Home / Chùm thơ chọn lọc / Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 4

Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 4

Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 4

Nhắc đến Hoàng Cầm chúng ta không thể không nói đến những trang thơ lừng danh của ông. Nhà thơ có một quan niệm nghệ thuật chân thành, giản dị vừa mới mẻ, hiện đại chính là một tấm gương sáng để các nhà thơ trẻ học tập và noi theo. Nếu bạn yêu thích thơ ca, thì chắc chắn sẽ không thể bỏ qua những trang thơ nổi tiếng của ông được phải không nào! Hãy cùng Thuvientho.com cảm nhận và khám phá nhé!

Đoạn 1

… Khuya rồi tiếng hát ai nghe đó? Cười hộ người điên cuộc đổi thay

Ngay đêm hôm ấy, trong một căn hầm nhà ngục.

Tường đá nặng nề như đè chặt lấy người.

Một cửa giữa, có bậc đá lên mặt đất.

Một cửa bên thông sang hầm bên cạnh.

Trong hầm, một chiếc chõng tre, chỗ nằm của

Người Què. Một bình nước. Đầu chõng: một ngọn nến.

Khi mở màn, văng vẳng tiếng chiêng trống

Từ một bãi pháp trường đang xử trảm tội nhân,

Người Què đang nằm bỗng chống tay ngồi dậy nghe ngóng.

Tiếng chiêng trống mỗi lúc một rõ. Lúc đó vào đầu giờ Tuất.

Người què:

Lại chém người! Chúa Nguyễn lại chém người!

(Một lát)

Khi gà lên chuồng,

Lũ oan hồn rền rĩ khắp non sông

Còn nói chi người giả dại, giả ngông

Lấy men rượu mở tấm lòng khí tiết

Còn nói chi người đề thơ lá biếc

Gửi tin về Chúa cũ sóng đưa veo

Còn nói chi người luyện võ lưng đèo

Đem tuổi trẻ gửi bánh xe vong quốc

Chết là hết! khi bàn cờ tàn cuộc

Thì mặc chàng tiểu tốt tạo thời cơ

Ai khôn ngoan nên vào ngục đợi chờ

Sự thắng bại mặc giời cao xếp đặt.

Tiếng Kiều Loan (bên cạnh hát véo von):

Sống chật đất, chết thêm dầy đất

Thà tan theo trăng rõi chân mây

Tìm hơi thở cũ mà say

Hát trên nội cỏ với bầy ma thiêng.

Người què (cười):

Giọng hát những người điên

Nghe ra nhiều lý thú

Bây giờ chưa muốn ngủ

Thì mời bạn sang chơi

Gây lấy một cuộc cười

Cho nhà tù đỡ rét

(Chợt buồn rầu, se sẽ ngâm)

Ba năm chẳng biết giăng tròn khuyết

Đêm nay giăng xế đến đâu rồi?

Mắt ta nhìn mãi tường rêu đá

Cũng hoá thành giăng lạnh lẽo soi

Ta mất đêm rằm quê vợ cũ

Mất ngày rồng rắn tuổi lên mười

Vợ ta trách mãi người trong ngục

Quên bẵng tình giăng muôn dặm khơi

Ví ta mượn cánh con chim nhạn

Sẽ vút trời xanh thăm thẳm sâu

Mỏ ngậm giăng về thăm vợ cũ

Nhìn xem ngực yếm có phai mầu!

Đoạn 2

(Lại tiếng chiêng trống. Lần này Người Què nép vào một xó tường như muốn trốn tránh tiếng chiêng trống quái ác)

Người què (giọng run run):

Đừng chém người! Thôi hãy cất đao!

(Ngục quan mở cửa từ bậc đá cao bước xuống.

Người Què hốt hoảng nép vào một xó khác)

Ngục quan:

Này ông què! Có chi mà hoảng sợ?

Tôi đây mà!

Người què (nhận kỹ):

Trời! Ngục quan! Tôi nhớ

đêm trước gặp ma, hình dạng cũng thế này

Ngục quan (cười):

Tôi là ma vào chộp vía ông đây

(Dằn giọng)

Này, đêm mai đến lượt ông đứt cổ!

Người què:

Thế cũng hay! Dễ thường tôi tốt số!

Ăn cơm tù đã ngấy đến mang tai

Rụng cái đầu, hồn lại được thảnh thơi

Ngục quan:

Nói đùa thế, chứ ông thì… ai nỡ!

Người què:

Thế càng hay, vợ chờ ngày đoàn tụ

Được vỗ cái lưng còng

Được vuốt cái râu bông

Ngục quan:

Đừng đùa nữa! Tội ông là chết chém

Từ lâu rồi

Người què (cúi đầu kính cẩn một cách khôi hài):

Nhờ ơn đức Chúa công!

Ngục quan:

Chính là nhờ một bận ông chơi ngông

Đánh thuốc độc giết ngon tên phản nghịch

Là con trai quan Đô thống Nguyễn Viêm

Nên cái đầu, cái cổ vẫn y nguyên

Ông khá lắm!

Người què:

Thì cũng cho hắn nếm

Vị thuốc tiên, ngọt hơn là chết chém

Công lao gì! – Tôi thương hắn mà thôi!

Ngục quan:

Ấy nhờ ông mà nó chết xong xuôi

Quan Đô thống ngỡ thằng con tự tử

Không oán hận gì. Chúa công càng tỏ rõ

Lòng chí nhân, hạ chỉ tha kẻ thù

Ngay sau khi thằng chó chết uống no

Liều thuốc độc. Lão Nguyễn Viêm càng ra sức

Đái tội lập công. Ông què tài thực!

Người què:

Thế là tôi đỡ rụng cái đầu bù

Tưởng được về quê thăm mẹ đĩ thằng cu

Ai ngờ vẫn có duyên cùng ngục đá

Hôm nay lại chém người! Nghe chán quá!

Ngục quan:

Thôi, ông ơi! Mai ông sẽ được tha!

Người què (bĩu môi):

Quan lớn nói đùa!

Ngục quan:

Nói thật đấy mà!

Đây này, vợ ông từ miền xa Quảng Ngãi

Có viết đơn trần tình lên bộ Lại

Xin tha chồng! Lời lẽ chắc hay ghê

Nên nghe đồn Chúa thượng đã chuẩn phê…

Người què:

Ai tin được!

Ngục quan:

Tôi được lệnh từ sáng

Phải đối xử với ông ra tình bầu bạn

Người què:

Lệnh của ai?

Ngục quan:

Lệnh quan Hình Thị lang

Thôi, sớm mai ông được trở về làng

Có ngựa cưỡi, chúa cho mười lạng bạc

Người què:

Thế càng hay! Sắm được cỗ áo quan

Khiêng về quê, làm quà cho vợ cũ

Ngục quan:

Tôi nghe đồn vợ ông rất hay chữ,

Con gái cụ Nghè. Còn xuân lắm phải không?

Người què:

Xuân hay thu, nào ai biết!

Ngục quan:

Thương chồng

Mà lặn lội về kinh kỳ kêu khóc

Thấu đến tai vua. Thật là tài đức!

Người què:

Nó về tận đây? Chuyện có thật chăng?

Hay lại tào lao, tin nhảm, đồn xằng?

Ngục quan:

Chuyện thật đấy. Thôi này, tôi bảo nhỏ:

Muốn được yên vui về nhà với vợ

Cầm lấy cái này.

(Ngục quan dúi vào tay người què một gói giấy đỏ)

Người què (co tay lại):

Lại món thuốc tiên?

Ngục quan:

Cũng y như con trai lão Nguyễn Viêm

Nhưng lần này là một người rất lạ

Vợ một tướng tài, nhiều công hãn mã

Chúa đang tin. – Người đẹp lạ lùng

Không giết ả này thì loạn nổi tứ tung

Mà giết đi… e lòng người oán giận

Lại phải nhờ ông…

Người què:

Đêm nay tôi bận

Những hồn ma vừa đứt cổ ngoài kia

Sẽ vào đây ngồi chuyện gẫu đến khuya.

Ngục quan:

Một lão già và một người gái đẹp

Lại phải nhờ ông! Tôi sẽ tháo xiềng

Giam ở hầm bên cạnh. Này, nói riêng

Cho ông biết: hai người là tướng giặc

Đốt phá nhà dân, moi gan khoét mắt

Cả hài nhi! Tội ác ngập kinh thành!

Người què:

Bịa chuyện làm gì! Giết quách cho nhanh

Ai cũng một lần. Chúa vua cũng chết

Chỉ có khác, người trống chiêng khủng khiếp

Xoẹt cái đầu rơi! người phượng tiễn rồng đưa

Nhạc lâm ly, ngất nghểu ở trên mồ

Lăng với tẩm! Thì cùng ăn đất cả!

Còn bao nhiêu kiếp sống thừa, tàn tạ

Mối đùn trong đầu, mọt nghiến trong xương

Ăn quẩn, nằm quanh chuột gậm chân giường

Vẫn đội mũ, đi hia, tưởng mình còn sống!

Ngục quan:

Thôi! đồ gàn! Nói năng chi lổng chổng

Khó lọt tai! Nhớ đấy, cả hai người!

Đừng để quá nửa đêm! Tôi sắp sẵn rượu rồi

Lúc xong việc, cánh ta làm mấy bát

Tuý luý càn khôn, tha hồ khoác lác

Vua cho cái đùi hươu!

Người què:

Hay cái đùi người?

Ngục quan:

Thật đùi hươu! Ông lẩm cẩm lắm rồi

Đúng đùi hươu! Ta uống say đến sáng

Đã sẵn ngựa, lại có tiền xủng xoảng

Tôi tiễn ông ra tận phía Nam môn

Bà vợ ông mong lắm. Cả thằng con

Lên tám nhỉ! ấy thế là sum họp

Tù mãi mỏi lưng, có người đấm bóp

Ngựa chồng đi, võng vợ cũng liền bên

Ở tù ra mà như đỗ trạng nguyên

Về bái tổ – Ôi chao ôi là sướng!

Người què:

Quái lạ thật! Đời mưa to bão lớn

Kiếp người ta như bụi cuốn trăm phương

Sao con vợ tôi nó lại biết đường

Mò ra được đức ông chồng biệt xứ?

Ngục quan:

Có gì đâu! Ông có công giúp Chúa

Giết im re thằng con lão tướng Nguyễn Viêm

Quan Thị lang mới tra xét họ tên

Và quê quán, sai người về Quảng Ngãi

Dò hỏi nhà ông. Ba gian trống trải

Vợ còn xuân khóc nhớ mấy năm ròng

Quan Thị lang bèn mách rõ tin ông

Xui bà vợ làm đơn mà khiếu khổ

Việc ấy ngự trình… Chúa công đức độ

Rất thương dân, mà lại biết dùng người

Người què:

Biết dùng tôi? Thế càng hay!

Ngục quan

Chúa biết lâu rồi

Giết được kẻ thù mà vẫn thành ân nghĩa

Người què:

Chiêng trống im rồi. Mấy trăm người nhỉ?

Mỗi một đêm vua chém mấy trăm người?

Chúa biết thương dân, biết dụng nhân tài

Chúa lại biết chém người như chém chuối!

Ngục quan:

Thì hẳn thế!

Người què:

Ngày thiên tử bị Tây Sơn đánh đuổi

Lạc lõng trong rừng, lếch thếch kiếm ăn

Chúa đã quen tay chém cỏ chém măng

Nên cái thuật chém người thành giỏi quá!

Ngục quan (lại dúi gói thuốc độc vào tay Người Què)

Thôi, này ông! Cầm lấy đi!

Người què:

Gượm đã

Ngục quan:

Còn gượm à? Sang giờ Tuất lâu rồi

Cầm lấy đi! Bình nước lã chưa vơi

Phải khéo lắm! Họ mà không chịu uống

Thì công lao quan Thị lang thật uổng

Thì Chúa công bất đắc dĩ phải ra tay

Hoặc chém đầu, hoặc thiêu sống hoặc phanh thây…

Làm như vậy Chúa công mang tiếng ác

Thì hỏng cả! – Ông cũng không ra thoát

Cả thân tôi rồi cũng đến tan tành

Ông nên thương người vợ tuổi còn xanh

Con còn bé chờ mong ngoài cửa ngục Cầm lấy nào!

(Lần này Người Què không co tay lại,

như cái máy, bỏ gói thuốc vào túi)

Ngục quan:

Tôi đi tuần một lúc

Cả hai người! Ông nhớ đấy, cả hai người!

Kìa kìa! (nhìn sang hầm bên cạnh)

Cấm binh đã dẫn họ sang rồi

(Ngục quan đi ra ngoài.

Người Què ngả lưng lên chõng, ngâm thơ)

Người què:

Tù hãm ba năm da mốc thếch

Mai về kỳ cọ biết bao xong

Giếng thơi vục cạn lau chùi mãi

Vợ vẫn chê hôi, vẫn bảo nồng!

Than rằng: tù ngục Gia Long

Mùi tanh kết lại chân lông chẳng mòn

Năm sau vợ đẻ thằng con

Trên lưng mang cái bướu tròn đỏ hoe

Nhà vua vác kiếm đến ghè

Ghè ngang, ghè dọc, bướu thè lưỡi ra

Bướu cười: sao dám ghè ta?

Bướu này là bướu ông cha Nguyễn triều!

Xem thêm:  Truyện cổ tích - Nguyễn Bính

Đoạn 3

(Ông Già và Kiều Loan ở hầm bên cạnh sang.

Ông Già nhìn bức tường đá, giơ mười ngón tay cạo…)

Ông già:

Không thoát được! Tường dầy hơn một thước

Chẳng hề rung vì chiêng trống chém người

Chiều mai đây đến lượt đầu ta rơi

Xác vùi dưới chân thành như cỏ héo!

Kiều Loan:

Cụ nhầm đấy! Khi lòng người đã réo

Như sóng bể đông, núi đá cũng chìm

Xương tôi dù bụi trắng

Chí tôi xòe cánh chim đập vỡ tung cửa ngục

Nhằm gió bão đi tìm

Ông già:

Tìm chi nữa! Đến đây là tận số,

cùng đường rồi

Kiều Loan (như mong ngóng một ai đó…):

Đã hẹn nửa đêm nay

Gió sẽ nổi lên, phá vỡ ngục này…

Ông già:

Khó nổi dậy! – Hàng trăm năm loạn lạc

Nghe chuyện binh đao, dân đã chán chường

Lớp lớp đề lao … dù phá sập tường

khó cứu vãn!

Kiều Loan:

Thời cơ rồi sẽ đến!

Ông già:

Máu quánh chân tường, vàng khè lửa nến

Những bộ xương tàn lụi ở quanh đây

đã luyện vào đá lạnh, ngấm tường dầy

Cạo… cạo mãi… lấy một liều thuốc độc

Giữ sao cho cái đầu đừng lăn lóc

trên pháp trường…

Kiều Loan:

Cụ sợ chết lắm sao?

Ông già:

Một hồi chiêng, ba hồi trống, ngọt lưỡi đao

Chúa Nguyễn đốt xương ta làm thuốc nổ

Lấy đầu lâu ta kê cao giường ngủ

Lấy máu ta sơn đỏ cái ngai vàng

Kiều Loan:

Nhưng còn tiếng hát này the thé hồn oan

Vùng đứng dậy bay vào cung chúa Nguyễn

Nó ngủ với cung phi? – Đầu lâu ta rung chuyển

Ken két hàm răng, nó hộc máu giữa giường

Nó ăn tiệc trong lầu? – Nhìn mặt trong gương?

Máu vấy khắp người, rượu căng nổ ruột

Dù chiều mai, đầu này lăn cỏ ướt

Thì đêm nay trong tù, chỉ hát là hơn

Hát thật hay, kết bạn với oan hồn

Ân giả, nghĩa đền, oán thù rửa sạch

Ông già (vẫn cao hứng):

Móng tay nhọn sắc cạo lên tường

Nghe động hồn ma cọ đốt xương

Bụi trắng nghìn năm bay lả tả

Nghe từng triều đại nấc bi thương…

Người què (từ nãy vẫn nằm nghe, bỗng ngồi dậy)

Đừng cạo nữa! Chờ ngày mai chết chém!

Sợ đầu rơi? – Thì đập sọ vào tường

Vỡ óc ngay!

Ông già (chú ý nhìn):

Ai nói giọng ngông cuồng?

Người què:

Ba chúng ta trước khi quỳ chịu chém

Hãy cùng nhau nói vài câu chuyện phiếm.

Ông già:

Người là ai?

Người què:

Tôi là một người tù

Nhờ áo vua cơm chúa đã ba thu

Chờ đợi mãi, chẳng ai thèm đến giết

Giá được tha, tôi cũng đành chịu chết

Vì chân què chẳng biết sẽ về đâu ở đây hơn.

Cơm một nắm, nước lưng bầu

Xương lạnh buốt đã có làn da bọc

Kiều Loan:

Mà lúc ngủ thì tha hồ lăn lóc

Muỗi vo ve thành khúc nhạc Bá Nha

Ai Tử Kỳ, sao vội chết trước ta?

Người què:

Xin nhị vị cho kẻ hèn được biết

Vì cớ gì cũng vào đây đợi chết

Chốn lao tù là quán rượu đó chăng?

Ông già:

Lão ngâm nga cái trò đời biến đổi

Có mười năm lên xuống mấy triều vua

Anh hùng, liệt nữ lần lượt xuống mồ

Người vô dụng sống hoài như cỏ dại

Người què:

Chắc lão trượng ôm giấc mơ vĩ đại

Suốt một đời không đạt mộng cao siêu

Nên ngày nay, cụ tỉnh sớm say chiều

Bất đắc chí, thì hát ngao giăng gió?

Ông già:

Thưa túc hạ, lão tài hèn sức nhỏ

Học làm chi bài lấp biển vá giời

Xét cổ nhân gần hết thuở thiếu thời

Lập được chí thì bóng dương đã xế

Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế

Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh

Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đình

Nơi tù ngục chất đầy người nghĩa khí

Kiều Loan:

Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị

Lau sậy nghênh ngang làm cột trụ giang sơn

Ngầm hại nhau vì danh vọng áo cơm

Ông già:

Kình vào lạch đã hết đường vùng vẫy

Phượng trong sân nhớ những mùa bay nhẩy

Các thanh niên tài trí của non sông

sống buồn tênh, ủ rũ kiếp chim lồng

Kiều Loan:

Riêng có tôi bên vai đeo thanh quất

Dải áo lụa thổi tan màu u uất

Bỏ quê hương vào tít mãi rừng sâu

Gặp anh hùng, quỳ lạy xin theo hầu

Ngài mới phán: ” Đứng lên! Mau ra trận!

Tôi cưỡi con ngựa hồng, tôi lĩnh ấn

Tướng tiên phong, đều lập được kỳ công

Thế mà thoắt đã suy vong

Thành xây bãi cát, tìm không thấy bờ…

Người què:

Người anh hùng là ai đó, thưa cô?

Kiều Loan:

Tôi khóc rằng: tìm đâu ông Nguyễn Huệ?

Đêm mịt mùng, mưa rụng nát vườn hoang…!

Ông già:

Hỡi hồn Tây Sở Bá vương

Cùng ta nhắp chén tà dương ngậm ngùi

Kiều Loan:

Tôi khóc rằng: Tình hỡi tình ơi!

Xe duyên, xe mấy phương trời sợi oan

Người què (rũ ra cười):

Tôi cũng khóc rằng: ơi hỡi hồng nhan

Cớ sao chưa tỉnh giấc vàng bấy lâu?

Tình tang bạc hết mái đầu

Vẫn chưa đi thoát nhịp cầu sông mê!

Một ngày cụ uống mấy trăm be?

Chết đến nơi rồi chưa tỉnh rượu

Ngồi đây tôi kể chuyện này nghe:

Vị anh hùng mà cụ vừa ca tụng

Có phải chăng chỉ là người trong mộng?

Ông già (cười khinh bỉ):

Ô thế ra túc hạ thật vô tâm

chẳng biết gì đến việc nước mười năm!

Người què:

Tôi biết chứ! tôi biết ông Nguyễn Huệ

Với những chiến công lẫy lừng bốn bể

Với gỗ đá dựng xây phường phố, thị thành

Với hai hàng văn võ của triều đình

Với ngô lúa bốn phương trời xanh mướt

Với cung điện nguy nga, thành cao trăm thước

Với chương trình đi lấp biển vá trời

Đều chỉ là trong giấc mộng mà thôi

Và cô nương, và lão trượng và tôi

Ba chúng ta cũng là người trong mộng

Chuyện ngày xưa chỉ còn toàn những bóng

Nhớ làm chi cho mệt cái thân tàn!

Ông già:

Lão khá khen đời túc hạ an nhàn

Chỉ có việc ăn no rồi ngủ kỹ!

Kiều loan:

Nói làm chi với anh què mất trí

Hầm đá ngục tù ai đắp ai xây?

Mộng đấy à? – Thôi nút chặt lỗ tai

Nghe giọng anh, người loãng ra thành nước!

(Đi sang gian ngục bên cạnh)

Đoạn 4

Người què (trông theo):

Xin mời cô nương cứ đi ngủ trước

Chí khí can trường rồi cũng thành ma!

Ông già:

Nào, thử nghe túc hạ nói ba hoa

Còn gì nữa? – Người thảnh thơi như thế

Lại lên giọng kẻ giang hồ bốn bể

Sao hai chân, què một đã bao lâu?

Người què:

Thời trẻ trung, tôi xách kiếm theo hầu

Ông Nguyễn Huệ từ Nam ra xứ Bắc…

Ông già (kinh ngạc và vui mừng):

Ồ! Túc hạ cũng đã từng đánh giặc?

Người què:

Tôi đã từng trông những trận ghê hồn

Rạch Gầm, Gia Định, Thuận Hoá, Quy Nhơn

Nhất là trận Đống Đa năm Kỷ Dậu

Cả trời đất đã biến thành bể máu

Quanh mình tôi, đầu giặc rụng như mưa

Tiếng chuông rền, ngựa hí, tiếng reo hò

Hoà một điệu thảm sầu, thần kinh, quỷ khốc

Tôi tưởng mình vừa sa vào địa ngục

Chợt trông lên: đôi mắt Bắc Bình vương

Lòe lửa xanh, tôi vội vã vung gươm

Răng nghiến chặt mà say sưa chém giết

Ông già:

Gươm Quang Trung kiêu hãnh biết bao nhiêu

Đã chém năm danh tướng của Thanh triều

Người què:

Trận Đống Đa thật vô cùng khốc liệt

Giặc tan hoang xô chạy gãy phù kiều

Khắp sông Hồng vang dậy tiếng người kêu

Nước đỏ thẫm, nghẹn dòng không chảy nữa

Thành Thăng Long năm ngày chưa tắt lửa

Xác giặc phơi đầy Kẻ Chợ đến biên cương

Cờ nêu cao chiến thắng đỏ chiêu dương

Mà rút lại cũng vẫn là giấc mộng!

Ông già:

Túc hạ què khi đánh trận Đống Đa?

Người què:

Tôi đuổi giặc, bất ngờ sa hố rộng

Ngã gãy chân, thành một kẻ bỏ đi

Vua đền công tôi chẳng biết làm gì

Việc ăn ngủ cũng chỉ là giấc mộng

(Cười lớn)

Ông già:

Vào nhà giam như đến nước cờ thua

Ngẫm chuyện đời sao túc hạ vẫn bông đùa?

Người què:

Vua ở ngôi ba bốn năm lồng lộng

Rồi một chiều nhắm mắt bỏ non sông

Mấy mươi nàng cung nữ lệ ròng ròng

Dựng nhà lá bên mồ thề giữ tiết

Đến bây giờ đã lấy chồng gần hết!

(Cười ngặt nghẽo)

Vị Đông Cung thái tử nối ngôi cha

Còn trẻ thơ, nào hiểu việc quốc gia

Giao gánh nặng cho quyền thần hiểm độc

Tham lợi danh, chém giết nhiều, dân không phục

Các nhân tài lần lượt bỏ ra đi

Mớ bòng bòng chẳng biết gỡ bằng gì

Đức Nhị thế nhà Tần ôm mặt khóc!

Ông già:

Là cận thần, chắc túc hạ biết nhiều

về những ngày thê thảm của Tây triều?

Người què:

Phải, sự nghiệp anh hùng đến hồi tàn cuộc

Thì có người thuận gió, giả thù xưa

Một lòng trung, danh tướng ngã theo cờ

Đạo tàn binh vẫn coi thường sinh tử

Các phiên trấn đã thiếu người phòng giữ

Trong mười hôm thất thủ nốt kinh thành

Chân không giày, vua chạy lên rừng xanh

Hoàng thái hậu đành cầm gươm đâm cổ

Các vương phi mỗi người ngồi một chỗ

Dăng áo hồng che mặt khóc thành mưa

Còn các quan, có kẻ chạy theo vua

Cũng có kẻ ra hàng cầu phú quý

Ông già:

Nhưng cớ sao túc hạ chẳng theo vua

lại chịu vào nằm bẹp chốn lao tù?

Người què:

Tôi què chân, không cách gì bay bổng

Để người ta đưa đến chỗ này đây

Ba năm tròn, ngần ấy sự đổi thay

Đời diễn mãi một tấn tuồng giả dối

Trong nhà giam nghe lòng người biến đổi

Nhớ công cha nghĩa mẹ thuở đầu xanh

Đã trót nửa đời theo đuổi hư danh

Việc đợi chết cũng lại là giấc mộng!

(Người Què cười to quá. Quản ngục mở cửa vào)

Xem thêm:  Bài thơ Tiếng gọi đò – Nhà thơ Nguyễn Đình Huân

Đoạn 5

Ngục quan:

Ai cho phép bay nói cười ầm ĩ?

Mai chết chém vẫn chưa thèm để ý

Hay lão già còn muốn nếm cực hình?

Ông già:

Xin đại nhân hãy dẹp nỗi bất bình

Lão mới gặp Người Què đây, bạn cũ

Mai lão chết, xin cho già than thở

một vài câu

(Cởi tấm áo vóc bên trong)

Già chẳng có bạc vàng

Cái áo này chính thực vóc Vân Nam

Giá trăm lạng, xin ngài vui lòng nhận

Ngục quan (ướm áo):

Để ta xem

Ông già:

Lão đi đường bụi bẩn

Giặt qua loa, màu vóc sẽ không phai

Mùa tuyết sương, không cần mặc áo ngoài

cũng đủ ấm

Ngục quan (ôn tồn):

Khuya rồi, nên đi ngủ

Ông già:

Lão xin phép nói vài câu chuyện nữa

Ngục quan:

Nói chuyện gì, không được quá canh hai

Liệu bảo nhau đừng to tiếng cợt cười.

(Mang tấm áo đi)

Đoạn 6

Người què (lại rũ ra cười):

Tấm áo vóc đem quăng vào giấc mộng!

Ông già:

Thưa túc hạ, vậy thì trong kiếp sống

Có cái gì không phải giấc mơ màng?

Người què:

Cụ đứng đây, cụ hãy nhìn qua cửa

Mà tưởng lại các anh hùng liệt nữ

Bắc cầu gươm lên đỉnh núi vinh quang

Hoặc bọn quyền yêm thoán đoạt ngai vàng

Khi thất bại vội ra đường cõng rắn

Hoặc những trung thần theo vua lận đận

Tóc bạc rồi, còn giúp chúa trung hưng

Hoặc những người áo vải tít trên rừng

Kéo cờ nghĩa ào ào quân đổ xuống

Họ phải dựa vào gì, thưa lão trượng?

Ông già:

Dựa vào dân

Người què:

Lão trượng nói đúng rồi

Cái bền lâu là dân nước đó thôi

Đế bá công hầu ngựa xe rầm rập

Lúc đi ngược lòng dân là chết rấp

Làm lợi cho dân thì hương khói phụng thờ

Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to

Dân đạp gí xuống bùn là hết chuyện

(Người Què cười to quá. Ngục quan lại mở cửa vào)

Trong nền thơ ca Việt Nam, Hoàng cầm là một gương mặt sáng giá luôn được đông đảo bạn đọc đón nhận và ca ngợi. Ông đã dệt được một hồn thơ ấn tượng hiếm có nhà thơ nào có thể làm được. Mời các bạn đón xem phần 5 vào một ngày gần nhất nhé! Cảm ơn quý độc giả đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm:Nhà thơ Hoàng Cầm cùng tập thơ Kiều Loan hay nhất mọi thời đại phần 3

Theo Thuvientho.com

Check Also

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Những bài thơ hay về hoa cúc họa mi

Hoa cúc họa mi còn được gọi là hoa cúc dại hay là hoa cúc …