,
Mỗi người là một chiến binh,
Ta nhất định thắng lợi,
Cờ Độc lập phất cao.
Thơ khen tặng hai em nhi đồng liên lạc trong bộ đội chiến khu II
Gửi cháu Phạm Đỗ Hải
Bác được tin rằng:
Cháu làm liên lạc,
Bị giặc bắt được,
Lại trốn thoát ngay.
Mang hai lính Tây
Theo về bộ đội.
Thế là cháu giỏi.
Biết cách tuyên truyền.
Bác gửi lời khen.
Khuyên cháu gắng sức
Học hành, công tác
Tiến bộ luôn luôn.
Gửi cháu cái hôn
Và lòng thân ái.
Gửi cháu Lê Văn Thức
Cháu có can đảm
Giơ súng doạ Tây.
Bắt nó hàng ngay,
Lấy được súng nó.
Vì thành công đó,
Bác gửi lời khen.
Khuyên cháu tập rèn
Ngày càng tiến bộ.
Bác lại gửi cháu
Mấy chục cái hôn.
Tháng 8 năm 1947
Thơ tặng ba cụ lão du kích ở Cao Bằng
Tuổi cao chí khí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.
Thơ tặng báo Độc lập
Năm mới thế cho năm đã cũ,
Báo “Độc lập” của đảng “Dân chủ”.
Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam.
Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ.
Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng,
Để giữ chủ quyền và lãnh thổ.
Chờ ngày Độc Lập đã thành công,
Tết ấy tha hồ bàn với cỗ.
Thơ tặng các cháu nhi đồng
Bác mong các cháu “cho ngoan”
Mai sau gìn giữ giang san Lạc Hồng
Sao cho nổi tiếng Tiên Rồng
Sao cho tỏ mặt nhi đồng Việt Nam.
Thơ tặng cán bộ chiến sĩ công an nhân dân vũ trang
Non xanh nước biếc trùng trùng
Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao
Núi cao, sự nghiệp càng cao,
Biển sâu, chí khí ta soi vào càng sâu.
Thi đua ta quyết giật cờ đầu
Thơ trong nhật ký
Bảy, tám chục năm giời mất nước
Các cụ già uất ức lầm than
Mắt trông nước mất nhà tan
Giống nòi sỉ nhục, giang san thẹn thùng
Đã thấy Phan Đình Phùng khởi nghĩa
Đã thấy vùng Yên Thế đánh Tây
Nước non vẫn…
Thơ vợ gửi chồng đi làm cách mạng
Anh hỡi anh, chồng hỡi chồng,
Từ ngày ly biệt thiếp nay trông mai chờ.
Cha già mẹ yếu con thơ,
Nuôi già dạy trẻ, em cậy nhờ vào đâu?
Đói no bữa cháo bữa rau,
Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn.
Đêm khuya em tự hỏi han,
Vì ai ta phải lìa tan thế này?
Anh nguyên có tội tình gì?
Mà nay cũng phải bắt đi ở tù?
Vì anh muốn chống kẻ thù,
Vì anh lo nước mất, dân ngu, nòi hèn.
Vì anh tranh đấu mấy phen,
Vì anh mong giải phóng cho cháu Tiên con Rồng.
Em xin anh chớ phiền lòng,
Em tuy hèn yếu quyết thay chồng tranh đấu đến nơi.
Đoàn thể ta có ức triệu người,
Ra tay chèo chống cuộc đời nước ta.
Mai sau anh trở lại nhà,
Ánh trăng càng tỏ màu hoa càng nồng.
Thư gửi đồng chí Vương Đàm
Bạn từ Trung Quốc sang đây,
Tặng cho bạn hữu trái cây quá nhiều.
Ăn rồi tấm tắc khen đều,
Cám ơn và chúc bạn nhiều bình yên.
Thư gửi Hy Mã Nghi Bá đại nhân
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cương mới gọi hùng
Vai cứng long lanh ngoài ách tớ
Má đào nóng nảy giới quyền chồng
Lợi chung dầu sẽ mua về được
Kiếp mong chi nài sự có không
Ba hột đạn – thầm hai tấc lưỡi
Sao cho ích giống mấy cam lòng
Thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp xuân Bính Tuất
Năm mới Bính Tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây “Đời sống mới”
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham thàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống “Đời sống mới”.
Thư trung thu 1951
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
Sau đây Bác viết mấy dòng
Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung…
Thư trung thu 1952
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh?
Tính các cháu ngoan ngoãn,
Mặt các cháu xinh xinh,
Mong các cháu cố gắng
Thi đua học và hành.
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ,
Tuỳ theo sức của mình:
Để tham gia kháng chiến,
Để gìn giữ hoà bình.
Các cháu hãy xứng đáng:
Cháu Bác Hồ Chí Minh!
Thư trung thu 1953
9 Tết Trung Thu,
8 năm kháng chiến,
Các cháu khôn lớn,
Bác rất vui lòng.
Thu này Bác gửi thơ chung,
Bác hôn các cháu khắp vùng gần xa,
Thu này hơn những Thu qua,
Kháng chiến thắng lợi gấp ba, bốn lần.
Phát động nông dân,
Cải cách ruộng đất,
Dân đỡ chật vật,
Hăng hái tăng gia.
Xóm gần cho đến làng xa,
No cơm ấm áo, theo đà tiến lên.
Chỉnh huấn, chỉnh quân,
Bộ đội cố gắng,
Quyết chiến quyết thắng,
Diệt giặc lập công.
Khắp nơi Nam, Bắc, Tây, Đông,
Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay.
Các cháu vui thay!
Bác cũng vui thay!
Thu sau so với Thu này vui hơn.
Thư trung thu 1956
Nhân dịp Tết Trung thu
Thân ái chúc các cháu:
Vui vẻ, mạnh khoẻ,
Đoàn kết chặt chẽ.
Thi đua học hành,
Tiến bộ mau lẹ.
Thư vợ gửi chồng
Ba bốn năm trời luống nhớ thương
Nhớ chàng lưu lạc tại tha hương
Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp
Luỵ nhớ e chưa ráo mắt chàng
Thù nước thù nhà chàng gắng trả
Việc nhà việc cửa thiếp xin đương
Bao giờ đuổi sạch quân thù địch
Ta sẽ sum vầy ở cố hương
Tình hình Trung Đông
Trung Đông bão táp vừa bùng nổ
Bỗng chốc lôi đình lại tạm câm
Khốn khổ vì ai cho đến nỗi
Anh em Ả Rập phải thương tâm.
Trông người ta lại ngẫm phần ta
Sách lược của ta ta định ra
Đừng để cho ai xoay chuyển nó
Cuối cùng thắng lợi ắt về ta.
Trẻ chăn trâu
Trên đồi cỏ mọc xanh xanh,
Một đàn cò đậu ngoài ghềnh xa xa,
Trâu bò lũ bảy, lũ ba,
Ven đồi chen chúc bụi già, cỏ non.
Chăn trâu mấy trẻ con con,
Cùng nhau xướng hát véo von trên gò:
“Vì ai, ta chẳng ấm no?
Vì ai, ta đã phải lo cơ hàn?
Vì ai, cha mẹ nghèo nàn?
Vì ai, nhà cửa, giang san tan tành?
Vì ai, ngăn cấm học hành?
Vì ai, ta phải chịu vành dốt ngây?
– Ấy là vì Nhật, vì Tây
Ra tay vơ vét, đoạ đày chúng ta;
Làm ta tan cửa, nát nhà,
Trẻ con vất vả, người già đắng cay.
– Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây.
Anh em ta mới có ngày vinh hoa.
“Nhi đồng cứu quốc” Hội ta,
Ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh.
Ấy là bộ phận Việt Minh,
Dân mình khắc cứu dân mình mới xong”.
Trẻ con
Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan,
Chẳng may vận nước gian nan,
Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng.
Học hành, giáo dục đã không,
Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa.
Sức còn yếu, tuổi còn thơ,
Mà đã khó nhọc cũng như người già!
Có khi lìa mẹ, lìa cha,
Đi ăn ở với người ta bên ngoài.
Vì ai mà đến thế này?
Vì giặc Nhật với giặc Tây bạo tàn!
Khiến ta nước mất, nhà tan,
Trẻ em cũng phải cơ hàn xót xa.
Vậy nên con trẻ nước ta
Phải đoàn kết lại để mà đấu tranh!
Kẻ lớn cứu quốc đã đành,
Trẻ em cũng phải ra dành một vai.
Bao giờ đánh đuổi Nhật, Tây,
Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng.
Trồng cây
Muốn làm nhà cửa tốt
Phải ra sức trồng cây.
Chúng ta chuẩn bị từ ray,
Dăm năm sau sẽ bắt tay dựng nhà.
Tư cách một người cách mệnh
Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hoà mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể.
Tức cảnh Pác Bó
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
Thành Đồng trống thắng lay lầu trắng
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu.
Việt Nam độc lập
“Việt Nam độc lập” thổi kèn loa,
Kêu gọi nhân dân trẻ lẫn già.
Đoàn kết vững bền như khối sắt,
Để cùng nhau cứu nước Nam ta!
Việt Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cậy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lý giết hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang Sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Dám xin đại quốc soi qua chút nào.
Một xin tha kẻ đồng bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc biệt bất công
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành
Ba xin rộng phép học hành
Mở mang kỹ nghệ, tập tành công thương
Bốn xin được phép hội hàng
Năm xin nghĩ ngợi nói bàn tự do
Sáu xin được phép lịch du
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền.
Tám xin được cử nghị viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công dân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp dân nức tiếng xưa nay.
Đồng bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự do.
Rộng xin dân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Dịch mấy chữ quốc âm bày tỏ
Để đồng bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lý, đoạ đày dã man
Nay gặp hội khải hoàn hỉ hả
Tiếng vui mừng khắp cả đồng dân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì dân khôn
Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự do
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý dài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa
Bài sớ ứng khẩu ở Chỉ Thôn
Nam mô Phật Tổ Như Lai,
Chúng sinh nheo nhóc dưới trời Tây phương.
Trăm tầng áp bức thảm thương,
Thân gầy như củi, xác nhường thây ma.
Đâu là phúc đẳng hà sa?
Đâu là cõi Phật, đâu là cảnh tiên?
……….
Nam mô Bồ tát Thế tôn,
Tiếp dẫn linh hồn về Mạc Tư Khoa.
Đấy là phúc đẳng hà sa,
Đấy là hạnh phúc, đấy là thần tiên.
……….
……….
Quân giặc Nhật thật là tàn ác,
Vừa rồi đây oanh tạc Pô Chai.
Kiều bào mấy chục mạng người,
Thây tan thịt nát quê người thảm thê.
Khóc than cũng khôn bề cứu sống,
Phải vùng lên như đấng Thiên vương.
Thù nhà nợ nước đôi đường,
Đã vì người chết, càng thương giống nòi.
Đừng tin vào số mệnh trời,
Mà do quân Nhật giết người gây nên.
Hồn ơi, hồn có linh thiêng!
Hãy cùng người sống báo đền nước non.
Người còn thì nước phải còn.
Những câu thơ cuối các chương trong ‘’Nhật ký chìm tàu’’
1. Mênh mông trên biển dưới trời
Một hòn hoang đảo ba người lưu ly.
2. Lạ thay trong chiếc tàu này
Cái gì cũng khác tàu Tây mình làm.
3. Gió cao tiếng hạc càng cao
Ba quân chỉ ngọn cờ đào kéo ra.
4. Rằng nay bốn biển một nhà
Cùng là bè bạn cùng là thân yêu.
5. Công nông Nga có ngày nay
Cũng đà nếm mật nằm gai mấy lần.
6. Sung sướng thay thợ thuyền Nga
Ngày làm ngày nghỉ đều là có lương.
…..
Công xã thất bại nhưng mà
Ảnh hưởng công xã sâu xa vô cùng:
Nước Nga cách mạng thành công,
Cũng bởi công xã treo gương sau này.
Anh em hỡi gặp ngày kỷ niệm (18 -3?)
Nghiên cứu tường lành nghiệm lớn lao
Rồi đem phổ biến cho nhau…
7. Bần nông có ruộng mà cày
Cũng bởi cách mạng ra tay đỡ đầu.
8. Lẻ loi đã tốn lại hao
Chung nhau hợp tác, đường nào lợi hơn?
9. Sách là bổ ích tinh thần
Sách mà vào tới tai dân mới là.
10. Sách là thuốc chữa tội ngu
Dân Nga ham sách nên mau thịnh cường.
11. Công nông gìn giữ nước nhà
Dân là dân lính, lính là lính dân.
….
Khắp năm châu phận đàn bà
Có đâu mà được như Nga bây giờ?
20. Từ khi mới lọt lòng ra
Trẻ con đã được dân Nga phù trì.
21. Trẻ con khôn lớn lạ đời
Cũng bởi cách mạnh dạy cách nuôi phải đường.
22. Rằng đây bốn bể một nhà
Vàng đen trắng đỏ đều là anh em.
23. Đế quốc Pháp!
Mày ơi mày!
Nan đào thoát
Về phương Tây…
Sắp đến ngày
Mày tan xác.
Dân Nga cách mạng thành công
Dạy cho dân tộc Á Đông cách làm.
24. Bâng khuâng muốn ở muốn về
Đem lời vàng đá đền nghì công nông.
Kết luận:
Không bột sao gột nên hồ
Tay không xốc nổi cơ đồ, cừ không?
Như vậy chùm thơ Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt đã chính thức được khép lại. Với các chùm thơ này ta có thể cảm nhận được các bài thơ hay của tác giả này. Đó cũng chính là những trăn trở, suy tư của một nhân cách lớn. Hy vọng bạn đã hiểu thêm về Hồ Chí Minh cũng như con người của người dưới tư cách là một nhà thơ. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay nhất bạn nhé!
Theo Thuvientho.com